Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
724
116.710.042
 
Từ lục bát Miên Di, tới thơ siêu thực Bùi Minh Vũ
Du Tử Lê

 

Trong ghi nhận của tôi, chúng ta có nhiều người làm thơ hôm nay, cho thấy tính quyết liệt (nếu không muốn nói là dẫy dụa), để thoát khỏi bóng rợp, phủ rêu nhiều chục năm của thể thơ ấn tượng, tượng trưng, trừu tượng,…

 

Hay theo trào lưu hiện thực đang được nhiều người tìm đến, như một lối thoát khác, một hình thái tự khẳng định sự có mặt của thơ mình trong giai đoạn đất nước có quá nhiều biến động…

 

Tuy nhiên, không phải người làm thơ nào cũng thành tựu trong nỗ lực có được cho mình, một cõi thơ khác; một mặt trời riêng.

Tôi biết nhiều người làm thơ trẻ, đem tình yêu thi ca, trở về nguồn với thể thơ lục bát. Nhưng không ít người vì những tưởng lục bát dễ làm, để rồi “sản xuất đại trà” thể thơ này, mà không chút cân nhắc, trăn trở với hình ảnh, ý tưởng. Theo tôi, có thể những người làm thơ ấy, không chú ý hoặc không nắm được diễn biến căn bản của thể thơ truyền thống đó. Họ quên rằng, đời sống (ở tất cả mọi mặt), như dòng sông nước chảy. Nó thay đổi, biến chuyển hằng ngày. Lãnh vực văn học, nghệ thuật không ngoại lệ.

 

Quay ngược thời gian, từ xa xưa, chúng ta có thi hào Nguyễn Du, người định hình và đẩy thể thơ này tới đỉnh cao nhất với tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” – dạng chuyện kể. Nối tiếp truyền thống lục bát kể chuyện của Nguyễn Du, là Nguyễn Bính, người học trò tài hoa, gần cận với thời đại chúng ta nhất, sau Nguyễn Du.

 

Tới thời Huy Cận, hay Hồ Dzếnh,… họ đã làm một cuộc “cách mạng xanh” cho lục bát. Khi hai thi sĩ tiền chiến tên tuổi này cho thấy nỗ lực xóa bỏ truyền thống hay vai trò kể chuyện của lục bát, để lục bát có thể bay tới những chân trời cảm thụ tinh khôi. Mới mẻ. Lục bát ở thời kỳ Huy Cận, Hồ Dzếnh… được xây dựng trên căn bản hình ảnh nối tiếp hình ảnh, hoặc hình ảnh kêu gọi (liên tưởng) tới những hình ảnh thuận/nghịch khác.

 

Cả hai hình thái lục bát kể trên, đến nay, vẫn còn như hai vòng kim cô, chi phối một số người làm lục bát của chúng ta.

Trong ghi nhận của riêng tôi, thì chúng ta đã có một số nhà thơ trẻ, đau đáu với ý thức làm sao thoát khỏi vòng kim cô “Đoạn Trường Tân Thanh;” thậm chí Huy Cận, Hồ Dzếnh…

Tuy nhiên, cũng tới hôm nay, số người làm thơ trẻ tìm về với lục bát thì nhiều. Nhưng thành công với quyết tâm gỡ bỏ hai vòng kim cô kia, thì không được bao người. Trong số ít oi đó, tôi thấy có Miên Di.

Nhà thơ Bùi Minh Vũ. (Hình: Bùi Minh Vũ cung cấp)

Cũng là lục bát, nhưng Miên Di tổng hợp được hai phạm trù lớn của thi ca và những sần sùi, ghẻ tróc, bẽ bàng nhân thế, đời thường:

“con sông hỏi chuyện con đường
quanh co với những vết thương ổ gà
– cuối đường có biển không ta?
– biển của bọn tớ chính là bùng binh.”

Hoặc:

“này con kiến nhỏ loay hoay
đừng tưởng chỉ mỗi mình mày quẩn quanh.”

Hoặc nữa:

“cuối năm phố xá xoay mòng
ai đi trong ấy mà không thấy mình
phố như lòng một rối tinh
tiếng còi cáu gắt vào thinh không buồn
bao người dại, mấy kẻ khôn
dòng người chung một bồn chồn cuối năm
kìa anh khuôn mặt đăm đăm
kìa bà bương bả liều băng qua chiều
kìa tôi khóc với ít nhiều
kìa người điên đứng giữa điều có không…”

(Miên Di, trích “Cuối Năm”)

***

Với tôi, lục bát của Miên Di không còn là những:

“Ngập ngừng mép núi quanh co
lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang”

(Huy Cận)

Hay:

“đâu hình tàu chậm quên ga
bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày”

(Hồ Dzếnh)

Mà mỗi câu thơ của Miên Di, đã như một mũi khoan đau đớn, khai quật những mỏ-dầu-vô-thức-bầy-đàn:

“đười ươi lặng lẽ ngắm chiều
nỗi buồn tiến hóa thành điều quạnh hiu”

(Miên Di, trích “Quạnh Hiu”)

Cũng trên lộ trình gian nan, nắng, gió kiếm tìm cho mình một cõi thơ khác, một thế giới riêng, lẻ, tôi gặp một Bùi Minh Vũ qua thi phẩm “Tình Yêu Muộn” mới ấn hành.

Theo tôi, Vũ đã sớm có cho mình, một chọn lựa khác: Không lục bát. Không tượng trưng. Không trừu tượng. Mà siêu thực.

Tôi muốn gọi cõi thơ của Vũ là “Tiếng-thơ-siêu-thực-chính-ngọ.”

Đọc kỹ toàn bộ thi phẩm mới của Bùi Minh Vũ, tuy người ta vẫn bắt gặp rải rác đây đó, những câu thơ mang tính biểu tượng. Nhưng toàn thể trái tim của thi phẩm, thịt, xương thi ca của Vũ, vẫn ở vị trí “chính ngọ” của tiếng thơ siêu thực, qua hầu hết những bài thơ, dài, ngắn của ông.

Tôi vẫn quan niệm, đọc một bài thơ, dù được tác giả sáng tác theo thể loại nào, tượng trưng hay siêu thực… thì người đọc cũng không nên bận tâm, tìm hiểu ý nghĩa rốt ráo của câu thơ (bài thơ ấy). Nhất là với những bài thơ mang tính siêu thực. Cũng giống như khi đứng trước một bức tranh trừu tượng, ở vị trí người thưởng ngoạn, chúng ta chỉ nên tự hỏi mình, có cảm thấy cái đẹp của bức tranh hoặc, bài thơ ấy có làm ta rung động với những câu thơ lạ hay không mà thôi.

Việc tìm hiểu ý nghĩa rốt ráo của câu thơ (bài thơ) kia, đó là công việc của các nhà phê bình, của những thức giả nghiên cứu thi ca.

Y cứ trên tiêu chí vừa nêu trên, ở vị trí của một người đọc bình thường (không phải là một nhà phê bình), thì ngay nơi bài thứ nhất, mở đầu thi phẩm, tựa đề “Tình Yêu Muộn” khá dài, có tới chín khổ của Bùi Minh Vũ, với tôi, đã là một bài thơ mới, lạ, bất ngờ từ hình ảnh, tới những so sánh, liên tưởng…

Tôi trộm nghĩ, nếu không chọn cho mình con đường thơ siêu thực, Vũ sẽ rất khó (nếu không muốn nói là không thể) có được những câu thơ mới, lạ như:

“…bóng đen đốt cháy mặt trời ngâm rượu
lòng vòng trong ánh mắt
ngày thẫn thờ trong hơi thở cay
ta nhìn em bằng sợi tóc lẻ loi
bằng sợi tóc lẻ đôi.”

Hoặc:

“Ta thấy em như con kiến trên ngón tay áp út
ngậm linh hồn
vẫn không qua được vỏ ốc
tiếng não nề dội vào má…”

Hoặc:

“Rướn thân trổ vào đôi má mùa xuân
em lại mới lần đầu
mặt trời chưa từng chạm đến…”

Hoặc:

“Một hôm
ta trôi vào vô biên
khao khát
em xúng xính bước đi
ta quăng mình vào bờ rìa tăm tối
lò cò tái tạo một cơn giông
trên đỉnh trời tròn…”
thổi bóng em hun hút.”

(Trích “Tình Yêu Muộn,” các khổ thơ 1, 4, 7)

Hoặc nữa:

“… như trái tim bị dày xéo
chung quanh cái nắp chụp
một ngày tạo ra vô số ngày đáng yêu
thách thức quyền năng của thời gian điếc
gió bập bùng xuyên không gian câm…”

(Trích “Một Ngày Không Có Trong Giấc Mơ”)

Và:

“Một hôm ta thấy
mình mọc nhiều đôi tay
nhặt hết nội tạng và cái đầu của giấc mơ
đè bẹp những linh hồn nhỏ
đặt lên đĩa bay
về xứ…”

(Trích “Một Hôm Ta Thấy”)

Tuy tìm vào và chọn “ăn, ở” với siêu thực, nhưng Vũ không đem thơ ông về với viễn tưởng huyễn hoặc hay hư vô thiên thu mơ hồ mà, ông cho thấy sự gần gũi, rất người, cụ thể là tình yêu, qua bài thơ “Mùa Xuân”:

“Những con chữ của anh là các ký hiệu
Ghép thành gương mặt em
Hàn gắn bằng rượu
Rạng rỡ mùa xuân
Những bài thơ của anh là màu sắc
Khoát lên người em lụa là
Cài khuy bằng môi
Bùng sáng trong đêm
Những tập sách của anh là tấm đắp hồng
Thân thể ngọc
Chẳng hề vung vãi
Dù ngoài kia rung dội
Ôi thân anh và thân em
Chạm vào giấc mơ bồng bềnh ngẫu nhiên
Bằng ký hiệu âm thanh và lửa
Những nốt nhạc ngân lên.

***

Lại nữa, tôi cho Bùi Minh Vũ có tinh thần tự giác rất cao, khi viết những bài thơ nghiêng nặng siêu thực. Ông đã hạn chế tối đa việc sử dụng tính-từ – một khía cạnh đặc thù, vốn tiêu biểu cho sự phong phú, giàu có của từ ngữ Việt, rất ứng hợp với những bài thơ tượng trưng, tả tình…

Tính khô, cứng tới độ có thể “vênh, cong” trong thơ Vũ, với tôi, cũng là một điểm son khác nữa, để thơ ông, tự thân có được cho riêng nó, một chỗ đứng.

Chỗ đứng mang tên Bùi Minh Vũ: Tiếng-thơ-siêu-thực-chính-ngọ. 

 

 

Du Tử Lê
Số lần đọc: 1273
Ngày đăng: 10.08.2018
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Khi cây trái vào mùa - Nguyễn Thánh Ngã
Thơ của một người Quảng… - Phan Nam
Tiếng hát đời thường - Phạm Ngọc Thái
Hà Đông trong nỗi niềm của một nhà thơ - Nguyễn Anh Tuấn
Giới thiệu sách mới: tiểu thuyết “Đẻ sách” - Đỗ Quyên
Đến với bài thơ “Chung” của Đặng Xuân Xuyến - Đặng Xuân Xuyến
Thơ Haiku Nguyễn Thánh Ngã “Viết từ sương mù và trên cánh hoa”(*) - Chế Diễm Trâm
Có điều như chưa nói với Sông Trà - Nguyễn Thánh Ngã
Tiếp biến văn hóa trong kịch Lưu Quang Vũ - Tuấn Giang
Đinh Tiến Luyện - Phạm Thanh Chương