Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
855
116.685.655
 
Chủ nghĩa Máy móc-2
Nguyễn Ước

3. Darwin

Phương pháp khoa học

Bằng tinh thần khoa học chân chính, Darwin tiếp cận vấn đề tiến hóa. Ông sưu tập một khối lượng dữ liệu rất lớn, từ chuyến đi theo con tàu H.M.S. Beagle lần đầu tiên năm 1828. Kế đó, ông tiến hành thí nghiệm với cây cối và chim bồ câu. Trước khi kết thúc lý thuyết chung quyết của mình, Darwin lại đề ra nhiều giả thuyết khác nhau rồi lần lượt bác bỏ chúng vì chúng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn khoa học.

Ðối với Darwin, vấn đề là đưa ra lý thuyết và bằng cách thức giản dị nhất, giải thích về mặt tự nhiên sự giống nhau trong cấu trúc giữa các động vật khác nhau, thí dụ giữa ngựa và người. Ông cũng giải thích các vật hóa thạch, biểu hiện các hình thức của cuộc sống không còn hiện hữu và ảnh hưởng hiển nhiên của môi trường lên sinh vật.

Cảm hứng và mục đích

Các chuyến đi trên con tàu H.M.S Beagle, kết thúc năm 1831, cho Darwin thấy rằng có vài chủng loại được phân bố một cách tổng quát và rằng các chủng loại có khuynh hướng tách ra, đi theo những hướng khác nhau rồi ngày càng cách xa nhau đáng kể do bởi khoảng cách địa lý hoặc sống trong những môi trường khác nhau.

Lý thuyết về cuộc tạo hóa đặc biệt (special creation), theo kiểu sáng thế, không thể giải thích hiện tượng ấy nếu không được bổ túc bằng các giả thuyết khác. Vì khoa học thiên về lối giải thích theo khía cạnh tự nhiên nên Darwin tự thấy mình có công tác cung cấp lời giải thích kiểu đó để cắt nghĩa những gì có thể quan sát, đồng thời gom chung mọi hiện tượng vào một nguyên lý giải thích duy nhất.

Darwin manh nha các ý tưởng đầu tiên cho lý thuyết của mình khi ông đọc cuốn An Essay on the Principle of Population (Một tiểu luận về nguyên tắc dân số, 1798) của kinh tế gia người Anh *Thomas R. Malthus (1766-1834). Trong sách đó, Malthus vạch ra rằng sinh vật gia tăng theo cấp số nhân so với mức gia tăng thực phẩm thiên nhiên cung cấp cho chúng. Nếu vô lượng hậu duệ của cá hồi, ruồi và chuột vẫn tiếp tục sống đủ số, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ làm kiệt quệ nguồn dinh dưỡng tự nhiên của chúng.

Sự chọn lọc tự nhiên

Theo Malthus, thiên nhiên hào phóng việc sinh con đẻ cháu nhưng keo kiệt về thực phẩm. Sự kiện ấy dẫn tới cuộc tranh đấu giành các phương tiện sinh tồn, Darwin xem lập luận đó là chìa khóa thứ nhất dùng để thông giải thiên nhiên. Vì dù cho chỉ quan sát một cách tình cờ, ta cũng thấy thiên nhiên đẫm máu với nanh cùng vuốt. Sinh vật đánh giết nhau vì thực phẩm khiến một số có thể sống sót và nhiều con phải chết.

Darwin cũng ghi nhận rằng dù có thể giống với bố mẹ, các hậu duệ không bao giờ giống hệt. Mỗi đứa con có dấu hiệu nào đó phân biệt với bố mẹ của nó. Ở đây, chúng ta có được chìa khóa thứ hai của cuộc tiến hóa, đó là sự biến dị (variations).

Rõ ràng rằng những biến dị phát sinh từ các nguyên nhân tự nhiên và rằng trong đó có một số biến dị hữu dụng để sống sót, trong khi một số biến dị khác lại làm thương tổn. Trong cuộc vật lộn tranh giành thực phẩm, biến dị nào cung cấp lợi thế thì khiến cho sinh vật sở hữu nó có khả năng sống sót. Chìa khóa của "chọn lọc tự nhiên" (natural selection) hẳn là sự xảy ra các biến dị, cung cấp cho những sinh vật sở hữu chúng thế thượng phong trong cuộc chiến đấu ấy.

Chỉ những biến dị nào tạo ngay lợi thế mới được sinh vật ấy sở hữu. Do đó, Darwin chấp nhận lý thuyết về kế thừa những đặc điểm đã được tiền bối sở đắc. Ðiều ấy có nghĩa rằng các biến dị được lưu truyền cho hậu duệ. Giả sử có một biến dị nào đó không những đưa tới thành quả trong cuộc chiến đấu mà còn hữu ích cho sự hợp quần, hậu duệ cũng sẽ được chia sẻ cái biến dị nguyên thủy ấy.

Sự chọn lọc và rồi khác biệt nhau tùy thuộc vào những biến dị thêm nữa về sau. Khi thời gian chín muồi, những tích lũy các biến dị khiến lớp hậu duệ lâu đời rất khác với các tổ tông nguyên thủy của chúng, và có thể gọi chúng một cách thích đáng là các chủng loại mới. Vì thế, tác phẩm kinh điển của Darwin xuất bản năm 1859 có nhan đề là On the Origin of Species (Bàn về nguồn gốc các chủng loại).

Tiến hóa và tạo hóa

Công trình ấy là một bản báo cáo rất đại cương về một trong các lý thuyết có tính cách mạng nhất trong lịch sử khoa học. Nó dự tính trình bày phương cách các khuynh hướng mang tính tự nhiên chủ nghĩa (the naturalistic tendencies) trong khoa học đang chuyển động hướng tới việc bác bỏ lời giải thích siêu nhiên – thí dụ, có tính Kinh Thánh – về khoảnh khắc tạo hóa nguyên thủy (original creation) – thí dụ, do một lời phán đầy uy quyền của Thượng đế, đấng Sáng thế – trong đó hết thảy các chủng loại được tạo ra trong sự khác biệt và riêng biệt nhau một cách không thể sửa đổi.

Lý thuyết Darwin có dự tính giải thích các chủng loại khác nhau đang sống, từ những khởi đầu rất khiêm tốn, không theo kế hoạch nào hoặc không có cứu cánh nào, nhưng chỉ với tình trạng bị điều kiện hóa của các biến dị vốn xảy ra từ các điều kiện phát sinh một cách tự nhiên. So với các lý thuyết đương thời, lý thuyết của Darwin đưa ra lời giải thích có vẻ hợp lý hơn rất nhiều và giản dị hơn rất nhiều về nguồn gốc, bản tính và phát triển của các chủng loại khác nhau.

Phân biệt thầy và trò

Thuyết tiến hóa của Darwin sở dĩ được dành một chỗ giới thiệu tương đối rộng trong cuốn sách triết học này là chỉ để trình bày cách thức khoa học tìm thấy câu trả lời có tính tự nhiên cho các vấn đề được đặt ra bởi các hiện tượng như đạo đức, tôn giáo và tâm trí, nhằm làm cho trọn vẹn khuôn mẫu tổng quát (the general pattern) của chủ nghĩa máy móc.

Giống như phải dứt khoát phân biệt Newton với những kẻ theo Newton, đôi khi ta cũng phải phân biệt Darwin với những kẻ theo Darwin. Các đệ tử của Darwin thỉnh thoảng cổ vũ cho một lập trường quyết liệt hơn sư phụ đối với ba chủ đề chúng ta vừa nêu, đó là đạo đức, tôn giáo và tâm trí. Vì ưu tiên quan tâm tới loại lập trường do chủ nghĩa máy móc đưa ra, nên chúng ta sẽ chỉ ứng xử với vấn đề ấy thay vì đề cập chi tiết sự phân biệt giữa thầy và trò.

4. Tiến hóa của sự sống

Nguồn gốc vũ trụ

Khởi đi từ vụ nổ Big Bang 15 tỉ năm trước – có nhà khoa học bảo chính xác là 13.7 tỉ năm – vũ trụ bắt đầu bước vào mùa xuân. Từ nhất điểm tế vi nổ bùng, vũ trụ bắt đầu trương ra, bắt đầu có không gian và thời gian, và nay vẫn đang trong thời trương nở. Khi hết độ trương, vũ trụ hoặc giữ được thăng bằng theo nguyên trạng hoặc cuốn mình trở về nhất điểm hố đen (black hole), thì đó là điều khoa học đang nỗ lực khám phá.

Cho tới nay, chúng ta biết địa cầu là một hành tinh trong thái dương hệ này, thành hình khoảng 4.6 tỉ năm trước, với tâm điểm là Mặt trời. Ban đầu, địa cầu là một quả cầu bằng đá, nóng đỏ rực nên không thể có sự sống. Phải chờ đến hơn hai tỷ năm sau, trái đất mới nguội dần. Những vùng có chất lỏng biến hóa dần thành biển với chất nước như ngày nay, và mới bắt đầu có những sinh vật sơ khai. Ðây cũng là lúc các vật chết như đá trở thành những vật sống hay động vật, nghĩa là những vật biết di chuyển và có những đặc tính của sự sống theo như mô tả của các nhà khoa học ngày nay.

Nguồn gốc sự sống

Sự sống đến từ vũ trụ và các sinh vật trong đó có con người phát sinh từ đại dương. Môn sinh hóa (biochemistry) đã dẫn dắt chúng ta tìm hiểu phản ứng từ những chất vô cơ cho ra chất hữu cơ với một tổ chức cực kỳ vi diệu. Khoảng 3.5 tỉ năm trước, khi trái đất đã có bầu khí quyển, các phân tử trong biển sơ khai "tiền sinh học" có thể đã tự hơp thành một loạt những phân tử hữu cơ thật đơn giản, chẳng hạn chất adenine, một trong bốn chất tạo thành RNA và DNA, những viên gạch đắp thành chất protein của sinh vật.

Khoa học ngày nay tìm thấy những hợp chất hữu cơ ấy ngay cả trong vũ trụ, trên các sao chỗi, các vẫn thạch và trong các đám tinh vân chưa "chín muồi" để biến thành thái dương hệ như thái dương hệ của chúng ta. Trong khoảng thời gian 900 triệu năm đầu kể từ khi mới thành hình, và vẫn còn là quả cầu rực lửa, trái đất bị các cuộc "oanh tạc" của các sao chỗi, các vẫn thạch, thiên thạch khổng lồ của vũ trụ, bắn chất hữu cơ vào trái đất.

Những khám phá mới nhất trong năm 2004, với sự thám hiểm của các phi thuyền không gian tự động bay trong thái dương hệ và các khảo sát về những mảnh vẫn thạch tìm thấy chìm sâu trong lòng đất đã cho thấy có những chất hữu cơ bắn vào trái đất, tạo ra sự sống.

Nguồn gốc con người

Hết thảy các sinh vật, trong đó có con người, đều có chung một thủy tổ sống ở biển. Ðiểm này, Trang Tử đã nói đúng trong Nam hoa kinh, lưu hành khoảng 22 thế kỷ trước. Phần lớn các dạng sinh vật đa tế bào đầu tiên xuất hiện ở biển 900 triệu năm trước nay chỉ còn một ít xương cốt hóa thạch, thế nhưng các nhà khoa học vẫn nỗ lực tìm kiếm những vật còn sống.

Theo tuần báo Discover số tháng 11 năm 2004, nhà khoa học Claus Nielsen, giáo sư môn phôi học tiến hóa của động vật không xương sống tại Ðại học Bảo tàng Ðộng vật học ở Copenhagen, Ðan Mạch, trình bày trong cuốn sách của ông có nhan đề Animal Evolution: Interrelationships of the Living Phyla (Tiến hóa động vật: quan hệ hỗ tương của các hệ đang sống, 2001) về những gì ông sưu tầm được và lập danh sách một loạt những sinh vật đã có từ thuở xa xưa ấy mà nay còn sống.

Từ danh sách đó, Nielsen chọn ra một sinh vật đã có từ thuở nguyên sơ nhất trong quá khứ. Tổ tiên xa thăm thẳm nhất của con người là một loại bọt biển (sponge) sống gom lại thành những khối trông giống như đóa bông cải (súp-lơ). Ðây là thủy tổ của mọi loại cá tôm hay mọi hải sản, kể cả thuồng luồng ba ba và những biến dạng bò lên đất liền trong hàng trăm triệu năm, trong đó có loài người.

Vật lý học cho chúng ta biết nền tảng của mọi vật chất, kể cả sinh vật, là nguyên tử. Hóa học cho thấy các nguyên tử hợp thành một cơ cấu gọi là phân tử. Và môn sinh vật học cho biết có những phân tử rất phức tạp, hợp thành các vi bào, và các vi bào hợp thành các tế bào. Những sinh vật đầu tiên sinh ra ở biển đều là những sinh vật đơn tế bào ở dạng thật đơn giản. Phức tạp hơn nữa, các tế bào họp thành những mô, loài người là sinh vật có cấu trúc tế bào tinh vi nhất.

Từ thú vật thành nhân vật

Theo hóa học tiền sinh học, có thể ghi nhận tổng quát các thời điểm tiến hóa của loài động vật như sau:

1. Khoảng 300 triệu năm trước, trên trái đất các động vật xuất hiện chỉ là loài bò sát;

2. Khoảng 100 triệu năm sau đó, xuất hiện loài có vú;

3. Khoảng 65 triệu năm trước đây, loài khủng long (dinasaur) biến mất mau lẹ, nhường chỗ cho sự nở rộ của muôn loài cầm thú.

Từ đó, để tiến hóa thành loài người, theo khoa khảo cổ nhân chủng học thì:

1. Khoảng 7 triệu năm trước, phát triển mạnh loài gọi là "primate" có hình dạng giống loài khỉ sơ khai. Ðã tìm thấy di tích và xương cốt của loài này;

2. Khoảng 2 triệu năm trước, hình dạng primate còn bao gồm một loạt những loài có thể là "dạng người" (hominid); chúng có thể đứng thẳng và di chuyển bằng hai chân thay vì dùng cả bốn chân như những loài có vú khác. Loài hominid gồm các loại khỉ lớn nhỏ, vượn, đười ươi, hắc tinh tinh, và cả một loại gần giống như người nên có thể gọi là "dã nhân" trong đó một phần còn lại như ngày nay và một phần khác đã bị tiêu diệt;

3. Khoảng 2 triệu năm trước, giống dã nhân (homo) có một loại là homo habilis có hai chân hai tay dài hơn các loại hominid. Khác nhất là bàn tay đã khéo léo biết dùng cục đá làm dụng cụ;

4. Khoảng 1.75 triệu năm trước, trong các loại homo habilis nhỏ bé, đã có một loại lớn hơn gọi là homo erectus phát triển mạnh, có khả năng đứng thẳng lâu hơn và bước đi vững vàng hơn; có thể coi đây là tiền thân của loại homo sapien, thủy tổ loài người;

5. Khoảng 300 ngàn năm trước, các loại dã nhân khác dần dần bị tiêu diệt chỉ còn loại homo sapien biết sử dụng những dụng cụ làm bằng đá tinh vi hơn, có bộ óc lớn hơn các loài homo khác, và phát triển thêm nữa;

6. Khoảng 90 ngàn năm trước, loại homo sapien mới xứng đáng được gọi là người tiền sử vì lúc đó, các vị thủy tổ của chúng ta mới có hình dạng giống như loài người ngày nay.

7. Khoảng 50 ngàn năm trước, con người đã có những bùng nổ phi thường về kỹ thuật và văn hóa. Ta biết được nhờ đào thấy các vật dụng như đồ trang sức có chạm khắc, xương thú vật mài nhọn gắn vào đầu gậy làm vũ khí và nhiều loại vật dụng khác. Mấy chục năm trước đây, còn tìm thấy trong các hang động sâu ở Pháp có những hình con ma-mút, con tê giác có lông dài mượt vẽõ trên đá của người tiền sử khoảng 32 ngàn năm trước.

Lộ trình di cư của loài người

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh đã tóm tắt trong cuốn Những mùa xuân trở lại, trang 95, rằng theo khoa học, các loài homo habitshomo erectus đều có gốc gác ở châu Phi. Trong khoảng thời gian từ 1.7 triệu năm trước, họ bắt đầu di dân sang Trung Ðông rồi từ đó tản mát phần lớn qua phía Ðông về phía châu Á, chỉ có một phần nhỏ tiến về phía Tây Bắc qua châu Âu.

Trong khoảng thời gian trên 1 triệu rưỡi năm, các loài homo vừa tản mát đi các nơi lại vừa tiến hóa rất mau lẹ nên đã từ "dã nhân" họ thành người thật, giống như ngày nay. Tại Trung Hoa, người ta tìm thấy xương hóa thạch của loài homo erecrus sống khoảng từ 300,000 to 500,000 năm trước trong hang động, nay là Bắc Kinh, nên được gọi là Peking Man (Người Bác Kinh) và đã biết dùng lửa.

Tháng 8 năm 2003, báo chí khoa học loan tin các nhà khảo cổ tìm thấy xương cốt của loài homo erectus tại Cộâng hòa Georgia, gần Hắc Hải, phía trên Thổ Nhĩ Kỳ, cũng trên đường di cư của các tiền bối "dã nhân" đi về phía châu Á. Các xương này thuộc loại dã nhân sống vào khoảng hai triệu năm trước, chứng tỏ các cuộc di cư có thể đã có nhiều đợt sớm hơn. Và nếu xét theo di tích các vật dụng đào được, có thể ngoài giống homo erectus còn có các giống dã nhân khác.

Vấn đề đặt ra là trong số các loài dã nhân, tại sao chỉ có một loài tiến hóa thành người, và cái gì đã giúp cho sự tiến hóa đó. Trong lộ đồ từ thú vật sang nhân vật, loài người có cấu trúc tinh vi nhất. Có giả thuyết khoa học cho rằng sở dĩ loài người sống sót và phát triển như ngày nay là nhờ có những bộ phận trong cơ thể như não bộ, tứ chi, có khả năng tự vệ, đào tẩu, và thích nghi, hiểu theo nghĩa của thuyết tiến hóa "kẻ thích ứng nhất thì sống sót" (Survival of the fittnest).

5. Tiến hóa của tâm trí

Duy tâm và duy vật

Những người theo Aristostle nêu ý kiến rằng tâm trí thì khác với thể xác, và ngay cả Descartes, quan điểm ấy cũng được ông duy trì để lập thành sự phân biệt rõ ràng và dứt khoát. Ông ứng xử với thể xác và tâm trí như đang hiện hữu hai bản thể khác nhau, không có đặc điểm chung và không thể trực tiếp tác động lên nhau.

Quan điểm ấy làm phát sinh vô số vấn đề về nhận thức mà đối với chúng dường như không thể nào có câu trả lời. Người duy vật chủ nghĩa gạt bỏ sự tách đôi ấy; họ phủ định bất cứ dị biệt có tính bản thể nào giữa tâm trí và thể xác bằng cách giảm thiểu hoạt động tinh thần thành có tính vật lý: tâm trí là não bộ hoặc liên quan tới não bộ.

Theo lập trường ấy, trí tuệ không là đặc quyền của con người; ta có thể thấy nó trong các động vật thấp hơn con người và nó cũng có thể cho ta thấy một sự phát triển hoặc tiến hóa theo đường thẳng tuyến tính. Ðiều này được nhận ra rõ ràng nhất trong liên quan tới sự phát triển hệ thần kinh.

Phát triển qua biến dị

Có thể lần tìm dấu vết cuộc tiến hóa của hệ thần kinh từ những khởi đầu rất đơn giản trong quá trình hình thành bộ não khiến nó càng ngày càng thích đáng hơn. Con người sở hữu bộ não phát triển cao nhất trong hết thảy các sinh vật hữu cơ, và khả năng suy tư của con người có liên quan tới thực tế đó.

Phải giải thích sự phát triển hệ thần kinh và não trong liên quan tới những biến dị tự nhiên, có giá trị cho cuộc sinh tồn, vì chúng cung cấp cho sở hữu chủ của chúng khả năng chiến đấu để sống sót. Não được phát triển qua những biến dị phi kế hoạch và phi hướng dẫn. Chính nhờ não mà có khả năng suy nghĩ.

Nhờ bộ não tối ưu của mình mà loài người sống sót trong khi các sinh vật khác mạnh hơn, nhanh hơn, được trang bị tốt hơn với nanh cùng vuốt, vẫn bị tiêu vong. Thực tế của não không đòi hỏi bất cứ lời giải thích siêu nhiên nào mà có thể giải thích nó bằng các nguyên tắc tổng quát của cuộc tiến hóa tự nhiên của hệ thần kinh và não.

6. Tiến hóa của đạo đức

Nhu cầu của xã hội

Khi đàm luận về vấn đề đạo đức và tôn giáo, chúng ta cần phải đi quá bên kia cuộc tiến hóa của cá nhân để tới cuộc tiến hóa của xã hội, nhưng cả hai cũng bao hàm các nguyên lý tổng quát giống y như nhau.

Ðể xã hội tồn tại, con người phải có khả năng giải quyết các vấn đề của nó. Khi đối mặt với những nguy cơ hăm dọa cuộc sinh tồn của mình, xã hội thử nghiệm các hình thức đạo đức nhất định. Chừng nào các hình thức hạnh kiểm ấy còn có giá trị cho cuộc sinh tồn của tập thể, chừng đó chúng vẫn được xã hội bảo lưu như những qui tắc tiếp nhân xử thế.

Chúng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thí dụ phong tục tập quán, và chẳng bao lâu chúng sở hữu thẩm quyền khiến cho bất cứ động thái lệch lạc nào cũng bị xem là có tính hăm dọa đối với xã hội và là một biểu lộ vô đạo đức. Ðiều ấy có thể minh họa bằng cuộc tranh chấp thời nào cũng có giữa các thế hệ khác nhau về những hình thức động thái thích đáng, vì dường như thế hệ lớn tuổi thường cho rằng thế hệ trẻ tuổi là suy đồi và vô luân.

Cũng có những sửa đổi

Theo quan điểm ấy, không thể thông giải các luật lệ đạo đức, thí dụ Mười điều răn của Thiên Chúa giáo hay Bát chánh đạo của Phật giáo, như những mạc khải thiêng liêng, mà chỉ là những khuôn mẫu động thái (patterns of behaviour), hay tác phong kiểu mẫu, được triển khai trong một hoàn cảnh lịch sử và đạt được thành quả rất cao. Bằng việc lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các qui tắc đạo đức ấy tiếp nhận một quyền năng không phải lúc nào cũng nhất quán với các nguồn gốc nguyên thủy của chúng.

Về mặt tự nhiên và lịch sử, sự kiện ấy cắt nghĩa lý do tại sao xã hội nào cũng chấp nhận các qui tắc đạo đức, đồng thời người ta đưa ra lời giải thích những khác biệt trong các định chuẩn đạo đức của các xã hội khác nhau. Không bao giờ có việc lưu truyền mà hoàn toàn không bị biến dị, do đó, đương nhiên có những sửa đổi trong khái niệm về thiện ác, về cái gì là tốt và cái gì là xấu. Các xã hội khác nhau, với những bối cảnh lịch sử khác nhau, sẽ có những qui tắc khác nhau do bởi khác nhau về truyền thống.

Vấn đề lương tâm

Có thể đưa ra cách giải thích tương tự cho chữ "phải" mà nhiều người cho rằng nó có vẻ là một từ ngữ có đặc điểm đạo đức và nó chỉ tới nguồn gốc siêu nhiên của sự ràng buộc đạo đức. Dường như một trong các đặc điểm của con người là nhu cầu hợp quần, khát vọng được làm thành viên của một xã hội, cộng đoàn; điều ấy trong tự nó có liên quan tới ý tưởng về sự ràng buộc.

Do đó, chừng nào sự ràng buộc ấy còn tập trung trong lương tâm, chừng đó vẫn có thể giải thích nó như là ảnh hưởng của các khái niệm có tính truyền thống hoặc ảnh hưởng của giáo dục. Một số nhà tâm lý học thông giải rằng lương tâm chỉ là tiếng nói của xã hội liên quan tới động thái đã được chấp nhận và được dạy dỗ trong gia đình, học đường và các cơ sở tôn giáo.

7. Tiến hóa của tôn giáo

Từ sợ hãi và ma thuật

Cũng giống như vấn đề đạo đức, có thể giải thích tôn giáo theo khía cạnh lịch sử. Tuy vẫn lưu hành nhiều ý kiến khác nhau về các gốc rễ thật sự của tôn giáo nhưng chúng ta có thể minh họa thái độ tổng quát của chủ nghĩa máy móc bằng lời gợi ý rằng tôn giáo bắt đầu trong sợ hãi hoặc ma thuật.

Theo thuyết duy máy móc, loài người tìm cách khám phá những nguyên nhân tác động để giải thích các biến cố kinh hoàng xảy ra trong cuộc sống. Thoạt đầu, những giải thích ấy hoàn toàn mê tín, liên quan tới thần linh hay ma quỉ. Dần dà các ý tưởng đó được trau chuốt đưa tới kết quả là con người tạo ra những hình thức tương hợp hơn với lý trí và trí tuệ càng ngày càng tăng trưởng của nó.

Một trường hợp tiêu biểu

Quá trình ấy đôi khi cũng được minh họa bằng cuộc tiến hóa trong truyền thống Do Thái. Trong tư tưởng Do Thái thuở ban sơ, Thượng đế có thể xuống vườn Ðịa đàng đi dạo và chuyện trò với A-đam và E-va trong gió nhẹ chiều hôm. Tuy thế, vào thời *Mô-se, không ai có thể bằng mắt thường của mình nhìn thấy mặt của Thượng đế mà sau đó còn sống. Vì khao khát muốn thấy Thượng đế, Mô-se phải ở lại trong một cái hang cho tới khi Thượng đế đi ngang mới có thể nhìn, nhưng cũng chỉ thấy lưng của ngài. Ðấy là kể theo Kinh thánh Cựu Ước.

Những mô tả hữu hình kiểu đó càng ngày càng bị loại bỏ cho tới khi trong tư tưởng Do Thái về sau và trong Kinh thánh Tân Ước, Thượng đế được xác định đặc điểm như Thần minh. Trong tư tưởng Do Thái thuở ban sơ, được trình bày trong Cựu Ước, ta thấy tương đối rõ ràng rằng Thượng đế chỉ được xem là một vị Thần của bộ lạc, kẻ tháp tùng dân ngài khi lâm trận và bảo đảm rằng họ sẽ chiến thắng nếu họ trung thành với ngài. Ngài cũng sẽ làm cho họ bại trận nếu họ quay lưng lại với những lời khuyên bảo dạy dỗ của ngài.

Các ngôn sứ (prophet) Do Thái – trước đây thường gọi là tiên tri – về sau đạt tới khái niệm rộng rãi hơn về một Thượng đế phổ quát, nhưng mãi tới khi Ðức Giêsu xuất hiện thì tính chất phổ quát của Thượng đế mới được khẳng định với một ý nghĩa duy nhất, không thể mập mờ. Sự việc ấy được dùng như một minh họa cho cái mà người theo thuyết tiến hóa quả quyết là thực chất của tôn giáo nói chung.

Thượng đế là tạo phẩm

Do đó, người máy móc chủ nghĩa cũng quả quyết rằng Thượng đế là sáng tạo phẩm của con người và rằng tính chất thỏa đáng của khái niệm ấy biến hóa theo với sự tiến bộ được con người tạo ra trong quá trình phát triển một khái niệm có lý tính về vũ trụ.

Với cuộc khải hoàn của Darwin, chủ nghĩa máy móc dường như chiến thắng thuở đó. Tâm trí, đạo đức và tôn giáo có thể được giải thích theo khía cạnh tự nhiên. Ðiều thiết yếu duy nhất là cần có sự đồng ý với các nhà duy vật chủ nghĩa rằng ý-chí-tự-do (free-will) là một hư cấu được thiết lập ở quá bên kia vấn nạn của thuyết duy máy móc về bản tính của vũ trụ.

 

V. Suy tàn của thuyết Darwin

và chủ nghĩa máy móc

1. Cuộc tái xét duyệt

Buông bỏ hoặc sửa đổi

Nhà khoa học chân chính sẽ không bám chặt một lý thuyết khi có chứng cớ cho thấy nó không nhất quán hoặc không thích đáng. Sự phát triển của sinh vật học (biology), một hệ luận từ công trình của Darwin, mang ra ánh sáng nhiều hiện tượng không thể nào hiểu nếu chỉ dựa vào các nguyên tắc của Darwin.

Ðiều đó không có nghĩa là phải buông bỏ lý thuyết của Darwin hoặc phải xét lại nó. Một số nhà khoa học hiện đại nghĩ rằng chỉ cần sửa đổi thuyết Darwin là đủ; một số người khác cho rằng nhất thiết phải đề ra các lý thuyết khác. Cũng không ít kẻ nghĩ rằng hãy cứ tạm thời để yên đó vì không thể loại bỏ trường hợp một lý thuyết có thể phải đợi thời gian rất lâu sau mới sưu tầm thêm được chứng cớ để tái xác nhận nó.

Thực tế, dù bị phản bác hay được biện minh, ảnh hưởng của Darwin không bao giờ mất hẳn. Tuy thế, những nghiên cứu sâu xa hơn đã và đang mang ra ánh sáng các sự kiện mà đối với giới khoa học và triết học, dường như đòi hỏi một cách thông giải hoàn toàn khác. Trong các năm giữa thế kỷ 20, sự thay đổi quan điểm này đã gieo rắc lòng hoài nghi sâu đậm thuyết duy máy móc khiến cho nó cũng phải hoặc bị buông bỏ hoặc chịu nhiều sửa đổi tới độ hình thức nguyên thủy của nó không còn được chấp nhận.

Chừng nào chủ nghĩa máy móc còn hàm chứa sự nhất thiết kết liên nhau và sự nối kết có thể dự báo giữa các thành tố, chừng đó phạm vi thẩm tra mới mẻ do cuộc nghiên cứu hạt nhân mở ra vẫn không thể nói là hậu thuẫn cho các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc.

Chỉ tiên đoán đặc thù

Sự dự báo của hoạt động điện tử trong các cuộc ném bom, các chương trình điện toán, vệ tinh truyền thông hoặc viễn thám, các cuộc du hành của phi thuyền cùng phi hành gia không gian, hoặc thả máy móc thăm dò xuống sao Hỏa, chụp hình sao Thủy, v.v. chắc chắn đã mang tính thống kê, thế nhưng vẫn không hoàn toàn thoát khỏi tính riêng rẽ. Cũng một cách thức như thế, các bản xác suốt tuổi thọ có thể dự báo con số người ta sẽ qua đời trong một thời kỳ đã định nhưng không thể chỉ rõ đó là những người nào.

Ta cũng không nhất thiết phải nhảy sang phía đối lập để quả quyết rằng các thuyết phi máy móc (nonmechanism) đã chiến thắng. Môt thời gian ngắn sau khi nhà vật lý lý thuyết người Ðức *Werner Heisenberg (1901-1976) tuyên bố nguyên lý của ông về tính chất phi tất định (principle of indeterminacy), một sự quả quyết rằng những dự báo về các electron (điện tử) thể hiện một động thái vừa phải và không riêng rẽ, một số triết gia và khoa học gia lấy đó như một bằng chứng cho thấy rằng, về mặt nền tảng, vũ trụ mang tính phi tất định chủ nghĩa.

Ðiều xảy ra ấy nằm ngoài dự tính. Nó chỉ là phủ định các bảng hạng mục khắc nghiệt không chấp nhận ngoại lệ do chủ nghĩa máy móc lập thành khi áp dụng chúng vào các hiện tượng của vũ trụ.

2. Marx và Hegel

Chỉ là tiến trình hay phát triển

Phải xem thái độ mới ấy của khoa học như là cái gì đó hoàn toàn mới mẻ. Trong thế kỷ 19, những kẻ đối lập với chủ nghĩa máy móc không chỉ ở trong hàng ngũ thi sĩ và giáo sĩ. Dưới ảnh hưởng của Hegel, hai nhà duy vật chủ nghĩa Karl Marx và *Engels (1820-1895) bác bỏ chủ nghĩa máy móc như một nguyên lý có giá trị dùng để thông giải.

Ðối với họ, thuyết tiến hóa của Darwin dường như gợi tới ý tưởng về tiến trình hoặc phát triển chứ không phải là sự cấu thành đơn thuần (mere composition) như chủ nghĩa máy móc đòi hỏi.

Ðơn giản và ấu trỉ

Biện chứng pháp của Hegel mà Marx chấp nhận, gieo nghi ngờ lên bất cứ khái niệm nào về phát triển theo một đường thẳng (tuyến tính) từ cái đơn giản tới cái phức tạp như triết gia tiến hóa người Anh *Herbert Spencer (1820-1903) đề nghị. Thay vào đó, nó nhấn mạnh một khuôn mẫu có tính chu kỳ hoặc xoắn ốc (a cyclic or spiral pattern).

Ngay từ lúc bắt đầu, chủ nghĩa Marx đã xác định lập trường là đối lập với chủ nghĩa máy móc mà dường như đối với Marx và Engels, nó quá đơn giản và ấu trỉ.

3. Người duy tâm chủ nghĩa

Vai trò của toàn bộ hệ thống

Sau Darwin, lập trường của người theo chủ nghĩa duy tâm (idealism) không hoàn toàn rõ rệt. Vì về mặt cốt tủy, chủ nghĩa duy tâm là một hệ thống chiết trung; nó đan kết hết thảy các khái niệm thành một khuôn mẫu tổng thể, nên nó không thể bác bỏ những khám phá của khoa học cho dẫu nó đánh giá chúng là không thỏa đáng cho một giải thích có tính toàn bộ.

Bosanquet đặt ra khuôn mẫu đó khi ông quả quyết nếu chủ nghĩa máy móc có thể chứng minh một cách khoa học rằng nó phải được thông giải như một chủ nghĩa máy móc của một hệ thống (the mechanism of a system). Cũng như ngữ cảnh quyết định ý nghĩa của một câu văn, toàn bộ hệ thống quyết định bản tính và chức năng của các thành phần của nó. Nếu đó là những gì chủ nghĩa máy móc có ý nói, người ta phải chấp nhận nó.

Tuy nhiên, rõ ràng khái niệm về hệ thống đã khiến cho việc dự báo trở thành bất khả thi hoặc chỉ là hên xui may rủi. Vì các hệ thống chuyển động hướng tới các cấp độ mới dưới tác động của mâu thuẫn hoặc bất thỏa đáng nên không thể nào dự báo bản tính của các cấp độ mới ấy một cách chi tiết hoặc chính xác.

Tính chiết giảm của khoa học

Có lẽ cách tốt nhất là Bosanquet và các nhà duy tâm chủ nghĩa nào đồng ý với ông hãy xem khoa học có tính chiết giảm theo ý nghĩa nó phải bỏ sót để am hiểu, và vì nội dung bị chiết giảm như thế nên nó buộc lòng phải thao tác với các hạng mục giải thích thấp hơn. Lúc ấy, họ sẵn lòng thừa nhận rằng có thể chấp nhận chủ nghĩa máy móc ở cấp bậc đó,, nhưng không thể chấp nhận nó như một nguyên lý giải thích thích hợp ở cấp bậc triết học.

Sự phân chia không chút hào hứng đó về công tác của khoa học và triết học giải thích nhiều điều hiểu lầm của chủ nghĩa duy tâm. Trong khi thông giải tinh thần tổng quát của phong trào ấy, và trong khi thông giải các nguyên tắc của nó dưới ánh sáng của các khái niệm khoa học hiện đại, ta nên thẳng thắn nói rằng chủ nghĩa duy tâm, trong khi nhấn mạnh bản tính có hệ thống của thực tại, không cách gì cảm thấy mãn nguyện với chủ nghĩa máy móc đơn giản.

4. Triết học tiến trình

Tiến công trực diện

Các triết gia theo triết học tiến trình hiện đại (modern progress philosophy) tiến hành cuộc tấn công chủ nghĩa máy móc một cách trực diện nhất. Bergson, như chúng ta sẽ thấy trong chương kế, đã phát động cuộc tiến công chống lại khái niệm đó, không một chút xót thương. Vị triết gia Pháp ấy cho rằng nó bất xứng với các khám phá của khoa học và trái ngược với mọi thông giải thích đáng về thực tại.

Bảo thủ và đơn giản

Bergson quả quyết rằng nếu chủ nghĩa duy vật máy móc (mechanistic materialism) đúng, lúc đó toàn bộ khuôn mẫu phát triển được phô diễn một cách hoàn toàn khác với những gì đã được cung cấp. Trong chuỗi diễn tiến các biến cố lịch sử, chủ nghĩa máy móc không cho phép có bất cứ cái gì mới lạ hoặc không thể dự báo. Nếu điều đó đúng, lúc ấy, theo Bergson, bất cứ cái gì xảy ra lúc này cũng đều phải có mặt ngay từ thuở "tạo thiên lập đia"!

Cũng theo Bergson, rõ ràng sự đơn giản của các giai đoạn về trước đã và đang được thay thế bằng sự phức tạp của các giai đoạn về sau, nhưng do bởi giả định cơ bản của chủ nghĩa máy móc nên không thể có cái gì mới mẻ ngoại trừ những sắp xếp kiểu khác của các cái đã có sẵn ở đó. Ðối với Bergson, một khái niệm như thế dường như đã làm cho chủ nghĩa máy móc không đúng với thực tế và không thể xem đó như một nguyên lý giải thích có tính khoa học.

Vô bằng và bất khả thi

Whitehead cũng bác bỏ chủ nghĩa duy vật máy móc. Nhấn mạnh tới hệ thống (system) hay quan hệ hữu cơ (organism) như trong chủ nghĩa duy tâm, ông tạo ra khái niệm về một thế giới được sản sinh qua sự đơn thuần cấu thành của những phân tử vật chất (material particles) liên quan nhau một cách ngoại tại theo những qui luật cứng nhắc của sự quá đơn giản hóa (oversimplification).

Ðối với Whitehead, dường như "các lý thuyết phạm trù" hiện đại (modern "field-theories") biến lý thuyết phân tử vật chất thành không thể chứng minh và các lý thuyết cấu thành về phát triển thành bất khả thi. Các biến cố là sự phô diễn của tiến trình, của tương quan có tính hệ thống. Chủ nghĩa máy móc chỉ có thể hàm ý ảnh hưởng quyết định của một hệ thống gồm các phần tử của nó. Hoàn toàn không có khả năng dự báo đầy đủ hoặc không mang tính chất tất định chủ nghĩa khắc nghiệt.

5. Khoa học không thiết định

Ðạo của vật lý

Khởi đi từ khoa học thực nghiệm, các nhà khoa học tưởng sẽ cung ứng đầy đủ lời giải đáp về thế giới tự nhiên. Niềm tự tin ấy hầu như vững mạnh thêm nhờ những người thực chứng luận lý đang ra sức gạt bỏ siêu hình học. Các khoa học gia mang bản sắc Newton và các triết gia thuộc truyền thống ấy bị điều kiện hóa trong những tri thức được gọi là khoa học thiết trí (establiahed science), và do đó, thâm tâm họ vẫn xem những suy tưởngsiêu hình học là hoang tưởng.

Thế rồi, sang nửa sau thế kỷ 20, giới khoa học gia bàng hoàng nhận thấy những cái được gọi là luật thiên nhiên, luật vật lý đó mỗi lúc lại đưa họ tới những manh mối khác nữa trong đó các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc không thể nào giải thích đầy đủ. Họ bị đẩy vào một cảnh giới bí ẩn của thế giới khoa học, ngày càng dày đặc những khó hiểu, có tính huyền diệu.

Người tổng kết cho trạng thái ấy, kèm theo những nhận thức mới là Fritjof Capra (1939- ), người Mỹ gốc Áo, giáo sư ngành vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu nổi tiếng ở Hoa Kỳ và Anh. Ôâng tốt nghiệp tiến sĩ vật lý thuần lý thuyết, của Ðại học Vienna; sau đó, chuyên nghiên cứu về vật lý hạt cơ bản (particle physics) và lý thuyết về các hệ thống (systems theory).

Năm 1975, xuất hiện cuốn Ðạo của vật lý của Capra, với nhan đề đầy dủ là The Tao of Physics: An Exploration of the Parallels Between Modern Physics and Eastern Mysticism (Ðạo của vật lý, một thăm dò những điểm giống nhau giữa vật lý học hiện đại và huyền học Ðông phương) do Nhà xuất bản Shambhala của Ðại học Berkeley, Hoa Kỳ. Từ đó đến nay, sách đã được tái bản 43 lần bằng 23 thứ tiếng. Bản tiếng Việt do Nguyễn Tường Bách chuyển ngữ với nhan đề "Ðạo của vật lý. Một khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại & Ðạo học Phương Ðông", Nhà xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh năm 1999.

Từ khoa học tới triết học

Theo Capra, nền vật lý hiện đại của thế kỷ 20 có đặc trưng là cuộc truy tầm nguồn gốc nguyên sơ của vật chất. Từ đó đã tìm ta những "hạt cơ bản" mà về mặt tối hậu, chúng đã cấu thành nguyên tử. Thế nhưng, khi mở ra được cánh cửa, hãy cứ tạm gọi là sau cùng, để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý bỗng phát hiện rằng dường như vật chất không được tạo thành bởi những hạt cứng nhắc, mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác.

Vì thế, hầu như vật chất không có tính đối nghịch nhau. Nó vừa liên tục vừa phi liên tục, thoắt biến thoắt hiện; và tùy vào người quan sát mà xuất hiện. Những tính chất lạ lùng đó đưa vật lý hiện đại vào thẳng cửa ngõ của triết học, đặc biệt của huyền học học. Nền vật lý học hiện đại vừa đồng thuận và thông giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đặt ra những vấn nạn lớn cho loài người mà các nhà huyền học thuở xưa đã đúc kết. Và kỳ lạ thay, những phát hiện của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu so với những kết luận của các hiền giả cổ đại. (Xem Ðại cương triết học Ðông phương).

Sáu tiêu chuẩn tư duy mới

Trong Phụ lục được viết 15 năm sau khi cuốn The Tao of Physics xuất bản lần đầu, Capra đề ra các tiêu chuẩn cho khuôn mẫu mới trong tư duy khoa học. Ðó là:

1. Một khi am hiểu cái cá biệt (đặc thù) thì sẽ am hiểu nguyên lý và sự vận động của cái tổng quát (phổ quát);

2. Thay quan niệm về cấu trúc cơ bản chủ nghĩa bằng quan niệm về tiến trình trong đó mỗi cấu trúc chỉ là dạng xuất hiện của một tiến trình cơ bản;

3. Không thể nói tới thiên nhiên mà không đồng thời nói tới bản thân ta;

4. Nhận thức khoa học như một mạng lưới, không đặt căn bản trên một nền tảng cố định nào;

5. Chuyển dịch từ mô tả chính xác qua mô tả gần đúng;

6. Chuyển dịch từ chức năng giúp con người ngự trị và kiểm soát thiên nhiên sang hỗ trợ con người có thái độ sống hợp tác và bất bạo động.

 

VI. Tóm lược

Thật không đáng ngạc nhiên khi thấy đối với các nhà tư tưởng hôm nay, chủ nghĩa máy móc đã bị bác bỏ vì tính ấu trĩ của nó. Tuy thế, vẫn còn nhiều người cảm thấy rằng đối với khoa học và triết học, cách tiếp cận tốt nhất là sử dụng một hình thức nào đó của chủ nghĩa máy móc. Có những người khác, và dường như là đa số, quả quyết rằng tri thức khoa học hiện đại có liên hệ tới việc thông giải các hiện tượng tự nhiên bằng các bản hạng mục khác với các bảng của chủ nghĩa máy móc.

Ðiều đó không có nghĩa các nhà tư tưởng ấy quay lưng lại với khái niệm ấu trĩ mang tính cứu cánh luận (naive teleological conception) và thay thế một lập trường có tính lịch sử bằng một cái khác. Ðúng hơn, nó chỉ cho thấy rằng các nhà tư tưởng hiện đại đang vật lộn với vấn đề quyết định một lối tiếp cận thích đáng, đúng với những sự kiện đã được khoa học kiến lập, và đồng thời giải thích thỏa đáng nhất các hiện tượng mà không một hệ thống mang tính máy móc chủ nghĩa nào có khả năng làm việc đó.n

Nguyễn Ước
Số lần đọc: 2533
Ngày đăng: 12.06.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trí thức nửa mùa - Oleshuk Iu. F.
Bàn về Quan hệ nhân quả -1 - Nguyễn Ước
Bàn về Quan hệ nhân quả -2 - Nguyễn Ước
Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư - Kiệt Tấn
Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư - Kiệt Tấn
Chân lý là đất không lối mòn - Krishnamurti
Trung Quốc phải chấm dứt ngay giọng điệu hiếu chiến - Đinh Kim Phúc
Bàn về Không gian và thời gian-1 - Nguyễn Ước
Bàn về Không gian và thời gian-2 - Nguyễn Ước
Thơ cần thiết cho ai - Billy Collins: Một ngày nữa thôi - Nguyễn Đức Tùng
Cùng một tác giả
Ðạo đức học-1 (tiểu luận)
Ðạo đức học-2 (tiểu luận)
Ðạo đức học-3 (tiểu luận)
Ðôi nét Hồi giáo (tiểu luận)
Ðôi nét Kitô giáo (tiểu luận)
Cứu cánh luận (tiểu luận)
Cứu cánh luận-2 (tiểu luận)
Bàn về Giá trị-2 (tiểu luận)
Bàn về Chân lý -1 (tiểu luận)
Bàn về Chân lý -2 (tiểu luận)
Ấn giáo - 1 (tiểu luận)
Ấn giáo - 2 (tiểu luận)
Ấn giáo - 3 (tiểu luận)
Ðám rước- 1 (tiểu luận)
Nụ hôn với quỉ -1 (truyện ngắn)
Nụ hôn với quỉ II (truyện ngắn)
Vua một năm (truyện ngắn)
Minh Triết -1 (triết học)
Minh Triết -2 (triết học)
Những kẻ thờ Satan (truyện ngắn)
Bài giảng trên núi (truyện ngắn)
Cơn bão (truyện ngắn)