Từ thập niện 60,tôi đang còn mài đũng quần ở bậc trung học thì anh đã ở tầng trên: Đại Học.Vì là dân văn nghệ cùng viết bài trên các tạp chí văn chương ở SàiGòn nên dễ quen biết nhau.Những năm tháng ấy, ở Huế chúng tôi thường tụ tập về nhà ,nhà văn Lê Bá Lăng ở Vỹ Dạ đàn đúm, say sưa bàn luận chuyện văn học.Ở đây còn có Ngụy ngữ, Viêm Tịnh, Hồ Minh Dũng...Vẻ bề ngoài Trần Doãn Nho rất mô phạm nhưng bên trong tâm hồn anh chất lãng mạn cùng triết lý về nhân sinh quan, thế giới quan luôn thúc giục phải lên đường, phải làm gì đó, phải sống và viết cùng tâm cảm của mình.Chúng tôi say sưa đọc nào Nietzsche, nào Kant, nào Hegel,nào Shakespeare,nào Jean- Paul-Sartre, nào Dostoevsky, nào Camus , Khổng Tử, Lão Tử, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tuệ Sĩ... Đọc để thấu hiểu , để tiêu hóa và làm nên chất của mình riêng biệt.Không ai giống ai và đồng phục là điều chẳng bao giờ xảy ra thời chúng tôi sống và viết.
Tôi thích cái lặng lẽ mà sóng ngầm của anh khi đọc những truyện ngắn anh viết trên Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Đối Diện, Tân Văn...Mỗi truyện đều có phảng phất hương hoa của trái tim nhân bản và tình yêu quê hương cũng như những tra hỏi về phận người của tác giả.Nó có những men say riêng của Trần Doãn Nho khi ai chạm tới những trang viết ngồn ngộn ấy.
Những năm tháng này, chiến tranh mỗi ngày một ác liệt-mặc dù chẳng ưa gì chiến tranh –Nhưng mỗi người một cách riêng để ở lại hoặc lên đường theo vận nước.Thế rồi tôi phải ngút ngàn xa bạn bè đã từng sẻ chia mọi vui buồn trong cuộc sống ở Huế.Từ thập niên 70 và nhất là biến cố 75.Năm 76 tôi hồi hương về Huế làm nông dân thì Trần Doãn Nho đã vào trại cải tạo.Lê Bá lăng lên Kinh tế mới Bình Điền.Và nhiều bạn bè khác đã như chim rã cánh lăng lắc bốn phương trời... Tôi biết chỉ còn Viêm Tịnh là thân thiết sau cùng với Trần Doãn Nho nơi cố thổ.Riêng tôi, cùng cực ở quê cha, quê mạ hơn một năm rồi tôi cũng” ù té chạy” khi bồng bế vợ con về lại phương Nam.
Hoàn cảnh của “bên thua” là vậy đó.Nhưng tình bạn thì không bao giờ thay đổi.Cải tạo xong, Trần Doan Nho cũng trôi về nơi đất lành chim đậu SàiGòn của thập niên 80.
.Anh đã kiếm tôi ở chợ Trần Hữu Trang-gần ga xe lửa số 6, Phú Nhuận.( thật cảm động vì tôi thành kẻ chợ mà anh đâu có quên.Chính lúc này mới biết ai là bạn ,ai là bè)Chúng tôi rưng rưng và lần đó đã uống với nhau vài ly rượu để nhớ thơ Nguyễn Bính :
... Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười...
( Hành Phương Nam)
Uống với nhau ngay trước sạp bán rau của vợ chồng tôi.Bà xã tôi hết sức ngạc nhiên vì có những người bạn Huế chân tình như thế.
Sau lần đó rồi không gặp nhau nữa.Nghe đâu anh chuẩn bị làm hồ sơ đi HO. Rồi năm 1993 anh cùng gia đình định cư tại Mỹ.Tôi nhớ không lầm thì năm 2001 anh về thăm quê hương và cũng đã ghé thăm tôi ở Phú Nhuận.Cũng là bia rượu lúc gặp lại, cũng tâm sự về bạn bè.Tôi mừng vì khí sắc anh lúc này “vượng “ hẳn.Được biết anh cầm bút trở lại và những đứa con tinh thần đã khai sinh nơi quê người hây hẩy.Không chỉ tác phẩm văn chương mà anh còn viết tiểu luận sắc bén như : Tác giả,tác phẩm và sự kiện ( 2005), Viết và đọc( 1999).Có một truyện dài tạo nên sự chú ý đặc biệt của bạn đọc.Đó là Dặm Trường( 2001 )
Cũng từ lần ấy đến giờ tôi chưa nghe anh về lại VN.Song tôi tin một người như Trần Doãn Nho dù ở đâu, làm gì, thế nào thì chữ Tâm luôn như tấm gương sáng trước mặt anh và tài, tâm thường trú trong trái tim nhà văn bằng những trăn trở khôn nguôi...
Có điều lạ là nhà văn Trần Doãn Nho hiếm khi làm thơ.Vậy mà, tôi đã tình cờ đọc được bài thơ của anh với ý, tứ, từ rất hay khi viết về Huế-nơi chôn nhau cắt rún của anh cũng như tôi:
THƠ TRẦN DOÃN NHO:
NỖI HUẾ
nơi đó
thành quách nhiều hơn người
giai thoại đè lịch sử
thuở nhỏ
tôi đi dọc theo những con đường vuông
góc thành này đến góc thành kia
lớp lớp rêu bám đầy
nhẫn nhục, cổ sơ
nghiêm cẩn đến nao lòng
nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi…
tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh
quá khứ được ăn tiêu rất kỹ
những khu vườn có cổng chắn
tường lở nhiều chỗ
vài đoạn rào thép gai
chắp vá hờ hững
ngôi nhà thấp
chật ních kỷ vật
câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ
ngang và dọc
mục và quý phái
cũ và kiêu sa
giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ
ngày tháng co dãn
đậm đặc nỗi tự hào
thuở thanh xuân
mân mê những livre-de-poche Ưng Hạ
đọc cọp báo Sài Gòn Mới Gia Long
tà tà Phan Bội Châu
nhìn trộm Phương Lan
dựa cột đèn Trần Hưng Ðạo
ngắm từng em từng em đi qua
rỡ ràng phố chật
cốc cà phê Lạc Sơn chiều muộn
hơi người hơi ruốc
nhớ bâng quơ
chiều mưa giông Ðồng Khánh
những con chim bồ câu
túa ra
ướt mèm áo trắng
cậu học trò không chịu về nhà
nép dưới tàn cây
hiên phố
ngẩn ngơ
huế rất lạnh mà rất nắng
mưa thì phùn và gió rất khô
trời mênh mang mà người thì lặng
những buổi chiều hiền
thẩn thơ đường nhỏ
em đi như tĩnh vật
tôi rụng rời cơn mơ
nhiều lần lang thang quanh hoàng cung
nghe gạch ngói thở
sờ đám tượng trên sân chầu
ẩn nhẩn
đìu hiu
leo lên lầu ngọ môn
thấm thía dòng hư tự
quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu
chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng
trong hồ sen ngơ ngác
hít hà chút cổ sử
ngậm ngùi thơm
đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi
cho nhiều màn trình diễn
ngoạn mục bất ngờ
có khi trịnh trọng có khi bình dân
có khi rất chuyên nghiệp
và những tan vỡ liên tục diễn ra
thật chậm rãi
đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát
của chính mình
lắm khi
từ trong cái ù lì lặng lẽ
bỗng vươn vai đứng dậy
y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ
vội vội vàng vàng
băng cờ la hét
đường phố hừng hực
khát khao thu gọn chiều dài lịch sử
dưới kia
sông vẫn lặng
đò vẫn trôi
sông còn thơm
mà đò thì chật
những ngày xuân âm khí năm nào
thành quách nín
đất đá nghẹn
cỏ cây câm
hố hầm co quắp
ngột
âm bản cuộc liêu trai
lại có khi
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi Nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
và vô vọng
hàng phượng lạc loài
chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ức
kiêu binh về
bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc
thậm chí oán thù
những người đã chết
y như thể không có họ
thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!
bỗng nhiên
mọi thứ được vội vã hóa thân
hội hè đình đám
những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị
phục chế/tân trang kẻ thù
đem ra bày bán
chữ nghĩa không xương…
sorry huế!
đành phải ra đi
bỏ phía sau nhìn phía trước.
lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc
ăn cũng huế
nói cũng huế
đi cũng huế
chào cũng huế
thương cũng huế
nhớ cũng huế
ngày huế
đêm huế
lao xao những ôn những mụ những o những dì
đám trẻ con ngỡ ngàng
tưởng còn thời khuyết sử
cô cháu nhỏ tò mò
what’s hue, ngoai?
hue here! tôi chỉ vào bà ngoại
really, ngoai?
yes
ngoai oi, so i love hue so very very much.
tháng bảy quay quắt huế
đến hẹn
nước lại lên
nước tràn Ðập Ðá nước lút bến đò Cồn nước ngập Bao Vinh nước ngâm quốc lộ
…đãng trí
tôi không về
ai lội lụt thăm em
một thuở
vỉa hè/góc phố
nắng/mưa
lụt/bão
nghèo/thiếu/đói/no
tù/ngục
…một thuở…
thành phố thì còn
huế đã đi
vĩnh viễn đi!
Trần Doãn Nho
Khi viết những dòng này, SàiGòn những ngày này “mưa trù trù” có khác chi mưa Huế? Mưa quê cha thúi đất Mưa quê mạ không thấy mặt trời..Con người không biết mần chi chỉ biết bó gối nhìn ra đầu ngõ...Sài Gòn là Huế sao? Chiến tranh đã gặm hết tuổi thanh xuân của tôi.Tuổi bất hoặc phải ra ngồi chợ.Giờ tuổi hoàng hôn đang sầm sập đến.Bao ước mơ ,hoài bão tan thành mây khói...Bất giác thở dài.Quay qua kệ sách bắt gặp Thư Quán Bản Thảo số 32 , nhà văn Trần Hoài Thư ưu ái dành chỗ cho tôi , trong đó có các bài viết của các anh Nguyễn Vy Khanh, Lương Thư Trung, Trần Yên Hòa ,Trần Doãn Nho.Đọc lại thấy anh đúng là người thấu hiểu và nắm bắt hết hồn vía của thơ tôi.Tôi thú vị với những đoạn trong bài viết của anh:” Nói chung, những bài thơ thành công nhất của Lữ thường là những đoản khúc lục bát hay thơ tám chữ.Chẳng hạn như đoản khúc sau, tả về tâm trạng xao xuyến của người lính hành quân trên núi:
Lên đây vai nặng bước liều
Quanh co sông núi khói chiều tơ vương
Mùa xuân gối đất nằm sương
Tôi thân co lạnh với hồn cây thưa
Lên đây trời đất mập mờ
Trong tôi buồn thổi từ giờ tử sinh
( Ngày Xuân Ở Thường Đức )
Những bài tám chữ như Thư Gửi người Ở Lại, Ngày Vẫy Biệt Khu Rừng Mơ Tuổi Nhỏ, Gửi Người Xa Xăm, Sao Không Nói... dài hoặc khá dài là những bài hoàn chỉnh và lời thơ rất thiết tha.Nhiều hình ảnh, nhiều ví von đa dạng.Với tôi “cái chất thơ Trần Dzạ Lữ” chân thật nhất thường tỏa ra nơi những bài thơ tám chữ đó.hơi thơ lắng đọng, nhịp thơ miên man, lời thơ níu kéo nhau tạo nên nhiều cảm xúc.”( Trích từ bài viết của Trần Doãn Nho:Trần Dzạ Lữ và Hát Dạo Bên Trời)
Đọc bài viết lại nhớ anh và thèm một buổi gặp lại để tôi ngâm hết bài thơ Hành Phương Nam của thi sĩ Nguyễn Bính cho anh nghe.Thèm lắm, nhưng liệu còn có dịp nào nữa không anh Trần Doãn Nho, nhà văn mà tôi hằng yêu mến?