Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
824
116.689.332
 
Tự Truyện Osho 1
Đỗ Tư Nghĩa

 

Autobiography Of A Spiritually Incorrect  Mystic

 

Bản dịch  :  Đỗ Tư Nghĩa. NXB Trẻ, 2007.

Phiên bản gửi đăng trên Văn chương Việt có một số chỉnh sửa, so với bản đã in.

 

VÀI GHI CHÚ NHỎ CỦA NGƯỜI DỊCH:

 

1.Tất cả những chỗ in đậm, in nghiêng, và những ghi chú cuối trang trong bản dịch này, đều là của người dịch. Về những “ghi chú ngẫu hứng”, thì bạn đọc hoàn toàn có thể bỏ qua, nếu không thấy cọng hưởng.

 

2. Tôi cố ý chua thêm một số từ tiếng Anh, để bạn đọc có thể tham khảo.

 

3. Bài giới thiệu của Chu Phương Vân, được đăng tải ở đây, có một chút khác biệt so với bản đã in thành sách & bản đang lưu hành trên các Website. Sự khác biệt nằm ở chỗ: phần IV là do Đỗ Tư Nghĩa viết. Để rõ hơn, xin xem thêm các ghi chú số 2 và số 5.

 

4, Trong bản đã in năm 2007, NXB Trẻ, có ghi: “ Cuộc đời của Luận sư Rajneesh Chandra. Đỗ Tư Nghĩa sưu tầm & biên dịch.” Đó chỉ là cách ghi của những người làm sách, hoàn toàn ngược lại ý muốn của người dịch. Nay xin ghi lại đúng như bản thảo ban đầu, như sau: “ Tự truyện Osho. Bản dịch: Đỗ Tư Nghĩa.” Cũng xin nói rõ rằng, đó chỉ là một bản dịch thuần túy, bởi vì tôi chẳng hề “ sưu tầm” và “ biên” cái gì cả!

 

Đỗ Tư Nghĩa

Dalat. 20.8. 2012.

 

 

ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH

 

I

 

Trước khi đến với bạn đọc, bản thảo của bản dịch Tự Truyện Osho đã qua tay một vài bằng hữu. Một người bạn, hiện đang sống ở nước ngoài, có nhã ý giúp “duyệt” qua bản thảo.  Ban đầu, chàng hẹn sẽ hoàn tất trong vòng một tháng. Không ngờ, 5 ngày sau chàng gửi lại bản thảo, với một số “biên tập” và góp ý. Bảo rằng : “Mình cũng ham đọc cho hết Tự Truyện Osho. Nên “vượt chỉ tiêu.” Tôi mừng quá, vậy là, cũng đã có một “độc giả” bị “hấp dẫn” bởi Tự Truyện này. Mà chàng không phải là một “độc giả bình thường.” Chàng là một “độc giả có hạng” ! Một người nữa, cũng rất thân quen với NXB Trẻ, sau khi đọc xong bản thảo Tự Truyện Osho, đã gửi cho tôi những lời chân thành nói lên niềm yêu thích.

 

Đó là chưa kể niềm “giao cảm” mà một chị BTV [1] và một “cô chủ” của một nhà sách ở Sài gòn  đã dành cho người dịch, bằng  những tiếng cười vui trên phone.

 

Tôi có đủ “tỉnh táo” để biết rằng, sự ưu ái đó là dành cho Osho, chứ không phải cho bản dịch này. Dù vậy, người dịch cũng thấy được “vui lây” – vì đã được “ăn theo” Osho. Ông quả là một con người kỳ lạ!  Thế mới biết, khi được ở gần một bông hoa thơm, thì dường như mình cũng vương một chút mùi hương trên áo!

 

II

 

Trong  tập sách này, đã có một bài giới thiệu của Chu Phương Vân, cọng thêm một lời nói đầu và một bài  tựa của nguyên tác. Mặc dầu vậy,  tôi vẫn không kìm được niềm ao ước bày tỏ một đôi điều.

 

Đọc Osho, đối với tôi, về một phương diện nào đó, cũng gần giống như đọc Nietzsche – mặc dù Osho là một đạo sư chứng ngộ, còn Nieztsche, thì “chỉ là” một triết gia mà đã đi vào cơn điên loạn suốt 10 năm cuối của đời mình. Nhưng họ giống nhau ở chỗ, cả hai đều kích thích tâm trí của ta, bắt ta phải đặt lại nhiều vấn đề tưởng chừng như “nhất thành bất biến.” Cả hai đều có sự “nổi loạn” của một con người sáng tạo, không chấp nhận bất cứ sự nô lệ tinh thần nào, bất luận nó đến từ đâu. Mà thực vậy, đã “nô lệ” rồi, thì “sáng tạo” làm sao được nữa?

 

Đọc Osho, cũng không thể không liên tưởng đến Phật Gautama, Krishnamurti, Lão Tử … Cho dẫu trên bình diện  “hình tướng”, họ rất khác nhau, nhưng hình như họ rất gần nhau ở suối nguồn sâu thẳm nhất.

 

Một người bạn của tôi ở Dalat – một “fan” của Krishnamurti – có lần bảo rằng, Krishnamurti “thuần khiết” hơn Osho. Tôi không nghĩ vậy. Tôi tin rằng, Osho là người đã chứng ngộ và đã thể nhập trạng thái  “vô ngã” – và há chẳng phải đây là trạng thái thuần khiết hay sao?  Nhưng, có thể nói, Krishnamurti và Osho có nhiều chỗ khác nhau – mà những ai đã đọc nhiều tác phẩm của hai vị đều phải công nhận. Họ khác nhau rất nhiều – nhất là ở phong cách sống và  cách  “trao truyền” kinh nghiệm tâm linh của họ tới con người hiện đại.  Nhưng thể nghiệm về chân lý của họ cơ bản là giống nhau.

 

III

 

Cũng không thể nào không nói đôi lời cám ơn với những người đã góp phần đưa bản dịch này ra đời.  Họ rất tâm huyết,  nhưng họ lại không muốn phô bày danh tánh của mình. Mong rằng, khi đọc những dòng này, họ sẽ cảm nhận một niềm vui thầm lặng. Trong thời đại hiện nay, lòng tri ân dường  như đã trở thành cái gì … xa hoa, “cổ lỗ”, và có chút “ngây thơ”  !

 

Có một lúc nào đó trong đời, bỗng nhiên ta chợt nhận ra là mình đã mắc nợ cuộc đời quá nhiều – những món nợ không tài nào trả nổi! Đôi khi “chủ nợ” có thể là một bông hoa nở sớm mai, một giọt sương trên lá cỏ, một nụ cười của em bé thơ ngây, một trang sách nuôi dưỡng tâm hồn – chưa kể đến những hạt gạo mình ăn, những giọt cà phê mình uống … Nhìn đâu cũng thấy những “chủ nợ” dễ thương như vậy, những “chủ nợ” không biết mình là “chủ nợ”!

 

Cho nên, dù sao, cũng xin được gửi một đôi lời cám ơn – nhờ gió sẽ mang đi khắp nơi, đến những kẻ đã cho đi, mà không bao giờ mong đáp lại…

 

ĐỖ TƯ NGHĨA

Dalat.  4.11.2006

Mùa quỳ vàng.

 

 

 

 

                           

VÀI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG CỦA OSHO. [2]

                                                                         

CHU PHƯƠNG VÂN

                                       

I

Osho (1931-1990) là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi.

 

Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 70 người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Rajneesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là "đạo sư" của một dòng Thiền. Tác phẩm bạn đọc đang cầm trên tay, Tự Truyện Osho, [3] kể lại cuộc đời lạ lùng và quan niệm của ông về nhiều vấn đề, thế tục cũng như tâm linh.

 

Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương Đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hóa cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học.

 

Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại.

 

Sự thật về con người Osho nằm ở đâu ? Chính ông cũng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy). Tuy thế, một khi độc giả đã cầm quyển sách này trong tay, một lời dẫn nhập ngắn nhằm giới thiệu con người và quan niệm của Osho có lẽ sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước. Đó là mục đích của bài này.

 

                                                  

II

 

Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ. Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất thể (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa "Thượng đế" và "phi Thượng đế". Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên là "Thượng đế" đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.

 

Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là nằm yên trong "trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ". Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.

 

Với nhận thức này Osho hoàn toàn nằm trọn vẹn trong truyền thống của triết học Ấn Độ, nhất là trong Đại thừa Phật giáo. Nếu nhớ đến tư tưởng của Mã Minh trong Đại thừa khởi tín luận, hay Thiền ngữ "Tâm bình thường là đạo" của Nam Tuyền, hay các phép hành trì của Phật giáo Tây Tạng, hay tư tưởng của các vị đạo sư của thời hiện đại như Aurobindo hoặc Krishnamurti, vân vân, ta dễ dàng thấy sự trùng hợp tuyệt đối về nhận thức luận giữa ông và các truyền thống đó. Chỉ có điều khác biệt là, Osho nói về các nhận thức này một cách hùng biện và mới mẻ, và nhất là với tính cách của một giáo sư triết học, trong các luận giải, ông phối hợp một cách tài tình những truyền thống của Phật giáo, Jaina giáo, Hindu giáo, Ky tô giáo,  Sufism (một truyền thống của Hồi giáo), và triết học cổ của Hy Lạp. Thế nhưng, cũng như mọi nhà đạo học khác, ông không quên chỉ rõ, không một nền triết học nào có thể diễn bày được chân lý, có thể thay thế được sự chứng thực cá nhân.

 

Do đó sự trải nghiệm, sự chứng thực của trạng thái giác ngộ là cốt tủy của mọi sự. Ông tự nhận mình đã đạt trạng thái này năm 21 tuổi. Phương pháp khả dĩ đưa đến giác ngộ là phép thiền định. Nhưng thiền định là gì và hành trì thiền định như thế nào? Theo Osho thiền định là một trạng thái nằm ngoài tâm. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Quan niệm này về thiền của Osho không hề khác với các phát biểu xưa nay của các vị Thiền sư của miền Đông Á, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhưng cách hành trì thiền định do Osho đề ra thì khác hẳn.

 

Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây rất khó áp dụng phép tọa thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rủ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và lễ hội“ (celebration).  Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của không tính (state of emptiness) và đạt giác ngộ. Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là "không" thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông một con người giác ngộ sẽ là "phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất".

 

Đó là những nét cơ bản về quan niệm của Osho về phép hành thiền. Thật ra thì phương pháp chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng không phải là một điều gì mới lạ. Trong truyền thống Ấn Độ, người ta vẫn còn nhắc đến 84 vị Đại Thành tựu giả (Mahasiddha), các vị được xem là sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 đến thứ 12 sau công nguyên. [4] Đó là các vị hành giả lòng còn chất chứa đầy các loại dục vọng khác nhau, nhưng nhờ biết cách quán chiếu chúng chẳng qua đều là những dạng của Không tính mà đạt được thành tựu. Đọc tiểu sử các vị đó, ta sẽ thấy đó toàn là những người mang đầy thói hư tật xấu, thậm chí có kẻ là người chuyên đánh bạc hay ăn trộm, nhất là có rất nhiều vị đam mê tình dục. Thế nhưng, nhờ một cách hành trì thiền định, trong đó họ quán tưởng "đối tượng đam mê" và "người đam mê" đều chỉ là những dạng của "Không", họ đạt giác ngộ ngay trong đời này. Các vị đó là những người tiên phong của một truyền thống được mệnh danh là Kim cương thừa. Trong thời đại gần đây hơn, các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương "chuyển hóa" năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestal Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng.

 

                                                

III

 

Dĩ nhiên phương pháp của Osho có một tầm cỡ hoàn toàn khác so với phép chữa bệnh tâm lý nói trên vì ở đây nó có tính chất tôn giáo cao độ. Còn so với các truyền thống xưa thì điều kỳ lạ là ông dám đem ra áp dụng cho quảng đại quần chúng. Ở đây ta dễ dàng đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.

 

Osho vốn là một con người "nổi loạn", luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60 ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt  [From Sex to Superconsciouness], trong đó ông cho rằng "đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng" và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự hủy vì người ta không thể chuyển hóa tình dục nếu không nếm trải nó "một cách đích thực và đầy ý thức". Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là "đích thực và đầy ý thức" như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục” và gọi ông là “ đạo sư sex”  (sex-guru)  - nhưng đó chỉ là sự vu khống buồn cười và đầy ác ý, vì những ai chịu khó theo dõi tư tưởng ông, đều biết rằng ông không  phàm tục như họ nghĩ !

 

Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì thế mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.

 

Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hóa chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hóa, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hóa năng lực của tình dục, một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn "chuyển hóa" thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể tỏa hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.

 

Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim cương thừa trong thế kỷ 20 tại phương Tây. Tuy là người vô cùng thông minh, nhưng có lẽ ở đây ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim cương thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng.

 

Nếu xét Kim cương thừa và những vị tu sĩ cao cấp đã tu luyện theo phép này, người ta phát hiện lại một câu nói giản đơn của một người hẳn đã biết mức độ chọn lọc đối với người hành giả có thể theo học phép tu này. "Chỉ những ai đã xả bỏ tâm phân biệt, những ai mà đối với họ một đĩa thực phẩm sang trọng và một đĩa phân là như nhau, thì kẻ đó mới được theo học Kim cương thừa". Đó là lời của Đạt-lai lạt-ma thứ V (1617-1682).

 

Tiếc thay, nhiều môn đệ của ông tìm đến vì tò mò, không ít người phản bội ông.  Trong quá khứ người ta cũng chỉ biết vỏn vẹn có 84 vị Thành tựu giả trong số hàng triệu người tu học tại Ấn Độ thì tại sao ngày nay lại có thể khác. Hơn thế nữa, con người của thời đại này lại càng vô cùng khó khăn hơn nữa khi muốn chuyển hóa một năng lực gắn liền với thân vật chất để thăng hoa, tiến gần với cái thiêng liêng. Thời đại này là kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật, những người tưởng như muốn tìm đến cái thiêng liêng thực chất cũng là môn đệ của chủ nghĩa duy vật tâm linh (spiritual materialism) như Chogyam Trungpa đã nói. Thời nào cũng thế, con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, chỉ tìm những gì họ khao khát.

 

                        

IV [5]

 

Trước khi ra đi, Osho đã có nhiều hoài bão lớn. Chúng có trở thành hiện thực hay không, chỉ thời gian mới có thể trả lời.

 

Sinh thời, ông đã bị chỉ trích nhiều, nhưng đó cũng là điều dễ hiểu, bởi vì ông luôn “gây hấn“, chống lại tất cả mọi định chế – là cái không bao giờ chấp nhận một sự tấn công nào.

 

Trong  chiều kích tâm linh, hẳn là ông đã đạt tới một đỉnh cao, và chắc không mấy ai nghi ngờ điều đó. Trong lãnh vực hình tướng, ông chủ trương nhập thế, và đã có nhiều kế hoạch để làm đẹp cuộc đời. Về phương pháp hành thiền, ông cũng có nhiều phát minh đáng chú ý. Tuy nhiên, phải công nhận rằng, việc ông muốn áp dụng Kim cang thừa – cụ thể, là việc “ chuyển hóa năng lượng tình dục thành năng lượng tâm linh” –  rộng rãi cho quần chúng, là một sai lầm đáng tiếc. Bởi vì, lịch sử cho thấy, Kim cang thừa tuyệt đối dành cho những bậc “thượng căn.” Nhưng với sự cẩn trọng cần thiết, thì việc đọc tác phẩm của ông có thể là một nguồn cảm hứng vô tận – bởi vì ông có một tâm hồn không ngừng sáng tạo, với trái tim của một nhà nghệ sĩ. Nhưng, đã mang thân xác con người, thì dù thế nào đi nữa, không có thể nói rằng ông không có những sai lầm – nhất là trong chiều kích của thế giới  “hình tướng.” [6]

 

Có nhiều người than phiền rằng, sau khi ông ra đi, các “đệ tử” của ông đã làm nhiều điều sai trái, phản bội lại giáo huấn của ông. Thật có như vậy. Nhưng biết làm sao được! Những cuộc thánh chiến thời Trung cổ đâu phải là ý muốn của chúa Jesus, và Quốc xã của Hitler, đâu phải là mong muốn của Nietzsche! Số phận “bấp bênh” của mọi học thuyết, ông biết rõ hơn ai hết. Có lần ông đã nói:  “Khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản những gì mà hậu thế sẽ làm. Nó nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn.”

 

Dĩ nhiên, ta có quyền “phán đoán” những cái mà ông còn khiếm khuyết. Nhưng, phải thừa nhận rằng, vô số những lời nói đầy minh triết của ông chắc chắn sẽ vẫn mãi còn giá trị, vẫn là nguồn cảm hứng, chừng nào trên mặt đất này vẫn còn tồn tại chủng loại người.

 

C. P. V

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Nhiều lần Osho được hỏi, tại sao ông không viết một tự truyện, [7] hay ít nhất, cho phép một loạt những cuộc phỏng vấn, để cho một ai khác có thể chấp bút viết một bản tường thuật [có tính] lịch sử về đời ông. Ông thường xua tay gạt đi những câu hỏi này. Ông thường nói,  những chân lý phi thời gian mới là quan trọng,  chứ không phải là những mẩu cắt ra từ nhật báo, mà chúng ta thu thập và gọi là “lịch sử.” Hoặc, ông thường nói, tiểu sử của ông phải được tìm thấy trong tổng số tác phẩm của ông – trong trong hằng trăm những tập sách được xuất bản, ghi lại những bài nói chuyện của ông, và trong những cuộc đời được chuyển hóa – những người mà ông đã “ chạm đến.”

 

Tuy nhiên, tâm trí con người khao khát muốn hiểu ý nghĩa của những biến cố xảy ra trong thời gian. Chúng ta muốn nắm bắt một bối cảnh mà trong đó chúng ta có thể tự thuyết phục mình rằng, chúng ta hiểu ý nghĩa của những điều đã xảy ra – nhất là khi những “cái xảy ra” [8] này có vẻ như mâu thuẫn, gây thảng thốt, bất thường. Tập sách này là một sự thừa nhận rằng, thời gian đã chín muồi cho việc cung cấp cái bối cảnh đó, để hiểu Osho và sự nghiệp  của ông.

 

Mười  năm [9] đã trôi qua kể từ khi Osho chuẩn bị cho việc rời bỏ cái thân xác đã phục vụ ông 59 năm [10] – như lời bác sĩ riêng của ông – “ một cách bình thản, như thể ông đang chuẩn bị hành lý cho một kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng quê.” Xét về mặt thực tế, thì chất liệu cho cuốn tự truyện này có lẽ đã không được thu thập, nếu không có khoảng cách 10 năm đó,  và những thay đổi sâu xa vốn là hệ quả của nó. Từ  khi  Osho chuẩn bị hành lý cho “ kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng quê,” thì cả CNN[11] [một kênh truyền hình của Mỹ, chuyên về tin tức. ĐTN) lẫn Internet đã ra đời. Cái “thị kiến không tưởng” [uptopian vision][12] mà Osho đã thường hay nói tới – về một thế giới không có những chia cắt về ranh giới quốc gia, về sắc tộc hay tôn giáo, giới tính hay tín điều – thì bây giờ ít ra cũng có thể tưởng tượng được, cho dẫu nó chưa là một hiện thực. Thiền định – mà Osho nhấn mạnh trở đi trở lại, và nằm ở chính cốt lõi thông điệp của ông –  không chỉ là mối quan tâm bí hiểm và khó hiểu  của một vài  kẻ lập dị, mà đã trở nên ngày càng được công nhận vì cái tiềm năng của nó trong việc mang đến lợi lạc cho mọi người,  từ những ủy viên quản trị doanh nghiệp bị stress nặng, cho đến những bệnh nhân ung thư. Nói khác đi, mặc dù, không nghi ngờ gì nữa, Osho vẫn là một người đi trước thời đại của mình, thì thời đại ít ra đã bắt kịp ông, đủ để cho có thêm nhiều người thấu hiểu cái “tầm nhìn xa” và cái nhãn quan vô song [unique][13] của ông.

 

Trên một cấp độ thực tiễn hơn, thời gian và khoa học kỹ thuật đã cho phép những người lưu giữ sự nghiệp đồ sộ của ông số-hóa [digitize][14] và đưa vào nghiên cứu những bài nói chuyện được ghi âm của ông (gần 5000 giờ) bằng Anh ngữ, cọng thêm hằng trăm những bài nói chuyện khi chúng được dịch từ tiếng Hindi. Điều này có nghĩa là, trong vòng vài giây đồng hồ, người ta có thể biết rằng trong những bài nói chuyện này, Osho dùng những biến thể của từ “meditation”[15] (thiền định) 25 ngàn lần, và từ “love” (tình yêu) gần 42 ngàn lần. Những biến thể của từ “sex” [16] (tình dục), được xem là một chủ đề “khó coi” khi một nhà thần bí  nói về nó vào thập niên ' 60 (của thế kỷ 20) tại Ấn Độ, xuất hiện đúng 9.300 lần – nhiều hơn 2000 lần,  so với việc đề cập tới  chính trị và chính trị gia. [17]

 

Dĩ nhiên, việc nghiên cứu – trong số tài liệu đồ sộ ấy – để tìm ra những chỗ mà Osho trực tiếp nói về đời tư của mình, [18] đòi hỏi nhiều trí tuệ con người hơn là phần mềm của máy computer có thể cung cấp. Nếu không có 3 năm đặc biệt dành riêng cho nhiệm vụ đó, thì cuốn sách này đã không thể ra đời. [19] Và sau cùng, xây dựng một tự truyện từ tài liệu có được – một tự truyện tôn vinh tri kiến của Osho về tầm quan trọng của chân lý (truth) so với  sự kiện [20] (fact), về cái phi thời gian so với cái khoảnh khắc (tạm thời) – đòi hỏi một lòng sốt sắng liều lĩnh để đảm nhận cái [hầu như] bất khả.

 

Thí dụ: Trong một số năm sau khi tốt nghiệp đại học, Osho dạy triết học. Cái tâm trí ưa lấy sự kiện làm tiêu chí để xếp loại, dán cho ông nhãn hiệu giáo sư triết học, để rồi tự thỏa mãn rằng, mình biết một cái gì đó quan trọng về ông. Riêng về phần mình, thì Osho cũng đã có thể là một thợ đóng giày, hay một thợ mộc. Điều quan trọng không phải là việc ông làm cái gì, mà là việc ông là ai.[21] Cái tâm trí ưa lấy sự kiện làm định hướng, muốn định nghĩa con người qua cái mà họ đã làm, hơn là qua việc họ là ai; qua những vật sở hữu mà họ chiếm được trong đời, hơn là những tri kiến mà họ mang theo với họ khi họ qua đời. Nhưng cái mối quan tâm cốt tủy của Osho chính là chiều kích của “là” (being) – không phải là chiều kích của “làm” (doing)  hay “có” [22] (having).  Chừng nào mà chúng ta còn phán đoán dựa trên những giá trị riêng của mình về "làm""có",  để rồi quá xem trọng những biến cố bên ngoài của đời ông, thì chúng ta nhất thiết sẽ hiểu lầm ông. [23]

 

Nhưng, đặt sang một bên những chân lý phi thời gian, sự thực là Osho đã tự rèn luyện mình, không phải để đóng giày hay làm đồ đạc, mà là để tự biểu hiện mình qua lời nói. Cả những bạn bè ông lẫn kẻ thù ông đều đồng ý rằng, ông làm việc này với tài  hùng biện, với tuệ giác, và tính u mặc [humour][24] khác thường. Việc chọn những từ đúng để tái hiện cuộc đời ông có thể là khả dĩ, thậm chí dễ dàng, nếu Osho đã có một triết lý nhất quán mà ông đang cố dạy mọi người. Nhưng ông không hề có một triết lý như vậy.  Có lẽ việc ấy đã có thể được, nếu ông đã là thành phần của một truyền thống mà ông đang cố xiển dương, hoặc tuyên bố rằng, ông là một loại thiên sứ hay một nhà tiên tri đã giáng thế để sáng lập ra một truyền thống mới. Không có gì xa với sự thật hơn. Trái lại, một cách lặp đi lặp lại, ông nhấn mạnh rằng, ông không những không là thành phần của bất cứ truyền thống nào,  mà ông còn làm mọi thứ có thể được – trong khả năng của con người – để ngăn cản việc tạo lập một truyền thống xung quanh ông một khi  ông đã ra đi. [25]

 

Do vậy, những dòng chữ trong tập sách này không được dự định – không thể, bởi vì đây chỉ là một tự truyện, như chính cái nhan đề của nó  – là câu trả lời dứt khóat  cho câu hỏi: “Osho là ai?” Đúng hơn, đây chỉ  là một “hướng dẫn viên” [26] cho một cuộc truy tầm tương lai về câu hỏi đó, trong bối cảnh của cái phi thời [the timeless][27], cũng như cái còn bị ràng buộc bởi thời gian; trong cái bối cảnh của “là” [28] cũng như “làm.”[29] Sau cùng, Osho nói, chúng ta sẽ đi tới chỗ biết ông là ai, chỉ khi nào chúng ta đi tới chỗ biết chúng ta là ai. Khi trao cho chúng ta sự thách thức đó, ông mời chúng ta học từ cuộc đời ông cái mà chúng ta có thể. Nhưng việc học hỏi từ đời ông chỉ thực sự có ý nghĩa, là khi nó động viên chúng ta học hỏi nhiều hơn về chính mình. [30]

 

          SARITO CAROL NEIM

 

 

Vâng, tôi là sự khởi đầu của một cái gì đó mới mẻ

Nhưng không phải là sự khởi đầu của một tôn giáo mới

Tôi là sự khởi đầu của một loại tính tôn giáo mới

     mà không hề biết đến tính từ nào, ranh giới nào

        nó chỉ biết đến sự tự do của tinh thần,

        sự im lặng của bản thể bạn, sự tăng trưởng của tiềm năng bạn,

        sau cùng, kinh nghiệm về Thượng đế tính bên trong chính bạn –

        không phải về một Thượng đế bên ngoài bạn,

       mà là một Thượng đế tính

       tuôn trào ra từ bạn. [31]

 

OSHO

 

LỜI TỰA

 

Điều trước tiên bạn phải hiểu là sự khác nhau giữa sự kiện [fact] và sự thật [truth].[32] Lịch sử thông thường chỉ quan tâm về sự kiện – cái thực sự xảy ra trong thế giới vật chất, những “cái xảy ra. Nó không quan tâm về “sự thật”, bởi vì sự thật không xảy ra trong thế giới vật chất, nó xảy ra trong “ý thức [consciousness].” [33]  Và con người thì chưa đủ trưởng thành, chín muồi để quan tâm về những biến cố của “ý thức.”

 

Chắc chắn là con người chú ý đến những biến cố xảy ra trong thời gian và không gian; đó là những sự kiện. Nhưng hắn chưa đủ trưởng thành, chưa đủ tuệ giác, để nhận biết cái xảy ra vượt quá thời gian và (vượt quá) không gian – nói khác đi, cái xảy ra vượt quá tâm trí [mind][34], cái xảy ra trong “ý thức.” Một ngày kia chúng ta sẽ phải viết lại toàn bộ lịch sử với một định hướng hoàn toàn khác, bởi vì những sự kiện là những cái vặt vãnh  – mặc dù chúng có tính vật chất [35] [material], chúng không quan trọng. Và những chân lý thì “phi vật chất” [36] [immaterial] nhưng chúng lại quan trọng.  Cái định hướng mới cho một cuốn sử tương lai sẽ quan tâm đến cái xảy ra bên trong Phật Gautama khi Ngài chứng ngộ, cái đã tiếp tục diễn ra trong khi Ngài ở trong thân thể suốt 42 năm sau khi chứng ngộ. Và cái vốn xảy ra trong 42 năm đó, thì sẽ không bị đứt quãng chỉ vì cái thân xác chết đi. Nó không có quan hệ nào với thân xác, nó là một hiện tượng trong ý thức – và ý thức thì không chết đi, nó vẫn tiếp tục. Cuộc hành hương của ý thức là vô cùng, vô tận[37] [endless]. Do vậy, cái đang xảy ra trong ý thức –  khi còn thân xác – sẽ tiếp tục xảy ra khi thân xác mất đi. Đó là một điều đơn giản, dễ hiểu.

 

Đây là một câu chuyện về những “những cái xảy ra bên trong” [inner happenings],[38] có tính nội tại.

 

 

PHẦN I:

 

CHỈ LÀ MỘT CON NGƯỜI BÌNH THƯỜNG

LỊCH SỬ ĐẰNG SAU TRUYỀN THUYẾT

 

 

PV:  Ông thực sự là ai?

 

Osho: Tôi chỉ là chính mình. Không là kẻ tiên tri, không là Messiah (Đấng cứu thế), không là Christ. Chỉ là một con người  bình thường[39]… giống y  như bạn.

 

PV: Ồ, không phải hoàn toàn như thế !

 

Osho: Đúng … không hoàn toàn như thế!  Bạn vẫn còn ngủ – nhưng cái đó không khác biệt bao nhiêu.  Trước đây, tôi cũng đã ngủ; một ngày kia, bạn sẽ có thể tỉnh dậy. Bạn có thể tỉnh dậy ngay khoảnh khắc này, không ai ngăn cản được điều đó. Cho nên sự khác biệt cũng không có gì đáng kể.

 

[Từ một cuộc phỏng vấn với Robert Green, Santa Anna Register,  quận Cam, California.]

 

_______________________________________________

 



[1] NXB Trẻ.

[2] Ghi chú quan trọng: Bài viết này của Chu Phương Vân có 2 phiên bản. Phiên bản 1 có nhan đề “ Osho, ông là ai?” – đang được lưu hành trên rất nhiều Website. Nội dung phiên bản mà bạn đang đọc, [phiên bản 2] chỉ khác với phiên bản 1 ở phần IV, bởi vì phần IV là do Đỗ Tư Nghĩa viết. Xin xem thêm ghi chú số 5.  (ĐTN). 

[3] Tự truyện Osho: Khi ấn hành, nó được đổi lại thành “ Cuộc đời của Luận sư Rajneesh Chandra”, hoàn toàn ngoài ý muốn của người dịch.

[4] Xem Keith Dowman, Master of Manhamudra, Songs and histories of Eighty- four Buddhist Siddas, NY, 1985. Xin xem bản dịch Việt ngữ “ Các bậc đạo sư của Đại Thủ Ấn” của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng tại hhtp: // www. Quangduc.com/ mattong/ 03 mahamudra. Html  [ CPV].

[5] Bạn đọc lưu ý: Phần I, II & III, là của Chu Phương Vân. Riêng phần IV này, là do Đỗ Tư Nghĩa viết. ĐTN xin ghi rõ, và chịu hoàn toàn trách nhiệm về phần này. Câu chuyện khá dài, chỉ xin nói vắn tắt như sau: Vì một vài lý do, ĐTN đã xin phép CPV để viết lại phần IV. CPV đã cho phép, và sau khi đọc phần IV của ĐTN, đã đồng ý cho in vào sách. [Nhưng sau cùng, vì “ lý do kỹ thuật”, sách lại in theo bản gốc.] Hôm nay, đưa bản dịch này lên Văn chương Việt, ĐTN muốn giữ nguyên phiên bản này – như một kỷ niệm đẹp với Chu Phương Vân, bút danh của một người bạn mà ĐTN rất mến phục. (ĐTN).  

[6] “ Thế giới hình tướng” tức là thế giới hiện tượng, lãnh vực tương đối, tích môn. Trái nghĩa của nó là thế giới bản thể, lãnh vực tuyệt đối, bản môn. ( ĐTN).

[7] Tuy có nhan đề là “ Tự truyện Osho”, nhưng  nó rất khác với những “ tự truyện” khác. Về sau, sẽ rõ.

[8] Cuốn sách này [nguyên tác tiếng Anh của Tự Truyện Osho] được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2000.  Osho mất năm 1990.

[9] These happenings.

[10] Osho: 1931- 1990.

[11] CNN : [Cable News Network]: Một kênh truyền hình Mỹ, chuyên về tin tức. Chính thức phát sóng lần đầu tiên vào ngày 1/6/1980. Ngày nay, CNN có thể được xem ở gần như khắp nơi trên thế giới, và ước tính bất kỳ thời điểm nào trong ngày, cũng có hơn 1 tỷ người đang xem kênh truyền hình CNN.

[12]  Uptopian vision: “ thị kiến không tưởng.”

[13] Unique.

[14] Digitize. Chuyển thành văn bản điện tử.

[15] Những biến thể của của danh từ “ meditation” [ sự thiền định]  :  “to meditate” , “ meditative”…

[16] Những biến thể của danh từ “ sex” (tình dục): sexuality; sexual…

   [17] Có nghĩa là, Osho rất quan tâm đến “ tình yêu”, “ thiền định” và “ tình dục” .

[18] Bạn đọc lưu ý: Thông thường, thì một “ tự truyện” là do chính tác giả chấp bút, tự tay mình “ viết.” Riêng trường hợp của Osho, thì ông không “ viết”, mà chỉ” nói” – và những “ đệ tử” của ông thu băng, rồi chuyển thành văn bản điện tử.  Họ dùng computer thu thập tất cả những chỗ mà Osho nói về chính mình, rồi biên tập, sắp xếp lại thành ra cuốn sách này – mà họ gọi là “Tự Truyện.”

   [19] Hiện nay, Osho có khoảng  gần 600 đầu sách, nói về rất nhiều vấn đề khác nhau, nhưng không có một cuốn sách nào trong số đó tập trung nói về đời riêng của ông. Do vậy, có thể xem “ Tự Truyện Osho” là cuốn sách duy nhất cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về cuộc đời và tư tưởng của ông.

[20] Cần lưu ý sự phân biệt của Osho giữa “chân lý” [truth] và “ sự kiện” [fact]. Chân lý thì phi thời gian, còn sự kiện thì còn bị ràng buộc vào thời gian.

[21] “ Điều quan trọng, không phải là việc ông [Osho] đã làm cái gì, mà là việc ông là ai…” Đây là điều rất đáng suy ngẫm.

[22] Ba phạm trù quan trọng của triết gia Pháp Gabriel Marcel: Être ( là), Faire ( làm), và Avoir ( có).

[23] Theo người dịch,  Osho là một đạo sư phức tạp, không đơn giản. Do vậy, nếu không cẩn thận, ta sẽ rất dễ hiểu lầm ông.

[24] Humor: U mặc.

[25] Trong thế kỷ 20, có hai vị đạo sư rất nổi tiếng, đó là Krishnamurti và Osho, đều là người Ấn Độ. Nếu xét về “ bề ngoài”, thì hai vị này rất khác nhau. Nhưng xét về “ kinh nghiệm nội tại”, thì họ rất gần gũi với nhau. Krishnamurti không có môn đệ; Osho thì có một “cọng đồng” gồm những “ người theo ông”,  mà ông xem là những “ bạn đồng hành” hơn là “môn đệ.” Cả hai vị đều chống lại các “ tôn giáo có tổ chức”, và không muốn “ giáo pháp” của mình trở thành giáo điều, cứng ngắc.

[26] Guide.

[27] Timeless: phi thời.

[28] Being,

[29] Doing.

[30] Ý nói, học hỏi về đời Osho, không phải chỉ để hiểu Osho, mà quan trọng hơn, là để hiểu chính mình.

[31] Đây là những câu nói quan trọng, xin trích toàn văn như sau: “ Yes, I am the beginning of something new, but not the beginning of a new religion. I am the beginning of a new kind of religiousness, which knows no adjectives, no boundaries;

Which knows only freedom of the spirit, silence of your being, growth of your potential, and finally the experience of godliness within yourself – not of a God outside you, but a godliness overflowing from you.”

 

 

[32] Lưu ý: Osho phân biệt giữa “ sự kiện” [ fact] và “ sự thật” [truth]. Đây là một phân biệt rất quan trọng.

[33] Consciousness : Ý thức.

[34] Mind : tâm trí.

[35] Material: vật chất.

[36] Immaterial : phi vật chất.

[37] Endless: vô tận.

[38] Innner happenings: “ những cái xảy ra bên trong.”

[39] Osho nói: “ Tôi chỉ là một con người bình thường…” Nhưng thực ra, ngay từ thuở nhỏ, Osho đã tỏ ra rất… khác thường

 

 

Đỗ Tư Nghĩa
Số lần đọc: 5283
Ngày đăng: 09.09.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 12 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 11 - Tạ Tỵ
Hoài niệm Vũ Hoàng Chương (1915-1976) - Đặng Tiến
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 10 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 9 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 8 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 7 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 6 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 5 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 3 - Tạ Tỵ
Cùng một tác giả
Tự Thú 1 (chân dung)
Tự Thú 2 (chân dung)
Tự Thú 3 (chân dung)