Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
728
116.708.822
 
Chí-Tôn Ca - Bhagavad Gìtà 1
Nguyễn Quỳnh USA

 

 

Nguyễn Quỳnh, PhD, EdD Dịch, Ghi-chú và Giới-Thiệu

 

Nghiêng-mình trước cổng Trời cao vút

Thành mây thu hun-hút về đâu?

Hỗn mang sông nước đổi mầu,

Rụng rơi sương đọng trên đầu cỏ non.

 

Nguyễn Quỳnh

NYC, 1976

 

ĐỐI-THOẠI MỘT

MINH-TRIẾT ĐAU BUỒN

Arjunavishàgayoga

 

32.        Arjuna: [...] Bạch Tôn-gỉa Govinda (Krishna) –vương-quốc, lạc-thú và cuộc đời có nghĩa gì đâu!

 

 

DHRITARASHTRA 1 hỏi:

 

1.                     Này Sanjaya 2, trên cánh-đồng Chính-Pháp (Dharma), cánh đồng thiêng Kuru 3, chư hầu của ta và phía các nam-tử Pàndu 4 đã dàn trận xong, khao khát giao-tranh. Họ đang làm gì?

 

SANJAYA thưa:

 

2.                     Tâu Thánh-thượng, khi thấy đạo-quân của Pandavas đã dàn-hàng, vua Duryodlhana, bước đến bên thầy mình (Drona 5) và bẩm:

 

3.                     “Bạch Thầy, xin Thầy hãy nhìn đạo-quân hùng-mạnh của các nam-tử Pàndu đã được chính tông-đồ uyên-bác của Thầy là nam-tử Drupada 6 dàn ra.

 

4.                     Những tay cung-thủ uy-dũng đều là những vị anh-hùng. Trong chiến-tranh, họ tài ba chẳng kém gì Bhìma, chẳng kém gì Yuyudhàna 7, chẳng kém Viràta 8, và cũng chẳng kém gì Drupada đang đứng trên chiến-xa vĩ-đại.

 

5.                     Họ cũng chẳng kém gì Dhrshtaketu 9, Cekitàna 10, và cũng chẳng kém tiếng cười qủa-cảm của Kashi, của Purujit 11, và của Kuntibhoja 12. Họ cũng còn tài ba như Caivya 13, một hổ-tướng trong đám những chư-hầu.

 

6.                     Kìa là Yudhàmanyu 14, người dũng-lược, Uttamaujà 15, người qủa-cảm. Còn Sondhadra 16 và con cháu của Draupadi 17 đang sừng-sững uy-nghiêm trên những chiến-xa vĩ-đại.

 

7.                     Thưa Thầy, còn những người tài giỏi nhất trong số thủ-lãnh của chúng ta. Như Thầy, Thầy là bậc vĩ-đại trong số những thiên-tài tái thế. Kia là những vị tư-lệnh trong quân-đội của con. Con xin kể danh-tính của họ hầu Thầy.

 

8-9                    Thầy là vị chúa-tể (Drona), cùng với Bhìsma 18, Karna 19 và Krpa 20 từng mang bao chiến-thắng trở về. Riêng Ashvatthama 21, Vikarna 22, và nam-tử Saumadatta23, cũng như những vị anh-hùng khác gươm dáo đã chỉnh-tề. Tất cả những người ấy đều là những vị quân-sư chiến-thuật, sẵn sàng liều mạng vì con.

 

10.                    “Quân bên kia, do Bhìma thống-lĩnh 24 làm sao đọ được với quân ta. Nhưng quân ta, do Bhìshma thống-lĩnh thì cũng chỉ như quân họ mà thôi!”

 

11.                    Bởi vậy, - Này tất cả các vị chỉ-huy quân-đoàn, hãy tuân-lệnh Bhìshma, dàn quân theo từng đơn-vị chặt chẽ.

 

12.                    Bhishma, vị Trưởng-huynh của các anh em Kurus, và cũng là vị Tổ-phụ đáng kính, thổi tù-và lanh-lảnh như tiếng gầm sư-tử để khích-lệ Chư-hầu.

 

13.                    Tức thời, những tiếng ốc-hụ, những tiếng trống, những tiếng tù-và, những tiếng kèn trận lanh-lảnh đáp lời, gây nên một sự huyên-náo vô-cùng.

 

14.                    Trên các chiến-xa vĩ-đại kéo bởi những con chiến-mã lông trắng như mầu tuyết, Màdhava (Krishna) và Nam-tử Pàndu (Arjuna) cũng thổi những chiếc tù-và thần-thánh.

 

15.                    (Krishna) thổi chiếc Pantcha-Sanya, Dhanànsaya (Arjuna) thổi chiếc Devadatta. Riêng Vrikodara (Bhima), người đáng nể vì qua những vĩ-công, thổi chiếc tù-và Paundra.

 

16.                    Vua Yoydishthira, Thái-tử của Kuntì, thổi chiếc Anantavjaya, còn Nakula và Sahadeva cùng thổi những chiếc tù-và tuyệt-diệu của họ.                  

 

17.                    Kế đến vua Kashi, đại-tài bách-bộ xuyên dương, Shikhandi, vị đại-danh điều-khiển chiến xa. Drishtadyuma, Virata và Sàtyaki đều là những bậc vô-địch.

 

18.                    Tâu Thánh-thượng, từ bốn phương tám hướng vang rền tiếng ốc-hụ của hổ-tướng Saudhadra và của Drupada cùng với các nam-tử của ông.

 

19.                    Tất cả tạo thành tiếng gầm khủng-khiếp như trời long đất lở làm cho các Nam-tử của Dritaràshtra run sợ.

 

20.                    Thấy bên kia trận, các Nam-tử của Dritaràshtra đã dàn hàng và sẵn sàng cho tên bay ra tua-tủa như mưa, bên này trận, dưới nền cờ-lệnh mang hình một con khỉ, Nam-tử của Pandu (Arjuna) cũng từ từ mở rộng cánh cung.

 

ARJUNA thưa

 

21.                    Bạch Tôn-gỉa Achiyuta (Krishna), tôi đang ở đây, giữa hai đạo quân.

 

22.                    Nên tôi càng thấy rõ các Chư-hầu đã dàn xong thế-trận. Họ đang nao-nức giao-phong, và khi trận đánh này bùng nổ, tôi phải giao-tranh với họ.

 

23.                    Có điều tôi biết rằng, tất cả các Chư-hầu quần-tụ tại đây, xâu xé lẫn nhau chỉ vì lòng dục-thú nơi đứa con độc-ác của Dhritaràshtra.

 

SANJAYA thưa

 

24.                    Tâu Thánh-thượng, nghe Gudàkesha (Arjuna) nói, Tôn-gỉa Hrishtkesha (Krishna) thúc chiến-xa hùng-hậu nhất của mình lên và dừng lại giữa hai đạo-quân.

 

25.                    Tôn-gỉa Krishna đưa mắt lần lượt nhìn Bhìshma, Drona và các Vương-hầu của những nước khác rồi nói: “Này Pàrtha (Arjuna) hãy nhìn anh em Kurus đã dàn trận xong rồi.”

 

26.                    Nhờ thế Pàrtha (Arjuna) nhìn rõ chú, bác, cha, mẹ, thầy học, anh, em ruột, anh, em họ, con cái, cháu chắt và các chiến-hữu của mình.

 

27.                    Ông cũng nhìn rõ các vị sui-gia và bè bạn, mặt nhìn mặt trong hai đạo-quân đối-nghịch. Nam-tử của Kuntì (Arjuna) thấy tất cả tộc-thuộc đã dàn-hàng.

 

ARJUNA thưa

 

28.                    Bạch Tôn-gỉa Krishna, tôi rất đau đớn khi nhìn thấy bà-con, thân-thích đang đứng ngoài mặt-trận, sẵn sàng chém giết lẫn nhau.

 

29.                    Khủng-khiếp qúa, miệng tôi khô héo, thân tôi run rẩy và chân tôi muốn quị.

 

30.                    Cánh cung Gandivà rời khỏi tay tôi, da thịt tôi tựa hồ như lửa đốt. Tôi không còn đủ sức để đứng vững, và tâm-trí tôi bấn-loạn.

 

31.                    Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna), tôi biết trước có những điều hung-kị. – Thật là dã-man nếu tàn-sát bà-con, thân-thích của mình trong cuộc chiến-tranh này.

 

32.                    Bạch Tôn-gỉa Krishna, tôi không thèm khát vinh-quang, vương-quốc và khoái-cảm. – Bạch Tôn-gỉa Govinda (Krishna), vương-quốc, lạc-thú và cuộc-đời có nghĩa gì đâu?

 

33.                    Chỉ vì aỏ-tưởng, những kẻ thèm muốn vương-quốc, khoái-cảm và lạc-thú đã dàn-trận nơi đây. Họ có biết đâu họ đang hủy-hoại cuộc đời và tài-đức của mình.

 

34.                    Lòng tham khiến họ quên thầy học, cha con, ông bà, chú bác, anh em rể, những vị sui-gia và thân-bằng quyến-thuộc.

 

35.                    Bạch Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna). Tôi không muốn giết họ dù phải bảo-vệ ngai-vàng trị vì ba thế-giới. – Vậy, để cai-trị thiên-hạ, tôi phải làm gì bây giờ?

 

36.                    Bạch Tôn-gỉa Djanardana (Krishna). – Làm sao chúng ta có thể nhẫn-tâm giết các Vương-tử của Dhritaràshtra? Dù họ là những kẻ phiến-động, chúng ta cũng phạm vào trọng-tội.

 

37.                    Bạch Tôn-gỉa Madhava (Krishna). – Thực sự, chúng ta không được quyền giết con cháu Dhritaràshtra vì họ là máu mủ của chúng ta. – Sung-sướng gì khi giết những người thân như thế?

 

38.                    Vì lẽ-phải bị lòng gian-tham khuấy-động, nên những kẻ kia không nhìn thấy tội-ác khi tàn-sát gia-tộc và gây lòng thù-hận với bạn-bè.

 

39.                    Chúng ta thấy được nỗi đau-thương tàn-sát gia-tộc, tại sao chúng ta không đập tan tội-ác?

 

40.                    Tàn-sát gia-tộc là hủy-hoại truyền-thống ngàn xưa. Khi truyền-thống mất đi, gia-tộc không còn í-thức về bổn-phận.

 

41.                    Bạch Tôn-gỉa Krishna. Khi bổn-phận bị lãng-quên, phụ-nữ hư-hỏng. Khi họ hư-hỏng , bạch Đức Vashneya, hỗn-loạn trong các giai-cấp bắt đầu.

 

42.                    Sự hỗn-loạn này đưa gia-đình và những kẻ phá-hoại gia-đình vào địa-ngục. Vì thiếu cúng-lễ và rẩy rượu mừng, tổ-tiên bị rơi vào quên-lãng.

 

43.                    Vì tội-lỗi của những kẻ phá-hoại gia-đình và của những kẻ gây ra hỗn-loạn trong các giai-cấp, nên tôn-ti trật-tự của xã-hội và gia-đình không còn nữa.

 

44.                    Bạch Tôn-gỉa Janardana (Krishna). Con người rơi vào địa-ngục vì gia-đạo thiếu kỉ-cương,

 

45.                    Hỡi ôi! Vì ham vương-quyền, vì ham dục-thú, chúng ta sắp phạm vào trọng-tội tàn-sát lẫn nhau.

 

46.                    Nếu trong trận đánh này, khi các Vương-tử của Dhritaràshtra cầm binh-khí lướt đến giết tôi. Tôi thà chịu chết chứ không chống-cự. Đó là con đường hay nhất mà tôi lựa chọn.

 

SANJAYA thưa

 

47.                    Nói xong, vì qúa đau-thương, Arjuna ném cánh-cung thần đi và ngã ngay trên chỗ ngồi trong chiến-xa của mình.

 

 

 

ĐỐI-THOẠI MỘT

GHI-CHÚ

 

1.         Dhritaràshtra: Vị vua mù của dòng họ Kurus. Theo Anh-Hùng Ca Mahàbhàrata, Vua Dhritaràshtra nhường ngôi cho cháu là Yudhishthira (anh cả của Arjuna, chứ  không nhường ngôi cho Thế-tử Duryodhama, tức con đầu-lòng trong số một trăm người con của ông chỉ vì Duryodhama là người rất ích-kỉ và độc-ác. (Xem bài “Anh-Hùng Ca Mahàbhàrata và Xuất-Xứ của Chí-Tôn Ca”.)

 

2.         Pàndu: Anh em của Vua Dhritaràshtra. Pàndu là cha của Yudhishthira, Bhìma, Arjuna, và Sahadeva.

 

3.         Sanjaya: Người đánh xe ngựa cho Vua Dhritaràshtra, và cũng là nguời kể cho vua nghe diễn-tiến trên chiến-trường, qua  mười tám chương đối-thoại trong Chí-Tôn Ca.

 

4.         Kurukshetra: Cánh-đồng thiêng Kuru, gần Tân Đê-li.

 

5.         Drona: Quân-sư và cũng là thầy dậy võ cho cả đám anh em Pàndava và Kurus (thường dùng để gọi chung cho các con của Vua Dhritaràshtra).

 

6.         Drupada: Vua xứ Pàncãla, cha vợ của Arjuna. Hoàng-tử Dhrishtadyymma là con trai của ông.

 

7.         Yuyudhànà: Tên một võ-tướng chỉ-huy một chiến xa, cũng còn có tên là Satyaki.

 

8.         Viràta: Vua xứ Matayas.

 

9.         Dhrishtaketu: Vua xứ Cedis.

 

10.        Cekitàna: Tên một chiến-tướng.

 

11.        Purijit: Tên một chiến-tướng.

 

12.        Kuntibhoja: Anh của Purijit.

 

13.        Shaibya: Vua xứ Shibis.

 

14.        Yudhàmanyu: Một Thống-soái của đạo-quân Pàndava.

 

15.        Uttamauja: Một Thống-soái của đạo-quân Pàndava.

 

16.        Con trai của Subhadrà là Abhimanaya và cũng là con của Arjuna.

 

17.        Draupadì: Vợ của năm anh em Pàndava.

 

18.        Bhìshma: Vị Tổ-phụ có công nuôi-nấng và dạy dỗ anh em Pàndava và Dhritaràshtra.

 

19.        Karna: Anh em cùng mẹ khác cha với Arjuna.

 

20.        Kripa: Anh em rể của Drona.

 

21.        Asvatthàman: Con trai của Drona.

 

22.        Vikarna: Con trai thứ ba trong số một trăm người con của Vua Dhritaràshtra.

 

23.        Con trai của Somadatta. Cha là vua xứ Bàhikas.

 

24.        Danh-từ Phạn-ngữ Aparyàptam có hai nghĩa: a) chưa đầy-đủ, và b) vô-tận.

 

ĐỐI-THOẠI HAI

QUÁN-TRIỆT PHÙ-DU* và

TÂM ĐỊNH-TĨNH

Sàmkhyayoga

 

32. Krishna: “ Này Partha, những bậc Kshattraya sung-sướng đón-nhận một cuộc đấu-tranh công-lí bởi trong lúc đấu-tranh, thình-lình họ sẽ biết cách mở những cánh cửa của Trời.”

 

*Lí-trí Luận

 

SANJAYA thưa

 

1.                     Nhìn Arjuna mắt đẫm lệ, đau khổ và đáng-thương như vậy, Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna) bảo:

 

ĐỨC THẾ-TÔN

 

2.                     Này Arjuna. Ngươi từ đâu đến đúng lúc tình-thế khó khăn này? Tuyệt-vọng như thế thật là xấu-hổ, không xứng-đáng là một anh-hùng cái-thế 1, vì nó không đưa linh-hồn nhà ngươi về cõi bất-diệt với Trời.

 

3.                     Này Partha (Arjuna). Đừng tuyệt-vọng. Đảm-khí của nhà ngươi không như vậy. Hãy vứt bỏ sự hèn-yếu khỏi tâm-hồn! Hãy thức-tỉnh, này Panrantapa (Arjuna).

 

ARJUNA thưa

 

4.                     Thưa Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna). Trong cuộc giao-chiến này làm sao tôi có thể nhẫn-tâm bắn vào Bhìsma và Drona. Họ là những người tôi hằng tôn-kính.

 

5.                     Trong cõi hồng-trần, tôi khát-khao sống với hạnh bố-thí, chứ không thể giết những bậc thầy đáng kính. Giết những vị Gurus kia, là những người đã có công nuôi nấng và dạy bảo tôi nên người, thật chẳng khác nào dự vào tiệc máu.

 

6.                     Thắng hay thua không quan-trọng. Nhưng nếu các Nam-tử Dhritaràshtra chết, chúng tôi cũng chẳng còn thiết sống.

 

7.                     Trầm-lắng bởi u-sầu, tôi không còn thấy rõ bổn-phận của mình. Vậy, xin Người dạy sao cho tiện. Tôi, đệ-tử của Người, đang cầu-khẩn Người. Xin hãy dạy bảo tôi.

 

8.                     Dù khi tôi đã gồm thâu lục-địa, và xóa bỏ được hận-thù. Hay dù cho tôi xứng đáng là minh-quân thánh-chúa, nỗi buồn-khổ này vẫn ám-ảnh mãi không thôi.

 

SANJAYA thưa

 

9.                     Tâu Thánh-thượng. Sau khi Gudakesha (Arjuna), người đã từng làm cho quân thù táng-đởm vì uy-dũng của mình, đã bày tỏ với Tôn-gỉa Hrishikesha (Krishna) như thế, ông quyết-định: “Tôi không giao-chiến!” – Đoạn ông ngồi yên lặng.

 

10.                    Thấy vậy, tâu Thánh-thượng, Tôn-giả Hrishikesha (Krishna) mỉm cười.

 

 

ĐỨC THẾ-TÔN

 

11.                    Này Bhàrata. Nhà ngươi khóc cho những điều không đáng khóc, dẫu cho nhà ngươi thốt ra những lời có vẻ đại-hiền 2. Nhưng bậc đại-hiền không khóc cho kẻ chết và cũng không khóc cho kẻ sống.

 

12.                    Thực ra, Ta cũng như nhà ngươi và các vị Chư-hầu kia chẳng bao giờ ngừng hiện-hữu.

 

13.                    Sau khi thân-xác diệt-vong, Linh-hồn 3 vẫn giống như khi còn hiện-hữu. Từ tuổi thơ-ngây bước sang tuổi trẻ, rồi bước sang tuổi già, Linh-hồn như truyền vào một thể-xác khác.

 

14.                    Này Nam-tử của Kunti (Arjuna). Những sự giao-tiếp với rung-động quan-năng 4 gây ra nóng và lạnh, vui và khổ. Chúng đến và đi vô-thường. Hãy biết chịu-đựng, này Bhàrata (Arjuna).

 

15.                    Này Nguyên-soái của các vị Chư-hầu (Arjuna). Kẻ nào không bị các rung-động quan-năng ngự-trị, được quân-bình trong khổ và vui, biết kiên-trì, là kẻ hiện-hữu cùng bất-tử 5.

 

16.                    Điều phi-thực không hiện-hữu. Điều chân-thực 6 không ngừng hiện-hữu. Muốn thấy được yếu-tính của chúng phải là người đã nhìn ra chân-tính.

 

17.                    Hãy biết rằng, chân-tính hiện-hữu trong vạn-vật, nên bất-diệt 7. Không ai có thể hủy-hoại tính Đồng-nhất Bất-diệt này 8.

 

18.                    Này Bhàrata (Arjuna). Linh-hồn đã hiện-thân thì vĩnh-cửu 9, vô hủy-diệt10, bất khả-tri 11, và vô-tận 12 chứ không tạm-bợ như thân-xác. Vậy thì hãy chiến-đấu.        

 

19.                    Kẻ nào cho rằng Linh-hồn có thể giết được người, và kẻ nào cho rằng Linh-hồn có thể bị giết, cả hai kẻ ấy đều ngu-xuẩn. Linh-hồn không giết được ai và cũng không ai có thể giết được Linh-hồn 13.

 

20.                    Linh-hồn không sinh thì không tử. Linh-hồn đã hiện-hữu sẽ không thể ngừng hiện-hữu. Linh-hồn vô-sinh 14, thường-còn, vĩnh-cửu 15, xưa cũ, dù khi thân-xác đã chết, Linh-hồn vẫn còn tồn-tại.

              

21.                    Này Pàrtha (Arjuna). Kẻ nào biết Linh-hồn bất-diệt, thường-còn, không khởi không tàn, kẻ đó có thể giết người hoặc thúc-dục kẻ khác giết người không?

 

22.                    Giống như một người, vứt bỏ i-phục cũ để mặc i-phục mới, Linh-hồn đã hiện-thân vứt bỏ thân-xác úa-tàn để bước vào thân-xác mới 16.

 

23.                    Binh-đao không thể đâm chém được Linh-hồn, lửa không thể đốt cháy được Linh-hồn, và gió không thể làm khô-héo được Linh-hồn.

 

24.                    Linh-hồn đã hiện-thân không thể bị đâm chém, không bị thiêu-hủy, không tan như nước, không khô-héo. Linh-hồn thường-còn. Linh-hồn truyền vào vạn-vật17, Linh-hồn bất-biến 18, bền-bỉ 19, và mãi mãi bất-diệt.

 

25.                    Linh-hồn là bản-sắc không thị-hiện 20, là vô-tri 21, là bất-diệt 22. Hiểu Linh-hồn như vậy, nhà ngươi không việc gì ưu-phiền nữa.

 

26.                    Này Tướng-quân (Arjuna). Ngay như nếu nhà ngươi coi Linh-hồn có sinh có tử, nhà ngươi cũng không việc gì phải buồn phiền.

 

27.                    Vì thực ra, ai sinh ra mà chẳng chết. Tránh làm sao được. Thôi chớ buồn phiền.

 

28.                    Này Bhàrata (Arjuna). Thoạt kì-thủy phù-sinh không thị-hiện. Bước vào Trạng-thái Trung-gian phù-sinh thị-hiện. Sau khi hủy-diệt, phù-sinh lại trở về bản-sắc không thị-hiện. Biết như vậy, than-vãn làm gì?

 

29.                    Có kẻ coi Linh-hồn như là một mầu-nhiệm. Kẻ khác nói về Linh-hồn như bằng một mầu-nhiệm. Thực tình, chẳng có ai biết Linh-hồn là gì cả.

 

30.                    Này Bhàrata. Linh-hồn dù ở trong bất kì thể-xác của người nào cũng chẳng bao giờ bị huỷ-diệt 23. Vậy nhà ngươi không việc gì phải than-tiếc cho những phù-sinh.

 

31.                    Khi đã hiểu Chính-pháp (Bổn-phận/ Dharma) của nhà ngươi rồi, nhà ngươi không còn gì run sợ. Này Arjuna, đối với một Kshattrya , không có gì đáng khát-khao hơn là một cuộc đấu-tranh công-lí.

 

32.                    Này Pàrtha. Những bậc Kshattraya sung-sướng đón-nhận một cuộc đấu-tranh công-lí bởi trong lúc đấu-tranh, thình-lình họ sẽ biết cách mở những cánh cửa của Trời.

 

33.                    Nhưng nếu nhà ngươi    không muốn nhận cuộc đấu-tranh công-lí này, tức là nhà ngươi vứt bỏ bổn-phận và danh-dự của nhà ngươi trước gió. Như thế, nhà ngươi sẽ phạm vào một tội 24.

 

34.                    Loài người mãi mãi kể cho nhau nghe sự mất danh-dự của nhà ngươi. Đối với một kẻ biết trọng danh-dự; thà chết còn hơn.

 

35.                    Những chiến-sĩ uy-dũng điều-khiển các chiến-xa kia mãi mãi tin rằng nhà ngươi vì sợ hãi đã chạy trốn khỏi chiến-trường. Nhà ngươi, kẻ mà trước kia họ kính-ngưỡng, bây giờ họ sẽ khinh-bỉ nhà ngươi.

 

36.                    Kẻ thù sẽ dùng biết bao lời đàm-tiếu nhục mạ lòng dũng-cảm của nhà ngươi. Còn gì có thể đau đớn hơn chăng?

 

37.                    Này Nam-tử của Kuntì (Arjuna). Thất- bại, nhà ngươi sẽ đạt được cõi Trời. Chiến-thắng, nhà ngươi sẽ thỏa-vui nơi trần-thế. Hãy đứng lên cương-quyết giao-tranh.

 

38.                    Khi đã xem vui thú và khổ đau, còn và mất, vinh-quang và thất-bại như nhau, hãy sửa-soạn giao-tranh. Như vậy, nhà ngươi sẽ không phạm vào trọng tội.

 

39.                    Này Pàrtha (Arjuna). Lời dạy Ta vừa ban cho nhà ngươi là của đạo Sàmkhya (Lí-trí luận/ Quán-triệt Phù-du). Bây giờ hãy nghe lời dạy của đạo Yoga. Nhờ thấm-nhuần đức Hiền-tính của đạo này, nhà ngươi sẽ bẻ gãy được xiềng-xích Karma.

 

40.                    Theo đức Hiền-tính của đạo này – không cần qúa gắng công, không sợ phạm giới-luật. Chỉ cần một chút í-thức về Chính-pháp (Dharma) cũng đủ vượt qua thống-khổ.

 

41.                    Này, vui thay hỡi các Nam-tử Kurus! Khi lí-trí cương-quyết và chuyên nhất vào chân-tính, những tư-tưởng trong cõi hồ-nghi phân-tán vào vô-tận.

 

42.                    Này Pàrtha (Arjuna). Lời từ-hoa dành cho những kẻ ngu-đần, những kẻ thỏa-vui với kinh-nghĩa trong những tập Vệ-đà. Cho nên họ mới nói: “Chỉ có kinh-nghĩa này là cứu-cánh mà thôi.”

 

43.                    Lòng họ vốn đầy tham-dục, chỉ mong sao đạt đến cõi Trời. Bẩm sinh, họ vốn nệ vào kết-qủa của hành-động, bày vẽ ra những lễ-trọng rườm-rà để cốt hưởng phú-qúi vinh-hoa.

 

44.                    Dù cho họ có muốn mở-mang tâm-trí 25, nhưng vẫn đắm-mê vào quyền-qúi và những lời hoa-mĩ rỗng-tuếch của kinh-thư, thì làm sao tâm-trí của họ Thiền-định 26 được?

 

45.                    Này Arjuna. Những tập Vệ-đà bàn đến ba đẳng-tính: a) Tự mình hãy giải-thoát những Gunas, sao cho vượt ra ngoài yếu-tính đối-nghịch 27; b) Luôn luôn dốc-lòng theo đức-độ tinh-khiết (Sahsi); c) xa-lánh các sở-quyền 28 và đầy tinh-thần Đại-ngã.

 

46.                    Nếu nước ở giếng cũng như nước ở hồ đều có hữu-ích riêng, thì những tập Vệ-đà cũng hữu-ích đối với một bậc Sa-môn (Bràhman)giác-ngộ.

 

 

47.                    Chỉ có hành-động là đáng-kể, đừng qúa băn-khoăn về hậu-qủa 29. Đừng khuấy-động  hậu-qủa của hành-động. Cũng đừng để cho mình bị lôi cuốn vào thụ-động.

 

48.                    Này Dananjaya (Arjuna). Hoàn-tất hành-động trong tinh-thần nhất-thể với thần-linh. Khước-từ đắm-mê, tâm-hồn luôn-luôn định-tĩnh trong thành-công cũng như trong thất-bại. Tâm Định-tĩnh 30 này là đạo Yoga.

 

49.                    Này Dhananjaya (Arjuna). Trong đạo Yoga, hành-động chỉ là nhận-thức thứ yếu 31. Hãy sống trong tâm-thức Thuần-khiết. Đáng thương thay cho kẻ nào làm việc chỉ quan-tâm đến hậu-qủa.

 

50.                    Khi tâm-thức đã thuần-khiết, ta không màng đến hành-động tốt hay xấu [theo quan-niệm ở đời]. Hãy hiến-dâng mình cho đạo Yoga, vì đạo Yoga là nghệ-thuật hành-động 32.

 

51.                    Các bậc hiền-giả, nhờ có tâm-thức Thuần-khiết, nên họ không quan-tâm đến hậu-qủa, cho nên họ thoát khỏi cái ách nặng-nề của những kiếp-sinh, và sống trong miền cực-lạc.

 

52.                    Khi tinh-thần nhà ngươi thoát ra khỏi lưới ảo-mộng. Nhà ngươi sẽ cảm thấy khác hẳn đối với những gì đã và sẽ còn nghe được trong kinh-sách Vệ-đà.

 

53.                    Khi tâm-thức của nhà ngươi còn bị mê-hoặc vì hư-văn trong kinh-sách Vệ-đà (Shrùti), nhà ngươi hãy bình-tĩnh và tập-trung tư-tưởng. Lúc đó nhà ngươi sẽ đạt đến đạo Yoga.

 

ARJUNA thưa

 

54.                    Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna). Làm sao biết được kẻ nào có tâm Định-tĩnh 33 và kiên-trì trong lúc tham-thiền? Khi đã có tâm Định-tĩnh kẻ đó sẽ nói gì, ngồi ra sao, và đi đứng ra sao?

 

ĐỨC THẾ-TÔN

 

55.                    Này Pàrtha (Arjuna). Khi một người từ bỏ tất cả ham-muốn 34, và nhờ Đại-ngã, hắn được vui với chính Tiểu-ngã của mình 35, khi đó ta gọi hắn là “Người có tâm Định-tĩnh.”

 

56.                    Kẻ nào, tinh-thần không bị xao-động trong đau-khổ và thoát khỏi cảnh giới của thú-dục, kẻ đó thoát khỏi dục-vọng, khỏi sợ-hãi và khỏi giận hờn. Chúng ta gọi kẻ đó là “Bậc Đại-hiền có tâm Định-tĩnh.”

 

57.                    Tâm-thức của kẻ nào đã hoàn-toàn được soi-sáng 36, và hắn không vui cũng không buồn khi đón-nhận khoái-lạc 37 cũng như buồn-phiền 38. Tâm-thức ấy là tâm Định-tĩnh.

 

58.                    Cho nên, dù khi tứ-chi của hắn bị cụ-hình tra tấn, hắn không còn biết đến những đau đớn quan-năng 39. Tâm-thức ấy là tâm Định-tĩnh.

 

59.                    Nhờ huân-tập trai-giới, kẻ đã mặc-khải có thể tiêu-diệt được các rung-động của quan-năng 40. Khi lòng khao-khát không còn nữa, hắn sẽ chiêm-ngưỡng được bản-ngã Tối-thượng 41.

 

60.                    Này Nam-tử của Kuntì (Arjuna). Những cảm-quan kích-thích lôi-cuốn tâm-hồn mãnh-liệt dù cho lí-trí có gắng công tiêu-diệt chúng.

 

61.                    Cho nên, sau khi đã thắng những cảm-quan rồi, phải ngồi xuống ngay ngắn và suy-niệm về Ta, để cho những cảm-quan được hoàn-toàn điều-ngự, và để cho Tâm-thức được hoàn-toàn định-tĩnh.

 

62.                    Khi nghĩ đến rung-động quan-năng, con người đâm ra say mê chúng 42. Từ say mê nảy sinh ra ham-muốn. Từ ham-muốn nảy sinh ra giận-hờn.

 

63.                    Do giận-hờn sinh ra lầm-lẫn. Vì lầm-lẫn nên kí-ức bị xáo-trộn. Do xáo-trộn, tâm-thức bị huỷ-diệt. Bởi thế, con người mạng-vong.

 

64.                    Nhưng khi Tiểu-ngã được hoà-đồng, tiểu-ngã uyển-chuyển giữa các rung-động quan-năng, í-thức ra sức-mạnh của quyến-rũ và tị-hiềm. Tiểu-ngã ấy được điều-ngự bởi Đại-ngã Thánh-thiện, nên đạt đức Thanh-tịnh 43.

 

65.                    Nhờ sống trong Thanh-tịnh, nên khổ-đau bị hủy-diệt để cho Tâm-thức được định-tĩnh.

 

66.                    Nếu Tiểu-ngã không được điều-ngự, thì Tiểu-ngã không thể có Tâm-thức thuần-khiết. Cho nên, ta cần Thiền-định 44. Thiếu Thiền-định không thể có Thanh-tịnh. Thiếu Thanh-tịnh liệu ta có hạnh-phúc không?

 

67.                    Sở dĩ tâm-trí không còn sáng-suốt chỉ vì cơn thác-loạn quan-năng lôi cuốn tâm-trí như một chiếc tầu bị bão tố lôi cuốn ngoài khơi.

 

68.                    Này Tướng-quân. Tâm-trí của ai không bị quan-năng lôi cuốn, người đó là người có í-thức và có tâm định-tĩnh.

 

69.                    Cho nên, khi đêm bao trùm nhân-loại là lúc thức-tỉnh đối với bậc hiền-gỉa. Khi nhân-loại thức-giấc là đêm tối để bậc hiền-giản ngắm nhìn.

 

70.                    Kẻ nào bất-biến giữa cảnh-giới của dục-thú - như đại-dương vẫn mênh-mang yên lặng, dù cho có những gòng sông đang ồ-ạt chảy vào – kẻ đó đạt được đức Thanh-tịnh, và tiêu-diệt được dục-thú.

 

71.                    Ai từ bỏ được tất cả dục-thú và hành-động với lòng xa-thoát ích-kỉ, lợi danh, người đó sẽ đạt được đức Thanh-tịnh.

 

72.                    Này Nam-tử Prìtha (Arjuna). Thanh-tịnh là niềm đại hạnh-phúc của đấng giác-ngộ (Brahman). Ai đạt được đức Thanh-tịnh, trong lòng hết sạch hồ-nghi. Như thế, ở lúc lâm-chung, người ấy tới cõi Niết-bàn của miền Vĩnh-thể 45.

 

 

 

ĐỐI-THOẠI HAI

GHI-CHÚ

 

1.         Anàryasushtam ( An-Àrya + Jushta): Không trở thành một vị Àryan hay không được chấp-nhận là một vị anh-hùng, qúi-tộc.   

 

2.         Prajnàvàdàn (Prajnà + Vàda): Lời nói khôn-ngoan, đại-hiền: Câu này ngụ í rằng Arjuna thực tình chưa đạt đạo để trình bày một í-thức đúng về mặt nội-tâm kì-bí.

 

3.         Dehin: Linh-hồn hay bản-ngã hiện-thân.

 

4.         Màtràsparkshas (Màtrà + Sparsha): Va chạm với vật-thể quan-năng hay với những yếu-tính của vật-chất.

 

5.         Ameritatvàya: Bất-tử.

 

6.         Asat: Bản-ngã không thị-hiện (Phi-thực) hoặc “tính không hiện-hữu.” Sat: “Hữu-thể” hay “Hiện-hữu tính” chỉ tính hiện-hữu. Những từ này có tính triết-học chính-xác hơn trong hệ-phái Vedànta. Ví-dụ: Trong Advaita, Sat có nghĩa là ‘thường còn’, ‘vĩnh-cửu’, để chỉ Brahman. Nhưng Sat không bao giờ có nghĩa chỉ một số kinh-nghiệm có tính tự mâu-thuẫn, chẳng hạn câu nói, “Con trai của thiếu-phụ không con.” Những từ ngữ trên  được triệt-để dùng trong tư-tưởng về vũ-trụ quan trong Ảo-Nghĩa Kinh. Trong Chí-Tôn Ca, những từ này được dùng ra ngoài í-nghĩa kinh-điển.

 

7.         Avinàshin: Vô huỷ-diệt.

 

8.         Avyaya: Vô cấu-nhiễm.

 

9.         Nitya: Vĩnh-cửu.

 

10.        Abàshin: Vô Hủy-diệt.

 

11.        Aprameya: Vô-tri.

 

12.        Antavat: Tính diệt-vong.

 

13.        Trong “Katha Upanishad”, 1,2, 19, có đoạn: “Nếu kẻ giết người còn nghĩ rằng mình giết, và kẻ bị giết còn nghĩ rằng mình bị giết. Nghĩ như thế là vô-lí. Vì Đại-ngã không giết và cũng không hề bị giết. [Đây là vấn-đề liên-quan tới Đại-ngã. Nếu đây là chuyện của Tiểu-ngã, thì cái vô-lí chỉ nằm trong kẻ bị giết. Vì người ấy đâu còn nữa để “nghĩ” là mình bị giết.]

 

14.        Aja: Vô-sinh.

 

15.        Shàshavata: Mãi mãi, vĩnh-cửu, bền-bỉ.

 

16.        Sharira: Thân-xác.

 

17.        Sarvagata: Vô-sở bất-tại hay khả-năng truyền vào vạn-vật.

 

18.        Sthànu: Bất-biến.

 

19.        Acula: Bất-động.

 

20.        Avyakta: Không thị-hiện

 

21.        Acintya: Không thể tư-duy được.

 

22.        Avadhya: Vô hủy-diệt

 

23.        Pàpa: Tội-lỗi thông-thường ban đầu làm ung-thối nền móng xã-hôi.

 

24.        Buddhi: “Huệ-năng”, lẽ phải đạo, hay khả-năng tinh-tấn. Triết-học Ân-độ thường phân-biệt hai trạng-thái của đời-sống tâm-linh. Đó là Manas và Buddhi. Manas là tâm-trí của cảm-thức, có khả-năng du-nhập và tổng-hợp những ấn-tượng của giác-quan rồi đưa Tiểu-ngã vào những vật-thể ngoại-lai. Vì thế, Manas thiếu tinh-tấn chỉ mang đến cho Tiểu-ngã những tiền-nghiệm. Do đó, Manas cần phải được biến-thể nhờ vào sức vận-động của Tâm-trí cao hơn, tức Buddhi hay Huệ-năng, cũng còn gọi là Phật-tính. Phật-tính là khả-năng phán-xét để nâng cao và đưa những đức-tin của Tâm-trì về một í-thức đúng. Trong Chí-Tôn Ca, từ-ngữ Prajna cũng được dùng để chỉ những í-niệm về ‘Tri-thức’, ‘Hiền-tính’, và ‘Mẫn-giác’.

 

25.        Samàdhi: Sự tập-trung, hay tập-trung các khả-năng Tâm-trí về một đối-tượng duy-nhất,    tức là Thiền-định.

 

26.        Dvandva: Từ-ngữ này chỉ lưỡng-tính đối-nghịch, như “vui khổ”, “nóng lạnh”.

 

27.        Niryogakshema (Nir – Yoga + Kshema). Từ-ngữ này có nghĩa không lưu-í đến quyền-qúi, hay nói một càch khác “thoát khỏi sở-quyến”.

 

28.        Phala: Hậu-qủa. Từ này được dùng nhiều trong Chí-Tôn Ca để chỉ kết-qủa của hành-động.

 

29.        Samatva: Tâm Thanh-tịnh hay Trì-cửu.

 

30.        Buddhiyoga: Giới-luật tâm-thức hay phương-thế để đạt đến chính tinh-tấn (nội-tâm minh-triết). Cũng có nghĩa khả-năng Phật-tính.

 

31.        Karmasu Kaushalam: Khôn-ngoan trong hành-động. Đây có nghĩa là sự toàn-thiện của kết-qủa hành-động chuyên-nhất. Tức là  không hề bị ám-ảnh vì hậu-qủa của hành-động.

 

32.        Sthitaprajnasya (Sthita + Prajna): Người có tâm định-tĩnh.

 

33.        Kama: Lòng dục-tưởng, khao khát vật-dục.

 

34.        Àtman: Tiểu-ngã. Trong Chí-Tôn Ca, từ Átman cũng được dùng nhiều, và một đôi khi dùng theo nghĩa Đại-ngã, Bản-ngã bao-quát, hoặc Chân Đại-ngã của con người. Nhưng thông-thường Átman có nghĩa là Tiểu-ngã của mỗi cá-nhân. Khi ấy Átman đồng nghĩa với Jĩva và Durusha. Đôi khi các nghĩa này cũng biến mất trong Chí-Tôn Ca đễ làm gọn nghĩa trong câu.

 

35.        Anabhisneha: Xa thoát.

 

36.        Abhinandati: Được thỏa-mãn, sung-sướng.

 

37.        Dveshti: Thất-vọng, ghét, thù-nghịch.

 

38.        Indriyas: Ngũ-quan. Thêm Manas vào làm thành sáu quan-năng.

 

39.        Vishayas: Vật thể hay thú-vui của cảm-giác.       

 

40.        Param: Đấng Tối-thượng, Vô-thượng.

 

41.        Sanga: Đam-mê, quyến-luyến, hệ-lụy.

 

42.        Prasàda: Tâm Thanh-tịnh.

 

43.        Bhàvana: Tập-trung, cương-quyết, định-mệnh.

 

44.        Nirvànà: Vĩnh-phúc. Lúc ban đầu của đạo Phật, Nirvànà là từ rất phổ-biến. Trong văn-học, từ này có nghĩa ‘dập tắt ngọn lửa dục’ hay ‘một trạng-thái đạt đạo khi lòng dục không còn’. Trong Chí-Tôn Ca, Nirvànà có nghĩa là Vĩnh-phúc hay nguồn vui đến từ kinh-nghiệm tâm-linh.

 

 

ĐỐI-THOẠI BA

NGHIỆP HÀNH-ĐỘNG

Karmayoga

 

18. Krishna: “Không hành-động, không thụ-động thì không còn gì ràng buộc ở cõi đời. Người như thế không còn lụy vào kiếp sinh nào nữa.”

 

ARJUNA thưa

 

1.                     Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna). Nếu đức Hiền-tính cao hơn hành-động tại sao Người lại thúc đẩy tôi vào hành-động ghê tởm này?

 

2.                     Í-thức của tôi rối loạn vì những lời nói mơ-hồ của Người. Xin Người hãy dạy cho tôi con đường đạt đến mục-đích một cách rõ ràng.

 

ĐỨC THẾ-TÔN

 

3.                     Này Tướng-quân. Ta biết nhà ngươi là bậc trí-dũng cao-thượng. Nhưng trong thế-giới này có hai con đường: a) Con đường í-thức (Jnàna Yoga) dành cho những người nhận-thức (Sàn Khyas), và b) Nghiệp Hành-động (Karma Yoga) dành cho những người hành-động (Yogins).   

 

4.                     Không phải nhờ kỉ-luật trong hành-động con người mới đạt đến tự-do. Cũng không phải nhờ biết khước-từ hành-động  (xả-kỉ) con người mới đạt được toàn-thiện.

 

5.                     Thực ra, ta đâu có bao giờ ngồi yên. Ta hành-động từng giây phút vì ảnh-hưởng của phẩm-tính bẩm-sinh (Gunas) đến từ Prakriti. Cho nên đã sinh ra ta bắt buộc phải hành-động.

 

6.                     Kẻ nào nói hắn điều-ngự quan-năng 1 mà hắn còn tưởng đến 2 rung-động quan-năng. Kẻ đó là kẻ giả-dối vì tâm-trí của kẻ đó còn xáo-trộn.

 

7.                     Này Arjuna. Nhưng kẻ nào tâm-trí đã điều-ngự được quan-năng, đã thoát khỏi Nghiệp Hành-động (Karma-Yoga), kẻ đó đúng là một hiền-nhân (Yogì) và hắn sẽ đạt đạo.       

 

8.                     Vậy thì, nhà ngươi hãy hoàn-tất hành-động vì công-lí. Nên nhớ rằng hành-động luôn luôn tốt hơn thụ-động. Nếu nhà ngươi chẳng làm gì cả thì ngay đến việc lo cho thân-xác của nhà ngươi cũng không xong.

 

9.                     Này Nam-tử Kuntì. Khi thế-gian cần hành-động, thì hành-động ấy phải được hoàn-tất vì danh-nghĩa của đức hi-sinh 3. Vậy nhà ngươi hãy hoàn-tất hành-động của mình trong tinh-thần hi-sinh đó, và đồng thời phải cố-gắng thoát khỏi mê-chấp.

 

10.                    Thuở xưa, khi Đấng Tạo-hóa (Prasâpati)4 sinh ra nhân-loại. Đấng ấy ban cho nhân-loại đức hi-sinh 5 và dặn rằng: “Với đức hi-sinh này loài nguời tiếp-tục sinh con đẻ cái. Nhưng loài người phải cố giữ đức hi-sinh này là nguồn vui-sướng. 6

 

11.                    Tuy loài nguời phụng-dưỡng Thần-linh (Devas) bằng đức hi-sinh nhưng không biết Thần-linh có phù-hộ loài người không? Thế thì, loài người hãy nuôi-dưỡng lẫn nhau để đạt đến điều lành Vô-thượng.

 

12.                    Được loài người tôn-thờ bằng đức hi-sinh, Thần-linh chứng cho những gì loài người ao-ước, vì kẻ nào không đáp lại những gì mình nhận được, kẻ đó là một tên ăn cắp.

 

13.                    Người cương-trực làm sáng tỏ đức hi-sinh bằng cách thể-hiện đức hi-sinh cao đẹp cho người khác biết, nên người ấy thoát khỏi tội-lỗi. Người ích-kỉ chỉ vui-sướng bên mâm cơm đĩa thịt của mình, nên nuôi-dưỡng nhiều tội-ác.

 

14.                    Nhờ thực-phẩm phù-sinh mới sống. Nhờ mưa móc thực-phẩm mới sinh ra. Nhờ hành-động đức hi-sinh mới sáng tỏ.

 

15.                    Nhờ bản-ngã giác-ngộ (Brahma) mới có đức hi-sinh. Từ tâm Vĩnh-cửu7 mới có giác-ngộ. Vĩnh-cửu truyền vào vạn-vật, cho nên Vĩnh-cửu nằm trong đức hi-sinh.

 

16.                    Này Nam-tử Prithà (Arjuna). Kẻ nào không theo bánh xe Tạo-hóa, chỉ vui sống trong tội-lỗi và khoái-cảm, kẻ đó sống thừa.

 

17.                    Kẻ nào thấy niềm vui trong Đại-ngã, thỏa-mãn cùng Đại-ngã, và chỉ chấp-nhận Đại-ngã, kẻ đó không còn vướng-víu với đời.

 

18.                    Không hành-động, không thụ-động thì không còn gì ràng buộc ở cõi đời 8. Người như thế không còn lụy vào kiếp sinh nào nữa.

 

19.                    Cho nên, nhà ngươi hãy cố-gắng giải-thoát và hoàn-tất bổn-phận của mình. Khi hoàn-tất hành-động vô cấu-nhiễm, nhà ngươi đi vào Vô-thượng.

 

20.                    Hoàng-đế Janaka và những vị vua khác đạt được chân-lí nhờ hành-động và nhờ hoàn-thiện 9. Nhà ngươi hãy cố gắng hành-động và đừng quên rằng mục-đích của nhà ngươi là bổn-phận ở đời 10.

 

21.                    Bậc vĩ-nhân làm được điều gì thì phàm-nhân cũng làm được điều ấy. Thế gian thường noi theo gương sáng 11 của vĩ-nhân.

 

22.                    Này Pàrtha (Arjuna). Ta đạt được mọi điều trong ba thế-giới và ta cũng chẳng đạt được điều gì cả.

 

23.                    Này Pàrtha. Nếu ta không làm tròn bổn-phận của Ta, thì con người sẽ theo ta lơ-đãng bổn-phận dài dài.

 

24.                    Nếu ta không làm tròn bổn-phận của Ta, thì thế-gian sẽ tới lúc suy-tàn. Thế có phải Ta là nguyên-nhân của sự hỗn-loạn trong các giai-cấp, và cũng là sự tận-diệt của các phù-sinh hay không?

 

25.                    Này Bhàrata (Arjuna). Kẻ ngu hành-động vì mê-chấp bao nhiêu, thì bậc Hiền-gỉa khi hành-động càng tránh xa mê-chấp bấy nhiêu, và chỉ chuyên lo một mục-đích duy-nhất là giúp đời.

 

26.                    Bậc Hiền-gỉa không làm rối trí những kẻ u-mê khi hành-động, mà phải giúp họ vui trong hành-động, và đồng thời cũng làm tròn bổn-phận của mình trong tinh-thần kỉ-luật. 

 

27.                    Hành-động theo Thiên-lí, chứ không phải như những kẻ kiến-thức hẹp-hòi12 thường bảo: “Ta hành-động theo ta!”

 

28.                    Nhưng, này Tướng-quân. Kẻ nào phân-biệt rõ chân-tính 13 về vai-trò của quan-năng (Gunas) và hành-động 14 , nghĩa là “chỉ có các quan-năng sinh-chuyện quan-năng”, kẻ đó không mê-chấp. 

 

29.                    Ai bị quan-năng mê-hoặc thì đắm-mê hành-động của quan-năng. Bậc đại-trí không bao giờ làm rối-loạn tâm-trí của người chưa hoàn-thiện 15.

 

30.       Hãy lao đầu vào cuộc-chiến.

           Hãy hành-động cho Ta coi nào.

           Hãy tập-trung tư-tưởng về Đại-ngã Vô-thượng 16

          Hãy chiến-đấu và giải-thoát mình khỏi những đau-buồn.

 

31.                    Kẻ nào kiên-nhẫn noi theo giáo-huấn của Ta 17, tâm-hồn của họ tràn-trề trung-tín 18. Họ không còn than-van và xa thoát khỏi hành-động.

 

32.                    Kẻ nào khinh-miệt giáo-huấn của Ta, lí-trí và í-thức của kẻ đó không còn nữa. Kẻ đó sẽ rơi vào cõi diệt-vong.

 

33.                    Bậc Hiền-gỉa hành-động theo bản-sắc của mình. Phù-sinh hành-động theo bản-sắc phù-sinh. Ai cấm mình hành-động theo bản-sắc của mình?

 

34.                    Trở ngại lớn của con người là sự cám-dỗ và lòng hiềm-khích. Chúng sinh từ rung-động quan-năng (Gunas). Nhà ngươi phải chiến-thắng hai điều đó.

 

35.                    Dù cho bổn-phận của mình chưa hoàn-hảo cũng vẫn hơn là [mong chờ vào] bổn-phận tốt-đẹp của người khác. Nên chết theo bổn-phận của chính mình lựa chọn. Đi theo bổn-phận của người khác vô cùng nguy-hiểm. 

 

ARJUNA thưa

 

36.                    Bạch Đức Varshneya (Krishna). Thế-lực nào thúc đẩy 19 con người vào tội-lỗi?

 

ĐỨC THẾ-TÔN

 

37.                    Thế-lực đó là lòng ham-muốn, là sự giận-hờn. Chúng sinh từ Rajas, một đẳng-tính tham-ái, cấu xé và làm ung-độc tâm-hồn. Nên biết rằng, lòng tham-ái là kẻ thù của chúng ta nơi trần-thế.

 

38.        Tham-ái

            Như khói che khuất ngọn lửa,

            Như bụi làm mờ gương,

            Như màng-thai vây phủ bào-thai,

            Như Vô-minh che mờ Tâm-thức.

 

39.        Cho nên, dục-vọng che mờ đức Hiền-tính.

 

40.                    Kẻ thù này (dục-vọng) trú-ngụ 20 trong quan-năng (Gunas), trong tâm-thức, và trong chân-ngã của con người. Tham-ái chỉ chờ cơ-hội bộc-phát, che mờ đức Hiền-tính, và làm xáo-trộn tinh-thần.

 

41.                    Này vị Bá-chủ chư-hầu Bhàrata. Chính vì thế, trước hết, nhà ngươi hãy điều-ngự quan-năng (Gunas). Thứ đến, tiêu-diệt tội-lỗi, vì tội-lỗi hủy-diệt đức Hiền-tính (Jnànà) và Tri-túc (Vijnànà) 21 của Ta.

 

42.                    Con người thường coi trọng quan-năng (Gunas). Nhưng cao hơn quan-năng là Tâm-thức (Manas). Cao hơn Tâm-thức là Chân-ngã Thuần-khiết. Cao hơn Chân-ngã Thuần-khiết là tinh-thần bất-tử Atma [đây ám-chỉ Brama/Đại-ngã].

 

43.                    Này Tướng-quân.  Khi đã biết tinh-thần bất-tử Atma còn vĩ-đại hơn Chân-ngã Thuần-khiết, thì nhà ngươi hãy hoà-đồng với Đại-ngã và đứng lên tiêu-diệt kẻ-thù dục-vọng.

 

  

ĐỐI-THOẠI BA

GHI-CHÚ

 

1.         Karmen Driyàni (Karmat Indriya): Những năng-lực hành-động hoặc là năm quan-năng vận-chuyển như: lưỡi, chân tay và những cơ-năng sinh-sản và bài-tiết.

 

2.         Smaran: Sự ngừng lại (vận-chuyển) hay nhớ lại.

 

3.         Niyata: Được phân-phát, cấp hay ban cho. Cũng có nghĩa là công-nghiệp được chỉ-định theo bổn-phận của mỗi người.

 

4.         Prajàrati (Prasâpati): Thượng-Đế, Đấng Chí-tôn của muôn loài. Từ này thường thấy trong Rig Veda

 

5.         Yajna: Đức hi-sinh.

 

6.         Kàmadhuk: Đặc-hứa (cố giữ)  hay đặc-nhượng lòng ham-muốn. Cũng có nghĩa một con bò thần thỏa mãn tất cả ước-vọng.

 

7.         Akshara: Khả-năng vô hủy-diệt. Từ-ngữ được dùng trong Triết-học Bà La Môn (Brahmanism). Từ này là nguyên-âm đầu cho cách phát-âm của từ vô huỷ-diệt. Nó bao hàm mọi í-nghĩa và được hiểu theo bậc Đại-sư Bà La Môn là Bản-ngã Tuyệt-đối, tức Đức Thế-tôn.

 

8.         Artha: Lợi, quyền-lợi, mục-đích, biểu-í, ràng-buộc.

 

9.         Siddhi:  Tính toàn-thiện.

 

10.        Lokasangraham (Loka + San-Graha): Cách cai-trị thế-giới. Từ này có nghĩa sự cai-trị, hướng-dẫn trật-tự xã-hội hơn là ổn-định thế-gian vật-chất.

 

11.        Prmàna: Tiêu-chuẩn, mẩu-mực.

 

12.        Ahankàra: Lòng ích-kỉ. Cũng có nghĩa “Cái tôi í-thức” về nguyên-tắc phân-tích luận trong đạo-học Sànkhya.

 

13.        Tattvait (Tattva + vid): Ai biết được chân mật-tính là người hiểu được bản-chất của mật-tính. Từ Tattva còn có nghĩa ‘chân-lí’.

 

14.        Gunakarmavibhàgyoga (Guna + Karma + Vi-Bhàga): Sự tách rời (Linh-hồn) khỏi Gunas và hành-động. Cũng có nghĩa sự phân-biệt giữa Gunas và hành-động.

 

15.        Akritsnavida (A-Kritsna + Vida): Chỉ biết có một phần hoặc không biết hết.

 

16.        Adhyàtmacetasà (Adhi + Átma + Cetassà): Í-thức chuyên-nhất về Đại-ngã Tối-thượng.

 

17.        Mata: Tôn-chỉ, quan-niệm.

 

18.        Shraddha: Lòng trung-thực. Từ này không có nghĩa tín-điều và cũng không có nghĩa hướng dẫn đời-sống của một người vế triết-lí tinh-thần.

 

19.        Niyojta (Ni + Yuj): Bị bắt buộc, ức-chế, gượng-gạo.

 

20.        Adhishthàna: Căn-bản, nền-tảng, nền-móng.

 

21.        Jnàna: Đức Hiền-tính (Vijinàna): Hiểu-biết. Sự khác nhau giữa Jnàna và Vijinàna rất rõ trong Chí-Tôn Ca mặc dù khó khẳng-định được í-nghĩa tinh-xác của chúng. Jnàna là ‘Đức Hiền-tính của Tâm-thức’ hay ‘’Nội-tâm Trực-khởi’. Vijnàna là ‘tri-thức’ hay ‘Í-thức bao quát’.   

 

Nguyễn Quỳnh USA
Số lần đọc: 3787
Ngày đăng: 12.09.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ngồi Bên Lề Rất Trái - Nhiều Tác Giả
Về một nhà thơ mới qua đời - Lê Văn Ngăn
Gặp Nhau Lúc-O-Giờ Với Trần Hữu Dũng - Nhị Ka
Bản Quyền Lục Bát 2-Trong-1, Tại Sao Không? - Bùi Hoằng Vị
Bát Cú 6-Trong-1, Tại Sao Không? - Bùi Hoằng Vị
Thông báo: Về lễ tưởng niệm đồng bào chiến sĩ hi sinh - Nhiều Tác Giả
Tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng đã từ trần vào lúc 11 giờ 00, ngày 22 tháng 7 năm 2011 - Nhiều Tác Giả
Thân mẫu thi sĩ Lê Vĩnh Tài qua đời. - Lý Đợi
Chia buồn Nhà thơ Văn Hữu Tứ vừa đột ngột qua đời tại Huế - Nhiều Tác Giả
Tập tuyển thơ 672 trang của Nhà thơ Tường Linh sắp ấn hành, mong bạn hãy ủng hộ hoặc đặt mua trước tuyển thơ này. - Nhiều Tác Giả
Cùng một tác giả
Suy-Tư Hai (triết học)
Một Tí “Rilke” (tiểu luận)
Khoảnh-Khắc (tiểu luận)
Nắng Hè (tạp văn)
Fôi-Fa (tạp văn)
Bến-Xưa (tạp văn)