Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.400 tác phẩm
2.747 tác giả
601
116.767.697
 
Edmund Husserl - Suy-Tư Trong Tinh-Thần Descartes- 5
Nguyễn Quỳnh USA

Bản Việt-ngữ của Nguyễn Quỳnh

 

 

SUY-TƯ BỐN

SỰ PHÁT-TRIỂN NHỮNG VẤN-ĐỀ CĂN-BẢN

LIÊN-QUAN TỚI CHÍNH CÁI-TÔI Í-THỨC

 

§ 35. Bàn thêm về tâm-lí nội-tại lí-tưởng.

 

            Chúng ta ra ngoài lãnh-vực khép kín về những suy-tư của chúng ta. Những suy-tư đưa chúng ta tới môn Hiện-tượng Luận sâu sắc có ngĩa là nếu chúng ta thấy rằng với những thay đổi nhẹ nhàng thì toàn thể nội-zung quan-sát có fương-fáp căn-bản vẫn còn là của chúng ta. Trong khi ấy, zựa trên nền-tảng của quan-niệm về thế-jan, chúng ta đi tìm một môn Tâm-lí học có tính khoa-học cụ-thể. Trong mục-đích này, trước hết, chúng ta cố gắng tìm môn Tâm-lí Học trước tiên cần thiết cho chính môn học đó rồi mới cần-thiết cho bất-kì môn Tâm-lí Học nào khác. Ta gọi thứ Tâm-lí ấy có đường-hướng rõ ràng. Bản-ngã có í-thức cao và cụ-thể có liên-hệ tới Bản-ngã con người (human Ego). Nó rõ ràng là bản-ngã có tâm-hồn (psyche) ngay trong chính nó và nó có bản-sắc, vì “Tôi là cái trụ của nhiều tập-quán.” Những tập quán ấy tạo thành bản-sắc của riêng tôi. Thay vì là một fương-fáp Hiện-tượng Luận chúng ta có fương-fáp Tâm-lí Học cao hơn và tinh ròng, liên quan đến tâm-hồn lí-tưởng (eidos psyche). Nhưng chưa ai khai phá lãnh-vực của môn Tâm-lí Học này. Nếu chúng ta để í tới thứ Tâm-lí Học này thì chúng ta có thể hiểu được cái jì gọi là có thể có, tức là cái đưa ta đến môn Hiện-tượng Luận cao nhất, còn gọi là Hiện-tương Luận của bản-ngã có í-thức cao hơn. Bản-ngã này không có một chân-trời nào cả . Chỉ có thứ chân-trời júp chúng ta vượt ra ngoài lãnh-vực của cái tôi có í-thức cao mới júp chúng ta liên kết được với [hiểu được] cái tôi (relativize him).

 

 

§ 36. Bản-ngã có í-thức cao ví như vũ-trụ có nhiều hình-thái có thể đúng theo hoạt-động chủ-quan. Tính hiện-hữu chung của những hoạt-động chủ-quan nằm trong sự cộng-sinh hay sự nối-tiếp theo những định-luật lí-tưởng.

 

           

Sau khi đã có fương-thức mới và quan-trọng cho í-niệm về môn Hiện-tượng Luận ở cấp cao hơn zựa vào fương-fáp lí-tưởng, chúng ta trở về với việc đi tìm những vấn-đề của Hiện-tượng Luận. Thường thì chúng ta giam mình vào trong những jới-hạn của Hiện-tượng Luận thuần lí-tưởng, trong đó bản-ngã cao và cụ-thể có những zữ-kiện đặc-thù vì kinh-ngiệm cao của bản-ngã đã có í-ngĩa quan trọng với zẫn-chứng về những jì còn thuần-túy nằm trong jả-thiết. Cho nên, chúng ta hiểu những vấn-đề có tính lí-tưởng mà chúng ta đã tìm ra. Chúng ta bèn ngĩ ra cách nào có thể làm cho những vấn-đề lí-tưởng này trở thành sự-thật. Muốn đạt được vấn-đề này chúng ta fải zựa trên khám-phá có hệ-thống với những cơ-cấu thiết-yếu, hoặc chúng ta fải trình-bày rõ sự liên-tục của vấn-đề và truy-tầm có hệ-thống. Đây chính là những việc làm rất khó-khăn. Chỉ trong vòng mười năm trước hệ-thống này mới bẳt đầu hiện ra rõ rệt, trước hết bởi vì chúng ta đã có 1  cách tiếp-thâu những vấn-đề có tính phổ-thông rất rõ-ràng về nền-tảng của bản-ngã có í-thức cao. Tiền-ngiệm (Apriori) là vấn-đề thường thấy nơi một bản-ngã cao, ví-zụ lẽ tự-nhiên của một hình-thái lí-tưởng. Hình-thái lí-tưởng này có vô-vàn vóc-thể với các loại í-thức trước kinh-ngiệm nên tiềm-ẩn ngay trong đời sống song song với những zữ-kiện có nền-tảng trong đời sống i như là cái jì thực-sự có mặt. Nhưng khi một bản-ngã còn nằm trong jả-thiết 2 thì không fải cái jì cũng là cơ-cấu, và cũng không fải cơ-cấu nào cũng là cơ-cấu có thứ loại rõ ràng, trong bất cứ điểm nào (loci) mang tính thời-jan của bản-ngã. Nếu tôi có một lí-thuyết khoa-học, thì hoạt động lí-trí fức-tạp của tôi, với cơ-cấu vững vàng thuần lí-trí của lí-thuyết, sẽ là hoạt-động cơ-bản có thể trở thành sự-thực, chứ không còn nằm trong jả-thiết 3. Chỉ trong bản-ngã có “lí-trí” rõ ràng, và rất thông-thường thì bản-ngã mới xuất-hiện trong í-ngĩa: người 4 (tức con vật biết zuy-lí). Khi tôi chuyển lí-thuyết của tôi thành lí-thuyết rõ ràng, thì chính tôi cũng đã tự mình chuyển thể (mà không cần thắc mắc là tôi có í-thức chuyện đó hay không.). Chuyển-thể không phải là chuyện tùy-tiện, vì nó xảy ra ngay trong zạng-thức của bản-ngã có mục-đích rõ ràng, tức một bản-ngã “biết zuy-lí”.  Tôi không thể nào tưởng-tượng ra một lí-thuyết về việc tôi làm hay tôi có thể làm bây jờ  mà trên thực-tế lí-thuyết đó cứ chập-chờn qua lại một cách tuỳ-tiện trong đời sống của tôi. Làm sao lí-thuyết ấy có thể trở thành suy-tư cặn-kẽ. Có hiểu một cách cặn-kẽ về đời sống ấu-thơ của tôi; có hiểu những cơ-cấu có thể nảy sinh ra một lí-thuyết, mới cho fép tôi fát-triển lí-thuyết đó xa hơn, chứ tôi không tìm tòi nó trong liên-hệ của chính nó; thì một “lí-thuyết có tinh-thần khoa-học”  mới có thể ra đời. Cách jới-hạn lí-thuyết như thế đã có sẵn nền-tảng trong cơ-cấu tự-nhiên trước khi có kinh-ngiệm. Nó tuân theo những định-luật rõ ràng và zễ hiểu trong đời sống chung. Nó liên-tục trong thời-jan theo tinh-thần lí-luận của bản-ngã có í-thức (egological time). Thực vậy, bất cứ cái jì xảy ra trong bản-ngã của tôi 5 đều xảy ra trong những hoạt-động có í-thức, có những liên-hệ chặt chẽ, với những quán-tính của Bản-ngã. Tất cả đều mang tính thời-jan. Cho nên, cái ấy mới nằm trong hệ-thống của thời-jan tuyệt-đối. Có hệ-thống như thế thì  bất kì bản-ngã nào có thể có, 6 mới í-thức ra rằng  chính nó là tôi.

 

§ 37. Thời-jan là một thể chung cho tất cả nền-tảng phát-sinh

ra lí của cái-tôi (bản-ngã)

 

            Những qui-luật căn-bản rõ ràng hoặc những qui-luật bao trùm đời sống liên-tục hay những qui-luật bất thường nhưng bao trùm đời sống có thể có thật trong lẽ hỗ-tương, là những định-luật về nguyên-nhân trong ngĩa rất rộng của cái thể của luận-lí “NÊU thế THÌ.”  Tốt hơn ta đừng nên zùng câu “định-luật nguyên nhân” vì câu này có nhiều thành-kiến, sinh từ chủ-ngĩa tự-nhiên 7,  tốt hơn chúng ta nên zùng từ khơi-nguồn trong lãnh-vực í-thức cao (và cũng trong lãnh-vực thuần tâm-lí). Lãnh-vực có hoạt-động chủ-quan hay là những cơ-cấu của í-thức “rất hiển-nhiên” của bản-ngã có í-thức cao, là lãnh-vực bao gồm nhiều cái có thể có (compossibilities) và chỉ có trong hợp-thể của những đổi thay bất-định thông-thường. Trong hợp-thể này mọi zữ-kiện đặc-thù đều có không-jan để cho hoạt-động ziễn-hành trong zữ-kiện. Như thế, ngay cả hình-thái fổ-thông nhất thuộc về những hình-thái fồ-thông của những hoạt-động chủ-quan rõ rệt chính là cách “khơi nguồn”. Chúng nối kết tất cả lại với nhau và chuyển-biến ngay trong từng hoạt-động nhỏ. Hơn nữa, chúng ta cũng có thể gọi cái thể khơi-nguồn này là một hoạt-động đều đặn cho sự phát-sinh chung bởi vậy qúa-khứ, hiện-tại và tương-lai mới trở thành độc-đáo và ziễn ra hoài hoài. Thể khơi-nguồn nằm trong cấu-trúc căn-bản mang cả hai í-ngĩa về kiến-thức chủ-quan và khách-quan và có những hình-thái còn bồng-bềnh của zữ-kiện. 

           

Tuy nhiên, trong cái thể khơi nguồn này, đời sống cứ bừng bừng tiếp-tục với những hoạt-động căn-bản, độc-đáo và táo-bạo có hệ-thống chưa hề thấy nhưng theo những qui-luật chung của sáng-tạo (universal laws of genesis). Những í táo-bạo và những hệ-thống tiên-fong này tạo ra một cơ-cấu nảy-sinh thông-thường của bản-ngã. Thế thì, bản-ngã hiện ra cho chính nó trong trật-tự như là một “lịch-sử”. Chúng ta đã nói rằng bản-ngã bao gồm mọi nền-tảng với những zữ-kiện zành cho bản-ngã, hoặc là những nền-tảng này có tính hiển-nhiên hay độc-đáo, hoặc là lí-tưởng hay cụ-thể. Bây jờ ta cần bàn thêm  về những hệ-thống cơ-bản (tức là những hệ-thống zo Bản-ngã tạo ra) 8. Nhờ những hệ-thống này mới có zữ-kiện và fạm-trù của zữ-kiện 9. Những zữ-kiện và fạm-trù này chỉ có trong fạm-vi hợp lí. Đồng thời, trong cơ-cấu của chúng, những zữ-kiện và fạm-trù này gắn liền với nhau bởi một cấu-trúc có tính zi-truyền theo lẽ thong-thường. Cấu-trúc này tạo ra  bản-ngã cụ-thể (tức bản-ngã có tính cá-nhân [monad]). Nó rõ ràng là một cơ-cấu, có những nền-tảng đặc-thù vì bản-ngã là tất cả những jì có-thể cùng chung hợp lại với nhau (compossible). Thế có ngiã là một Thiên-nhiên [*]9, một thế-jới văn-hóa, một thế-jới của con người với những hình-thái xã-hội của chúng hiện-hữu cho tôi thấy để tôi biết rằng có thể có rất nhiều kinh-ngiệm liên-hệ với nhau hiện-hữu cho tôi. Chúng là những kinh-ngiệm mà bất kì lúc nào tôi cũng có thể mang vào mô-hình í-thức kinh-nghiệm nói chung chung, zù tôi có kinh-ngiệm ra sự-vật mà tôi còn thắc mắc hay không. Điều này còn cho ta thấy rõ hơn nữa là những hình-thái í-thức khác liên-quan tới thế-jan này và những í-niệm mơ-hồ đều là những gì có thể là có thật đối với tôi. Đồng thời những hình-thái í-thức khác kia có thể sẽ chỉ là sự-thực hay hư-hão qua kiểm-chứng bằng kinh-ngiệm về những gì tôi đã biết. Vấn-đề này đòi hỏi một thói quen truy-tầm với những qui-luật rõ ràng.

           

Chúng ta cũng chớ quên những vấn-đề quen thuộc liên-quan đến cỗi-nguồn tâm-lí về “í-niệm không-jan” , “í-niệm thời-jan”, và “í-niệm về sự-vật cụ-thể”, vân vân. Theo fương-fáp Hiện-tượng Luận những í-niệm trên hiện ra rõ-rệt và tự-nhiên vì chúng là những vấn-đề của í-thức. Chúng có vị-trí đặc-biệt trong số những vấn-đề có nền-tảng chung chung.

           

 

Tuy nhiên, để hiểu những điều phổ-quát và lớn lao có liên-quan tới fương-fáp Hiện-tượng Luận tinh-ròng (eidetic) là một điều rất khó, đặc biệt là vấn-đề liên-quan đến cái gọi là sự xuất-hiện ban đầu (ultimate genesis).  Nhà Hiện-tượng Luận mới vào ngề bắt buộc fải ở trong hoàn-cảnh tự xem mình như là một ví zụ trước tiên. Nói một cách lí-tưởng, người ấy fải nhận ra bản-ngã của mình, rồi nhận ra là mình đã có một thế-jan, một thế-jan quen thuộc, với những hiện-tượng như Thiên-nhiên và văn-hoá (khoa-học, nghệ-thuật, kĩ-thuật vân vân) với  nhiều sắc-thái ở trình-độ cao như  nhà nước và giáo-hội, vân vân. Bước đầu của  fương-fáp

 

Hiện-tượng Luận chỉ có tính cách “tĩnh” vì những lối miêu-tả của fương-fáp ấy jống như những lối miêu-tả lịch-sử tự-nhiên (natural history), chỉ để í tới những thể-loại đặc-thù, được sắp xếp theo thứ tự. Những câu hỏi về sự xuất-hiện bao quát của cấu-trúc nơi bản-ngã trong í-ngĩa đại-đồng (universality), mà cho đến bây giờ cấu-trúc ấy mới vượt qua được tính-cách thời-jan 10, xem ra vẫn còn xa vời vì đó là những câu hỏi ở bình-ziện cao hơn 11. Nhưng ngay cả khi chúng ta đã nêu những câu hỏi ấy, chúng ta vẫn thấy nó có jới hạn. Trước tiên, ngay cả quan-sát thông-minh cũng cho thấy bản-ngã có jới-hạn vì bản-ngã sống trong một thế-jan đã có sẵn. Hơn nữa, đây mới là điễm then chốt; chỉ khi nào những khuôn-mẫu về định-luật fát-sinh mở ra và có liên quan tới điểm then chốt thì chúng ta mới có thể thấy những jì đúng của fương-fáp Hiện-tượng Luận là đúng tuyệt-đối fổ-thông. Trong trường-hợp này bản-ngã có thể uyển-chuyển nên bản-ngã không còn fải lệ vào jả-thiết lí-tưởng khắt khe cho rằng một thế-jan có cơ-cấu rõ ràng được mọi người chấp nhận chính là thế-jan zành cho bản-ngã.

 

§ 38. Sự fát-sinh tĩnh và động

 

            Nếu thoạt tiên chúng ta đi tìm những nguyên-lí về sự fát-sinh có cơ-chế rõ ràng, tức là những nguyên-lí có í-ngĩa fổ-thông cho mọi người trong chúng ta, như là những vấn-đề cụ-thể trong thế-jan, thì chúng ta sẽ thấy những nguyên-lí đó được chia theo hai thể chính để trở thành hai nguyên-lí gọi là sinh-tĩnh sinh-động. Theo nguyên-lí sinh-động, Bản-ngã hoạt-động theo nền-tảng đã kiểm-chứng rõ ràng, qua những fương-thức chủ-quan của Bản-ngã. Đây là công việc của lí-trí thực-tiễn, nói theo ngĩa rộng. Trong ngĩa này ngay cả lí-trí thuộc về luận-lí cũng fải có tính thực-tiễn. Sắc-thái độc-đáo (trường-hợp bàn vể lãnh-vực lí-trí [logos]) 12 là những hành-động của Bản-ngã cùng hợp thành một khối có ngĩa thâm-sâu nhưng chúng chưa được khai thác. Những hành-động của Bản-ngã này hợp lại thành một khối đa-zạng, hay một tổ-hợp sinh-động và, trên căn bản của những zữ-kiện sẵn có (trong những cách í-thức vốn có sẵn), tạo nên những zữ-kiện vô cùng mới lạ. Rồi những zữ-kiện mới lạ này chính là những dữ-kiện trong í-thức. Bởi vậy khi chúng ta thu lượm những í-thức này, thì khi chúng ta có thu-hoạch chúng; chúng ta đếm chúng. Khi chúng ta có những con số; chúng ta chia chúng ra thành từng fần. Khi ta muốn biết nền-tảng của chúng, chúng ta có nền-tảng fức-tạp của mọi vấn-đề. Khi chúng ta muốn đi tới kết-luận, thì chúng ta có kết-luận, vân vân và vân vân. Í-thức có tính fổ-quát độc-đáo như thế là một hoạt-động. Trong hoạt-động ấy những jì có tính fổ-quát trở thành nền-tảng cụ-thể. Xét về mặt Bản-ngã những jì fổ-qúat trở thành tập-quán và luôn luôn được chấp nhận như một fần nền-tảng của sư-kiện có mặt cho Bản-ngã. Ngĩa là tập-qúan là một sự-kiện  luôn luôn xuất-hiện, vì nó được nhắc đi nhắc lại hoài hoài. Nó chính là í-thức tổng-hợp có chung zữ-kiện theo “trực-jác theo fân-loại”, zù cho nó là một í-thức mơ-hồ và còn thiếu tinh-thần tổng hợp (a synthetically appertinent vague consciousness). Nền-tảng cao của những zữ-kiện như thế, tỉ như zữ-kiện văn-hóa, trong liên-hệ hoạt-động với những người khác (intersubjective) nêu lên tiền jả-thiết về nền-tảng có sẵn và về một tương-jao giữa con người có í-thức cao là đề tài chúng ta sẽ bàn tới sau. 13

           

Như trên đã nói, những hình-thức hoạt-động cao hơn của “lí-trí” nằm trong ngĩa đặc biệt, và trong lẽ hỗ-tương vì những hoạt-động này là sản-fẩm của lí-trí có chung sắc-tính gọi là phi-thực (ngĩa là những zữ-kiện “lí-tưởng”). Như vậy hoạt-động không thuộc về bất cứ bản-ngã cụ-thể nào. Chúng ta thấy rõ điều này trong kí-ức thời còn bé của chúng ta.Tuy nhiên ở trong những lĩnh-vực thấp-nhất, như khát-khao kinh-nghiệm, chúng ta jải-thích sự-kiện qua kinh-nghiệm 14 theo những thành-fần của kinh-nghiệm, bằng cách đúc kết chúng lại và liên-kết chúng lại với nhau,  theo những vấn-đề tương-tự, nhất là ở vào hoàn-cảnh khiến chúng có thể trở nên khác. Zẫu sao bất cứ cái jì zo hoạt-động mà ra cần có tiền jả-thiết ở lãnh-vực thấp nhất, tức là ở lãnh-vực tĩnh vì nó cho chúng ta những cái jì có sẵn. Khi chúng ta tìm cái jì có tính động, chúng ta tìm nền-tảng của nó bằng những nhóm tĩnh (passive generations = quan-niệm tĩnh*). Sự-kiện “có sẵn” trong cuộc sống của chúng ta chỉ là những sự-kiện vật-chất (ngĩa là những sự-vật chúng ta không muốn chúng mang mầu sắc “tâm-linh” hay “văn-hóa” như, cái búa, cái bàn, hoặc một công-trình thẩm-mĩ). Tính độc-đáo của sự-kiện vật-chất nằm trong cái gọi là “chúng là chính chúng”, trong í-ngĩa tổng-hợp của một thứ kinh-ngiệm tĩnh. Như

vậy,  những hoạt-động “tâm-linh” là những hoạt-động ban đầu và là những hoạt-động của cuồng vọng (active grasping) hay [zị-đoan]

           

Trong khi những hoạt-động kể trên là kết-qủa của í-thức tổng-hợp, thì sự  kết-hợp tĩnh sinh ra toàn “vật-chất” nên cứ tiếp-tục ziễn ra. Sự-kiện vật-chất có sẵn trong í-thức tĩnh rất tự-nhiên và cứ tiếp-tục hiện ra theo từng đơn-vị, zù cho đã được bổ-xung nhiều lần theo lẽ của í-thức tư-nhiên,  sự-kiện vật-chất ấy vẫn tiếp-tục hiện ra. trước tiên qua nhiều zạng-thức và qua “những hình-ảnh” thuần thị-jác, trong một khối tĩnh rất rõ ràng. Đó là loại sự-kiện cụ-thể chỉ hiện ra trong một zạng với nhiều vẻ riêng biệt khác. Đúng thế, sự tổng-hợp hay hợp-nhất của hình-thể này có “lịch-sử” riêng của nó. Nhưng nhờ có sự thức-tỉnh hay biết quan-trọng như thế nên Tôi, tức là bản-ngã, có thể biết một sự-kiện vật-chất ngay từ lúc mới nhìn thấy nó. Hơn nữa, không chỉ là vấn-đề thức-tỉnh theo Hiện-tượng Luận mà cũng nhờ sự thức-tỉnh theo ngĩa thông-thường tức là sự thức-tỉnh vế mặt tâm-lí. Xét ra cũng có điều hợp lí khi người ta bảo trong tuổi thơ chúng ta học nhìn sự-vật hữu-hình, và lối í-thức về sự-vật hữu-hình như thế phải có trước mọi í-thức zi-truyền. Trong “jai-đọan tiền thơ-ấu” khả-năng nhận thức tuy đã có sẵn nhưng thực ra không thể cắt ngĩa rõ ràng như một sự-kiện hữu-hình. Nều chúng ta không đặt mình trong jai-đoạn còn thụ-động, nếu chúng ta không sử-zụng vấn-đề thuộc tâm-sinh-lí theo cái nhìn của tâm-lí học, còn gọi là bản-ngã có khả năng fối-hợp, thì chúng ta có thể đi sâu vào trong mọi cơ-cấu í-thức và thấy được ra những hiện-tượng thuộc fạm-vi kinh-ngiệm – tức là những hiện-tuợng kinh-ngiệm ra sự-vật và tất cả những hiện-tượng khác. Zo đó chúng ta thấy rằng những liên-hệ của í-thức đưa chúng ta trở về với cái gọi là “lịch-sử” để biết rõ những hiện-tượng này như là những chất-liệu liên quan tới những chất-liệu khác. Nói một cách khác chúng là những chất-liệu căn-bản đã có sẵn zù cho những chất-liệu này không nằm trong cùng một sự-kiện. Tuy nhiên, sau đó chúng ta đụng fải những qui-luật về í-thức liên quan đến sự thành-hình của những tổ-hợp mới về nhận-thức (sự thành-hình này có trước mọi hoạt-động, và đồng thời chính nó cũng là hoạt-động). Chúng ta đụng fải một sự khai mở (genesis) có tính thụ-động của í-thức tiền-ngiệm (apperception) có nhiều vẻ khác nhau. Í-thức này là kết-qủa gi sâu trong tập quán nên nó chỉ liên-hệ đến í-thức của nó mà thôi.  Khi những í-thức tiền-ngiệm theo tập-quán hoạt-động rõ ràng, thì những zữ-kiện có sẫn zành cho Bản-ngã (central Ego) hiện ra 15, ảnh hưởng tới Bản-ngã, và kích-thích hành-động của Bản-ngã. Nhờ có những tổ-hợp thụ-động kể trên (cho nên hoạt-động của tổ-hợp có tính động mới thấm vào), nên Bản-ngã luôn luôn có một môi-trường đầy “sự-kiện”. Ngay cả một môi-trường mà cái gì  cũng ảnh-hưởng đến cái tôi đã fát-triển, cũng được kiểm-chứng cho đúng là “một sự-kiện”. Môi-trường này là nền-tảng  có những í-ngĩa đích-thực (predicates) miêu-tả rõ ràng sự-kiện mà tôi có thể biết. Biết rằng sự-kiện ấy ở  đây, vì đây là í-thức có mục-đìch rõ ràng mà ai cũng biết, và vì những jải-thích hợp-lí là những jải-thích có tính fổ-quát – và có khả-năng biến sự-kiện thành một cái jì rõ ràng ngay trước mắt (abiding posession), để cho ta thấy sự-kiện ấy bất cứ lúc nào. Í-thức có mục-đích rõ ràng là í-thức mà chúng ta có thề hiểu được ngay. Í-thức ấy có cỗi rể fát sinh ra nó. Í-thức ấy cho ta thấy những điểm uyên-nguyên mà chúng ta đã biết. Tuy nhiên những gì mà ta cho là lạ cũng fải có cơ-cấu minh-thị rõ-ràng. Những cái ấy là cái hình của “sự-kiện”, mà nói rõ hơn chúng chính là cái hình của “vật trong không-jan”, “của văn-hóa”, “của zụng-cụ” và của mọi thứ vân vân...

 

 

§ 39. Kết-hợp là một nguyên-lí của sự khai-sinh ra cái tĩnh.

 

 

            Chúng ta gọi Nguyên-lí chung của sự khai-sinh ra cái tĩnh là sự kết-hợp cho nền-tảng của mọi sự-kiện đã có sẵn trước những kết-qủa của hành-động 16. Chúng ta cần biết rõ rằng kết-hợp là vấn-đề của Í-thức (Intentionality), có thể được miêu-tả rõ ràng ngay từ những hình-thái ban đầu của kết-hợp, vì kết-hợp zựa vào những họat-động của í-thức. Kết-hợp nằm trong những qui-luật suy ra sự-vật rõ ràng như thực (eidetic laws). Nhờ thế, ta có thể hiểu từng nền-tảng (constitution) tĩnh – ngĩa là chúng ta hiểu cả hai thứ: nền-tảng hoạt-động chủ-quan, ví-zụ sự-kiên trong thời-jan vô-biên (immanent), và nền-tảng của sự-kiện hiển-nhiên thuộc về thế-jới cụ-thể (khách-quan) tức là tĩnh, có mặt trong không-jan và thời-jan. Kết-hợpmột í-niệm then chốt nằm trong Hiện-tương Luận ở cấp cao hơn (vì trong cùng một í-ngĩa như tâm-lí, Kết-hợp chính là í-niệm căn-bản của một thứ tâm-lí có í-thức thuầntuý). Những quan-niệm xa xưa về tính kết-hợp cũng như những định-luật kết-hợp, mặc zầu thường có liên-quan mật-thiết tới những sự-kiện chắc-chắn của đời sống tinh-thần thuần túy (pure psychic life) mà Hume và những triết-ja sau này bàn đến, chỉ là những méo mó trong phạm-vi khoa-học về hiện-tượng tự-nhiên, chẳng hạn khi bàn đến những í-niệm chân-nhất (genuine) và có í-thực. Hiện-tượng Luận, một môn học đến chậm trong việc tìm ra đường-hướng phát-triển theo tinh thần kết-hợp, cho thấy tinh-thần kết-hợp này là một í-niệm đòi hỏi cái nhìn hoàn-toàn mới mẻ, có jới-hạn rõ-ràng và có những cấu-trúc căn-bản mới. Ví-zụ í-niệm kết-hợp này có tính cộng-sinh và có thứ lớp [hẳn hoi]. Một điều hiển-nhiên theo tinh-thần Hiện-tượng Luận, nhưng khác hẳn đường-lối cổ-truyền, là fương-fáp kết-hợp không fải chỉ là một tiêu-đề xứng theo những định-luật về kinh-ngiệm khi bàn tới những điều fức-tạp của sự-kiện nằm trong “đời sống tinh-thần/ psyche” [í-thức, tri-thức] – theo lối nói bóng-bẩy ngày xưa, chúng ta gọi “kết-hợp” là sức thu-hút của đời sống nội-tâm (intrapsychic gravitation) – mà fương-fáp “kết-hợp” này là một thể-tài (rất thấu-đáo) thích hợp với những định-luật suy ra sự-kiện rõ-ràng về mặt cơ-bản của cái tôi hay bản-ngã tinh-ròng. Fương-fáp “kết-kợp” này chỉ cho ta thấy có một lĩnh-vực của Bản-ngã Tự-nhiên (a realm of the “innate” Apriori), mà thiếu fương-fáp “kết-hợp” này một bản-ngã như thế sẽ trở thành hoang-tưởng.  Nhưng chỉ có xuyên qua fương-fáp Hiện-tượng Luận về sự nẩy-sinh (genesis) thì cái ngã (ego) mới rõ ràng zễ hiểu: [nghĩa là] cái ngã ấy jống như một mắc-xích, nối lại với nhau trong cái tổng-thể (unity) có sự nẩy sinh bao trùm tất cả (an all-embracing genesis). Cho nên chúng ta có một mắc-xích vô cùng tận của mọi hoạt-động hòa-hài và toàn vẹn (synthetically)  để cho  mọi lĩnh-vực nằm trong cái thể kiên-cố và fổ-quát  và có tính thời-jan, vì tính thời-jan này chính là một sự nẩy-sinh hoàn-toàn fổ-quát, thụ-động và liên-tục, nên nó là một nhu-cầu thiết-iếu bao gồm cả những jì mới mẻ. Một bản-ngã đã trưởng-thành (developed ego) là một cơ-cấu có rất nhiều jai-tầng và là một hệ-thống chặt chẽ (a persistent form-system) của í-thức, rất căn-cơ (apperception) với những mục-tiêu rất rõ ràng. Trong số những mục-tiêu này có những mục-tiêu thuộc về thế-jới khách-quan (Objective universe) vì chúng có một cơ-cấu và bản-chất cố-định (a fixed ontological structure). Khả-năng bảo-tri của bản-ngã hay cơ-cấu tự nó chỉ là một hình-thái nảy sinh (a form of genesis) mà thôi. Nói tóm lại, tuy sự-kiện đặc-thù nằm ở ngoài lí-trí (irrational), nhưng nó cũng có thể nằm trong hệ-thống có hình-thức tự-nhiên (apriori form-system) vì sự-kiện đặc-thù có căn-bản môi-sinh (ecological fact). Chúng ta cũng nên lưu-í rằngsự-kiện” gọi là “fi-lí-trí”chỉ là í-niệm về cơ-cấu nằm trong hệ-thống của cái gọi là Tiên-thiên hay T-nhiên mà thôi..

 

February 13-2012

(Còn tiếp nhiều kì)

 

CHÚ-THÍCH

Trên đây là một trong những fần sáng-sủa nhất và rất khoa-học của cuốn Suy-tư. Xin độc-jả đọc thêm Zum Problem der Einfühlung/On the Problem of Empathy của Edith Stein. E. Stein là sinh-viên ban Tiến-sĩ của Husserl và cũng là biên-tập cho một số bản-thảo của Husserl. Cô Edith Stein, chưa lập ja-đình, sau khi lấy bằng Tiến-sĩ với luận-án Zum Problem der Einfühlung đã bỏ đi tu nhưng vẫn bị Đức Quốc Xã tìm ra ở Tu-viện Holland, và bị bỏ vào lò ngạt. Luận-án xuất sắc của Stein khai triển rất nhiều điểm của Husserl nhưng tạo thành một fân-tích Hiện-tượng Luận mới gọi là “Empathy”.

 

1.Theo bản-thảo đánh máy C. Bản-văn xuất-bản đọc là: “những khó khăn, trước hết là chúng ta phải có”.

2.Về sau tác-jả ghi là: trong bất kì bản-ngã nào nẳm còn trong jả-thiết thì bản-ngã ấy có thể là là một vẻ khác đi của cái tôi cụ-thể (my de facto ego) .

3.Về sau tác-jả gi là: không fải trong bất kì khía-cạnh khác nào có thể có của cái tôi (bản-ngã).

4.Về sau tác-jả gi là: Tôi, con người.

5.Về sau tác-jả gi là: xảy ra vì có liên-hệ đến tôi.

6.Câu này tác-jả thêm vào về sau.

7.Tác-jả thêm vào sau này.

8.Tác-jả thêm vào sau này.

9.Tác-jả đã đổi ra: là những cơ-cấu dược chấp-nhận.

[*] “Một Thiên-nhiên” viết hoa như thế này có nghĩa là gi? Đặc biệt “Thiên-nhiên”  ấy có hình-thái xã-hội! QN.

10.Bên lề trang gi là: vĩnh-viễn?

11.Fần cuối của đoạn này coi như không thỏa mãn [tác-jả chưa hài lòng?]*

12.Tác-jả thêm vào sau.

13.Câu này tác-jả ghi là “chưa thỏa-mãn”.

14.Đọc là “das Erfahrene” thay vì là “das Erfahren” (kinh-ngiệm ra), gi rõ trong bản in và trong bản-thảo đánh máy C.

15.Tác jả gạch bỏ.

16.Theo tài-liệu đã xuất-bản (có fần tùy-tiện), gi là: “den aktiven Gebilden letztlich vorgegebenen”, dã được sửa thành: “im aktiven Gebilden letztlichveorgegebenen”.  

 

Nguyễn Quỳnh USA
Số lần đọc: 2213
Ngày đăng: 15.02.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Bản Bi Kịch Oedipe-Vua Của Sophocle - Nguyễn Đăng Trúc
Thi hào Eschyle, Thân phận con người trong cuộc chiến giữa Tài và Mệnh - Nguyễn Đăng Trúc
Quyền-Lực Và Tự-Zo - Nguyễn Quỳnh USA
Đọc, Fê-Bình Và So-Sánh - Nguyễn Quỳnh USA
Hòa bình trong văn hóa Việt-nam - Nguyễn Đăng Trúc
Sruti (Thiên Khải) Và Smriti (Ký Ức) - Nguyễn Hồng Nhung
Hòa bình theo Nho học - Nguyễn Đăng Trúc
Edmund Husserl - Suy-Tư Trong Tinh-Thần Descartes- 4 - Nguyễn Quỳnh USA
Ludwig Wittgenstein, Cương-Lĩnh Luận-Lí Và Fê-Bình Triết-Học - Nguyễn Quỳnh USA
Hòa bình theo Lão học - Nguyễn Đăng Trúc
Cùng một tác giả
Suy-Tư Hai (triết học)
Một Tí “Rilke” (tiểu luận)
Khoảnh-Khắc (tiểu luận)
Nắng Hè (tạp văn)
Fôi-Fa (tạp văn)
Bến-Xưa (tạp văn)