Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.389 tác phẩm
2.747 tác giả
712
116.715.259
 
Trần Nam Phong và viết chờ sen lên
Yến Nhi

 

            Viết chờ sen lên (*) , tập thơ đầu tay cũng như nhiều bài khác trên trang Fac của Trần Nam Phong rất được bạn đọc trìu mến đón nhận. Lãng đãng ít sắc màu triết lý, pha một chút hương vị thiền, đậm chất trữ tình đồng quê…, thơ của anh gợi nhiều ấn tượng cho bạn đọc! Tuy nói tập thơ đầu nhưng là tập đại thành cả một quá trình sáng tác rất dài của anh, nên tập thơ nhìn chung chỉn chu, thoáng đãng đọc rất dễ vào.

             Sinh ra ở một miền quê có nhiều đặc sắc, nơi đây là mảnh đất cuối, địa đầu phía Nam  của nước Việt cổ và cũng là tuyến sau của bao lớp binh đao thời Trịnh- Nguyễn phân tranh. Một vùng  hỗn cư  nhiều lớp cư dân, ngoài người bản địa, còn nhiều lớp người từ xa đến: những cung phi, thái giám, quan lại thất sủng , kẻ phản loạn chống triều đinh bị đi đày, nho sĩ ẩn cư vì thời loạn…, theo với lẽ hưng phế của thời cuộc họ cùng gia quyến về đây sống bao đời tạo nên một lớp cộng đồng nhiều nét đặc biệt. Văn hóa đằng ngoài ảnh hưởng vào đây từ rất sớm. Sinh thời nhà nghiên cứu văn hóa Thái Kim Đỉnh có cho rằng, không phải ngẩu nhiên mà hai vị tiến sĩ Lê Quảng Ý, Lê Quảng Chí thuộc lớp khoa bảng đầu tiên nước ta ( tk14), các nhà  khoa học, nhà văn hóa tên tuổi về sau cùng những doanh gia xây dựng cơ nghiệp lớn trên đất Âu, Mỹ  nhiều  người xứ này…Đời sống tinh thần mãnh liệt, tính cần cù nhẫn nại của đời trước còn truyền lại cho đời sau tạo một cốt tính để thích nghi hoàn cảnh! Trần Nam Phong gắn bó nhiều năm nắm rõ sắc thái  văn hóa xứ quê và không phải điều đó không ảnh hưởng ít nhiều trong sự chuyển dịch âm hưởng đời sống vào thi ca tạo một âm hưởng riêng mà quê hương mang lại.

             Trên con đường từ miệt quê về phố thị anh vẫn mang theo nhiều âm hưởng  quê kiểng tạo nên trong thơ một nét trong sáng dịu dàng mà không ít bạn đọc thích thú.Từ cái ấn tượng đầu tiên tập thơ Viết chờ sen lên  đập vào cảm thức độc giả một hương vị của mùa sen đến độ, rồi sau đó những vần thơ trên trang fac cồn lên bao kỷ niệm về dấu chân người ra đi …

             Bạn trẻ đọc thơ anh, bắt gặp một cảm xúc dịu ngọt mà mới mẻ trước tiên ở mảng thơ tình.  Những câu thơ khá độc đáo, với những hình ảnh lạ, ngôn ngữ cũng rất ấn tượng:

…Bìm bịp ngủ trong lồng ngực em /Anh mơ làm con nước/

…Trăng thức để tròn/ Sao tình em/Lại khuyết

…Gió ngậm tóc đi tu/Sen thơm vào cốm nõn/Mình anh thơ thẩn tìm thu

…Ra bể tìm sông, sông giấu mặt/Mùa đi/Vời vợi mảnh buồm nâu

(Tìm thu)

…Bìm bịp ngủ trong lồng ngực em/…Gió ngậm tóc đi tu/ Sen thơm vào cốm nõn.

Những hình ảnh vừa ẩn dụ vừa siêu thực đánh mạnh vào cảm giác người đọc. Cảm xúc thì trẻ trung, ngôn ngữ lại mới mẻ, những câu thơ mang hương vị riêng.

Hay:

Tiếng chim gáy cất lên/Em họa mi trong mắt

Bình minh/Mang cơn mưa/Về gieo hạt

Anh nhặt được/Những ánh sao/Còn ướt

(Bình minh)

Người và vật, hình và tiếng, tất cả quyện lẫn hài hòa đánh thức các giác quan người đọc trong một niềm hân hoan khó tả . Niềm hân hoan của tình yêu! Dẫu sao đó cũng là cơn mơ tình ái. Nó lóe lên ở một vài bài, đa phần thơ anh mực thước và mang âm hưởng làng quê hồn hậu.

                Như một nhà thơ tiền bối đã nhắc nhở , Thơ hay cốt hai đìêu: chân thật và có nét riêng! Hai điều đó đều có ở thơ Trần Nam Phong. Những điều anh thổ lộ về quê hương, cha mẹ ,về tình yêu đều rất mực cảm động và cái dư vị đồng quê tạo nét riêng thơ anh. Một miền quê nghèo còn đầy sương gió  nhưng không vì thế mà làm nguôi nỗi nhớ nhung, yêu mến của tác giả. Nhớ câu thơ cua P.Neruda “ Tôi yêu đến tận cùng gốc rễ , Quê hương tôi nhỏ bé lạnh lùng”. Anh cũng vậy, yêu từ  Mấy cành lan mộc lúc trăng lên  đến Những hòn đá trắng mờ rêu xám của cáí thôn nghèo Hoàng Diệu cho đến những vườn cau, những chiếc cầu mà trên đó từng in dấu mẹ, dấu em:

…Vườn quê vẫn ngát hương cau

Lối về phố thị bắc cầu qua sông

Nhớ xưa dáng mẹ trên đồng

Áo tơi, nón lá, nâu sồng nắng mưa.

                                           (Khúc hạ 3).

.. .Ta về núi bỗng hai vai

Con sông thì chảy dặm dài nhớ mong

Bàn chân bước giữa cõi lòng

Em ơi sông rộng nhưng không có đò

                                                (Bên sông).

         Thơ Trần Nam Phong  rất sâu nặng tình cảm với cha mẹ. Đó là mẫu số chung của tình người ai cũng có, nhưng Trần Nam Phong đậm đà nồng hậu một cách nói riêng. Anh gắn  hình ảnh mẹ với “nỗi buồn tháng tư”, nỗi mệt nhọc vất vả của mẹ qua đặc tả vạt áo  mồ hôi trên cánh  đồng chiêm tái nhợt lưỡi cày vào lúc trời  thâm thẩm tối .   Hình ảnh thơ đầy sức gợi về thời gian và cường độ lao đông, nói rõ sự vất vả, mệt nhọc của mẹ ( Tháng tư)! Hay những câu thơ đầy thương cảm“Lối nào mẹ tôi chạy chợ/ Nôn nao đòn gánh bán mua”, với hình ảnh người mẹ  với “chiếc đòn gánh” hơn một lần xuất hiện trong “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du người đọc gặp lại trĩu nặng cõi lòng (Thơ gửi mẹ ngày giáp hạt).  Cộng hưởng thêm là nỗi thương nhớ khôn nguôi đối với người cha cùng anh gắn bó năm tháng nay đi xa: Đưa cha qua cánh đồng chiều/ Khổ đau níu lại bao nhiêu tháng ngày. Nỗi niềm làm tím cả khung trời tháng tư! Tình nghĩa gia tộc nhuần đượm trong thơ anh, nó tạo nên cảm giác miên man, xót xa mà trầm tĩnh. Đọc thơ anh cảm xúc ta lắng lại một dư âm hoài niệm lan xa mãi.

                   Kỳ Anh là một miền đất nhiều thắng cảnh sông, núi, biển ,đồng, luôn tạo những nét riêng vừa hùng vĩ vừa dịu dàng luôn níu giữ bước chân du khách. Cảnh quê  trìu mến nồng đượm trong thơ anh. Nơi có Đèo Ngang thơ mộng, đền Bà Chiêu Trưng cổ kính, Chợ Voi hoang dã nơi Quang Trung từng làm trại dừng đàn tượng binh trên đường ra Bắc. Đây cũng là nơi khúc thắt giao thông tuyến đường Nam Băc thời chống Mỹ là vùng trọng điểm chịu nhiều bom đạn, có nhà văn đã viết về vùng đất này “ Một chiếc cầu ba thước mặt trời lên bom dội chùm chùm”, nơi “ Từng chuyến xe qua từng dặm lửa/ Bom đạn trong chiều bay đuổi theo”(Quốc Anh).  Bao xương  máu đã đổ để giữ mạch máu này! Tập thơ đã phản ánh khá rõ nỗi gian lao mà anh dũng của mảnh đất quê , nơi Dòng sông thức với phù sa/ Nên chi điệu ví đậm đà hồn quê nhưng cũng là nơi “Mộc miên dậy đỏ đất trời/ Hoa rơi như níu hồn người bay lên/ Chiều ơi, chiều có bình yên/ Nơi bao xương máu nặng nguyền núi sông”.

           Trần Nam Phong còn nặng tình với quê, một tình cảm sáng trong mà đằm thắm gắn với những năm tháng trẻ trung của mình, những hình ảnh thân thương thuở hoa niên hiện về trong thơ anh rất cảm động: những ngọn khói, cánh diều, mùa phượng vĩ, những tiêng ve ngân dội lên trong lòng anh bao xao xuyến :

…Bâng quơ ngọn khói lên trời
Cánh diều no gió rong chơi chốn nào
Lá đa thả vạn bè sao
Bao nhiêu hạt gạo nôn nao ngân hà

…Mây lành chầm chậm lên cao
Đã nghe trong gió xôn xao hạ về
Vườn xuân e ấp tiếng ve
Đâu đây lửa phượng đam mê đất trời

  (Khúc hạ 3)

      Tập thơ không chỉ nổi bật bởi những khúc tâm tình sâu lăng, những niềm vui bàng bạc về tình yêu, tập thơ còn gợi cho ta một bề sâu khác của tâm tình thi sĩ, ấy là nỗi bâng khuâng lo âu với cuộc đời, với thế sự.  Tác giả nhìn cuộc đời bằng con mắt tình yêu nhân thế có pha chút suy tư của thiền giới. Qua một màn mưa anh thấy:

…Mưa rút ruột trời/ Chẳng lấp nổi đáy tham trần thế/

                          Mưa ơi có hay/  Khổ đau đã thành sông bể

Hay:

…Quê hương ơi đã qua thủa đói nghèo

Vẫn còn đó bao khổ đau, bất hạnh

Nhà thơ có thể rất vui với sắc màu cuộc sống đổi thay trên quê hương nhưng không bàng quang với những nghịch cảnh đang tồn tại. Nhận thức rõ sự hy sinh của  cha anh  một thời qua “ Trên đất nước máu xương thành sông núi”, thấy rõ trách nhiệm thế hệ đi sau, đó là tâm niệm của anh. Sự mong ước của tác giả có pha mùi đạo giới nhưng bề sau là tấm lòng của một con người sống không bàng quan vô  trách nhiệm với đồng loại : Biết đâu trong cõi vô thường/ Nguyện làm ngọn cỏ lót đường người đi/ Biết đâu trên nẻo thiên di/ Nguyện làm chiếc lá yêu vì mùa xuân ( Viết chờ sen lên) . Vẫn biết sự mong manh bé nhỏ của mình, của một kiếp người, của một kẻ “với bất công, đang vào trận đánh” vẫn không nguôi mơ ước:

Chiếc lá mục cuối vườn

Gân lá cuốn theo dòng lũ

Xoay tít giấc mơ hóa thân

                                            Làm chiếc bè cứu nhân độ thế

             Tôi yêu những giấc mơ tự đáy lòng của thi sĩ, như trước đây Chế Lan Viên cũng từng thao thức “Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể/ Để mặn lòng những kẻ muốn vô tư”.  Thầm cảm nhận bề sâu những suy cảm trong thơ của anh. Nếu chỉ toàn niềm vui dẫu hay đến đâu thơ cũng sẽ nhẹ so với đời!

            

                  Thơ Trần Nam Phong dẫu chưa có phong cach thật riêng nổi bật cá tính sáng tạo nhưng cũng đã có nhiều nét riêng về ý tứ, câu chữ. Con đường thi ca anh  đi mới ở chặng đầu, chắc còn nhiều thay đổi cho đến khi anh “ngộ” được cái “tạng” thơ của mình. Cái đáng quí là những  tác phẩm đầu tiên của anh đã đến được với tấm lòng bạn đọc. Đón chờ những tác phẩm mới của anh!

-------

(*) Viết chờ sen lên, Thơ Trần Nam Phong, NXB HNV 2020

Tháng 5-2021

 

(Hội VHNT Hà Tĩnh)

 

 

Yến Nhi
Số lần đọc: 589
Ngày đăng: 08.06.2021
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thơ thế sự của người sống trong “Mối,mọt,gián,chuột,bóng tối…” - Nguyễn Anh Tuấn
Tình yêu quê hương trong thơ Trường Hải - Hoàng Thị Bích Hà
Chân cảm một hồn thơ. - Yến Nhi
Đọc bài thơ “Đêm trăng leo lên mái chùa” của Thi sĩ Trần Thoại Nguyên - Châu Thạch
Hoàng Cầm Ca, chương khúc của tâm giao - Phan Trang Hy
Rung cảm bằng nhịp đập thời đại - Nguyên Bình BRVT
“Tình khúc” của Nguyễn Đức Tùng: một cánh cửa mở? - Trần Hạ Vi
Tô Thùy Yên, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới - Nguyễn Đức Tùng
Gợi mở một triết học phồn sinh - Hồ Bá Thâm
Tái sinh – Biển vẫn hát cùng anh - Hoàng Thị Thu Thủy
Cùng một tác giả
Ban Mai (thơ)