Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.389 tác phẩm
2.747 tác giả
690
116.726.512
 
Phiếm luận về bài bình thơ “ Tuệ sĩ” của Bùi Giáng
La Thụy

 

 

Tiếc thương Hòa thượng Thiền sư Thích Tuệ Sỹ viên tịch chiều 24.11.2023. Trong niềm suy niệm về Tuệ Sỹ khi Thầy vừa tạ thế, chúng ta hãy cùng thắp nén hương cầu nguyện cho linh thức của Người được siêu thoát.

*****

Trong quyển “ĐI VÀO CÕI THƠ”, Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ:

 

“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...

Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:

 

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy

Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

 

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:

 

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy

Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ

Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

 

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

 

Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “KHÔNG ĐỀ” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ”

 

*

Có lẽ Bùi Giáng là người phát hiện và bình bài thơ KHÔNG ĐỀ này đầu tiên trong tập 1, ĐI VÀO CÕI THƠ.

Thế mà, bỗng dưng bài thơ biến cái tên thành KHUNG TRỜI CŨ và từ ngữ CUNG TRỜI trong bài thơ lại biến thành KHUNG TRỜI.

“Cung trời” như là một cõi trời, một cảnh giới, còn “khung trời” chỉ là một không gian bị hạn chế. bị đóng khung…

 

CUNG TRỜI trong Phật giáo được biết qua sáu cõi, đó là:

 

1. Tứ thiên vương thiên.

2. Đao lợi thiên.

3. Dạ ma thiên.

4. Đâu Suất thiên.

5. Hóa Lạc thiên.

6. Tha hóa tự tại thiên.

Sáu “cung trời” đã nêu ở trên thuộc về Dục giới. Ngoài ra còn có Tam thanh thiên giới, Phạn Thiên giới, Vô sắc giới, Sắc giới nữa, gồm tất cả 36 cung trời.

 

*

Trong 2 câu thơ Bùi Giáng làm nối tiếp thơ Tuệ Sỹ:

 

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,

Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

 

Cụm từ “Trí Hải đa tàm” được hiểu như thế nào đây?

 

- Cách hiểu thứ nhất:

 

“Đa” 多 nghĩa là “nhiều”

“Tàm” 蚕 nghĩa là “con tằm / lông mày”

“Đa tàm” 多 蚕 nghĩa là “nhiều lông mày”, “lông mày dày, rậm”

 

Trí Hải là tên ni cô được Bùi Giáng nhắc đến hai lần trong lời kể ở trên, nên cụm từ “Trí Hải đa tàm” có nghĩa là “Trí Hải nhiều lông mày, lông mày Trí Hải dày, đẹp”

Đây chỉ là lời đùa cợt cho vui của Bùi Giáng. Mà Bùi Giáng đã từng đùa gọi ni cô Trí Hải là “mẫu thân Phùng Khánh” đó thôi:

“Trí Hải Ni Cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi.

Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.

Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?

Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.

Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ.

Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy?

Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.

Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!”

(Trích: Bùi Giáng Thi Ca Tư Tưởng - Saigon 1969)

 

Cho nên, 2 câu thơ

 

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,

Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

 

Trí Hải viết hoa, tức là ám chỉ tên của ni cô.

 

Có thể hiểu là:

“Nỗi lòng xôn xao nước mắt chua cay rơi

Nhìn đôi mày đẹp của Trí Hải làm tâm hồn rối như tơ.”

 

Hay:

Tâm sự lâng lâng, dòng lệ chua cay chảy

Trí Hải mày tằm, đàn trúc rối cung tơ

 

Phải chăng “Trí Hải đa tàm”, Trí Hải mày tằm với nhan sắc như thế đã lắm phen làm Bùi Giáng “mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào”.

 

 - Cách hiểu thứ hai:

TÀM 惭 nghĩa là hổ thẹn

TRÍ HẢI 智海 nghĩa là “biển trí”

ĐA TÀM 多慚 nghĩa là hổ thẹn nhiều

“Trí hải đa tàm” nghĩa là “hổ thẹn nhiều trước biển trí”

TRÚC  筑 là một loại nhạc cụ làm từ tre trúc, gọi là đàn trúc

TY  絲  có nghĩa là dây đàn, còn được gọi là dây tơ, cung tơ.

Câu “trí hải đa tàm trúc loạn ty” có thể hiểu là “biển học mông mênh làm thẹn lòng vì đầu óc mình thiếu minh mẫn lúng túng chưa ngộ được như đàn trúc rối loạn cung tơ”

 

Trở lại 2 câu thơ đầu của Tuệ Sỹ

“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy

 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi”

 

Tuệ Sỹ đang nói về triết lý Nghiệp / Karma. Nghiệp thiện ác đã gieo, bây giờ tác giả bâng khuâng với “bóng nghiệp” nên trước mắt còn thấy liễu rớt hoa bay.

 

Nên hai câu thơ:

 

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,

Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.”

 

Có nghĩa:

 

Tâm sự bâng khuâng, dòng lệ chua cay chảy

Thẹn lòng trước biển trí, đàn trúc rối loạn cung tơ

 

Hiểu như vậy thì bài tứ tuyệt “Vô đề” ý mới liền mạch được.

Quý bạn nghiêng về cách giải thích nào nhỉ!

*

Xin dẫn những bài thơ có dùng chữ Đa tàm 多慚  nghĩa là hổ thẹn nhiều

 

Thơ Trần Tung:

Đa tàm thân trọc phùng thời trọc,

Tiểu tại tâm thanh ngộ quốc thanh.

                           (Thoái cư-Ẩn cư)

 

Dịch:

Thân đục thẹn sinh thời buổi đục,

Lòng trong may gặp nước nhà trong.

 

Thơ Kiều Nguyên Lãng:

Thượng quốc ân thâm tình dị cảm,

Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.

               (Tống Bắc sứ Ma Hợp)

 

Có nghĩa:

Ơn thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người,

Phong tục nước nhỏ đơn giản, thẹn lễ nghi có phần sơ suất.

 

Thơ Trần Nhân Tông:

Nhất thị đồng nhân thiên tử đức.

Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.

(Họa Kiều Nguyên Lãng Vận)

 

Có nghĩa:

Thương yêu mọi người như nhau là đức của Vua,

Sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.

 

Bùi Giáng viết nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thi ca.
Thơ của các thi sĩ được Bùi Giáng cảm nhận theo một phong cách riêng “rất Bùi Giáng” thật dí dõm. Tuệ Sỹ là nhà thơ đầu tiên được Bùi Giáng bình thơ trong tập ĐI VÀO CÕI THƠ. Bùi Giáng viết cảm nhận thơ như người bạn tri âm đồng điệu và bài TUỆ SỸ của ông để lại những “dư vang nghệ thuật” trong lòng người đọc.

 

 

 

 

 

 

La Thụy
Số lần đọc: 180
Ngày đăng: 05.12.2023
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
"Cô vụ'' hay "cô lộ'', từ ngữ nào được Vương Bột dùng - La Thụy
Những bước chân rớm máu" tìm quê hương " - Nguyễn Anh Tuấn
104. Vua Lê Thánh Tông. 10 - Hồ Bạch Thảo
Tiếng bom “Sa diện” hay “Sa điện”? - La Thụy
103. Vua Lê Thánh Tông. 9 - Hồ Bạch Thảo
Thanh điệu trong tiếng việt ghi bằng chữ cái La tinh và trong Âm Hán Việt - La Thụy
Heidegger (IV) nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật - Võ Công Liêm
102. Vua Lê Thánh Tông. 8 - Hồ Bạch Thảo
Lại nói về chữ nghĩa : “Kiển” hay “Kiểng”? - Phan Văn Thạnh
101. Vua Lê Thánh Tông. 7 - Hồ Bạch Thảo
Cùng một tác giả