Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.395 tác phẩm
2.747 tác giả
733
116.731.704
 
Con Đường Bao Dung - Trong văn hóa và huyền sử Việt Nam 3
Nguyễn Văn Thành

Bài 5

 

Những sinh hoạt chính yếu của con người

 

 

Bài Chia Sẻ nầy sẽ lần lượt khảo sát những sinh hoạt «làm người», trong năm lãnh vực chính yếu sau đây:

- Thực tế,

- Lối nhìn hay là quan điểm « làm người và thành người »,

- Đời sống xúc động.

- Ngôn ngữ,

- Những quan hệ trao đổi xã hội qua lại hai chiều giữa người này với người khác, bằng phương tiện ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời.

 

1.- Thực tế của tôi (Thấy, Nghe, Tiếp cận)

 

Thực tế là tất cả những gì tôi thấy, tôi nghe và tiếp cận với tay chân hay là làn da và thớ thịt của tôi.

 

Một người khác cùng chung sống và đang có mặt với tôi, từ một vị trí hay là ở một góc độ khác, có thể ghi nhận một thực tế khác, hoàn toàn khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với thực tế của tôi.

 

Chính vì lý do ấy, bao lâu hai người chưa trao đổi qua lại, chia sẻ, góp chung lại với nhau, với một thái độ lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau, thực tế của tôi chưa thể nào xích lại gần với thực tế của người kia.

 

Vấn đề trở nên phức tạp và phiền toái hơn nữa, khi mỗi người dựa vào những kinh nghiệm quá khứ hay là những dự phóng tương lai, để trình bày về những thực tế có liên hệ gần hoặc xa với mình. Ví dụ: Thực tế của Đất Nước Việt Nam, là gì một cách thực sự và khách quan, một đàng đối với một người ở lại trong Nước. Đàng khác, cũng một thực tế ấy là gì, đối với một người đã ra đi và đang sống ở Nước Ngoài? Nếu hai người có hai chính kiến hay là ở vào hai thế hệ, hoặc lớp tuổi khác nhau, sự cách biệt giữa hai loại thực tế của hai người ấy càng trở nên lớn lao hơn, có khi còn khai trừ và loại thải lẫn nhau.

 

Sau cùng, chúng ta dùng ngôn ngữ, để diễn tả thực tế được cưu mang trong nội tâm của mình. Khi bộc lộ nội tâm như vậy, chúng ta không thể không sử dụng ba cơ chế hay là xu thế cần thiết và tất yếu, có mặt trong mọi ngôn ngữ, như : tổng quát hoá, gạn lọc và chủ quan hoá :

 

Tổng quát hoá có nghĩa là khởi phát từ hai hoặc ba nhận xét cụ thể, chúng ta nhảy vọt lên và đề xuất một kết luận có tính qui luật và thường hằng : Thực tế luôn luôn là như vậy, và phải tiếp tục như vậy, trong mọi trường hợp, đối với mọi người.

 

Gạn lọc là xu thế chỉ chọn lựa những sự kiện cụ thể, thích hợp với hoàn cảnh và kinh nghiệm của bản thân tôi, và từ đó tôi cố tình loại trừ và kết án những gì đi ngược lại với những tin tưởng hoặc định kiến đã có mặt trong nội tâm của tôi.

 

Chủ quan hoá là xu thế gán ghép hoặc áp đặt cho kẻ khác một ý nghĩa do tôi khám phá và đề xuất. Thực tế đối với tôi là như vậy, cho nên mọi người phải chấp nhận thực tế ấy, như là một hiển nhiên, không cần khảo sát thêm và kiểm chứng một cách dài dòng, phức tạp.

 

Khi ý thức một cách sáng suốt, đến ba cơ chế tâm lý này, luôn luôn có mặt trong ngôn ngữ và tác phong trao đổi hằng ngày, chúng ta sẽ cố quyết học tập hai thái độ, nhằm thăng tiến bản thân và tôn trọng tính người của mọi anh chị em đang có quan hệ với chúng ta.

 

- Thái độ thứ nhất là LẮNG NGHE chính mình, để đề phòng bao nhiêu cạm bẫy, do chúng ta tạo nên, khi phê phán, đánh giá, tố cáo và kết án kẻ khác. Tổ tiên và cha ông chúng ta đã đề nghị «hãy đánh lưỡi bảy lần trước khi nói», có nghĩa là  «hãy thức tỉnh», không mê muội, trầm mình trong những định kiến hoàn toàn vô thức. Nói cách khác, khi đi, tôi biết tôi đang đi. Khi nói, tôi biết tôi đang nói…

 

- Thái độ thứ hai là Lắng Nghe và Tôn Trọng kẻ khác, tạo mọi điều kiện thuận lợi và tốt hảo, nhằm giúp họ diễn tả và trình bày thực tế, do chính họ ghi nhận. Khi chúng ta lắng nghe như vậy, chúng ta đã cho phép người ấy «trở thành người».

 

2.- Tư Duy

 

Sau khi ghi nhận thực tế với năm giác quan,  chúng ta sử dụng TƯ DUY, để tổ chức, khẳng định và trình bày LỐI NHÌN của mình. Lối nhìn, tùy theo cách dùng ngôn ngữ của mỗi tác giả, còn mang những tên gọi khác nhau như: ý kiến, quan điểm, lập trường hay là vũ trụ quan.

 

Nhằm phát huy và thao tác con đường tư duy một cách sáng suốt, có hệ thống và khoa học, chúng ta cần từ từ đi lên từng bước, theo năm cấp thang suy luận sau đây:

 

- Cấp thứ nhất là thâu lượm, khảo sát và kiểm chứng các dữ kiện cụ thể và khách quan có liên hệ đến một vấn đề mà chúng ta muốn giải quyết.

- Cấp thứ hai là đề xuất một hay nhiều giả thuyết, nhằm khám phá ý nghĩa của thực tế hay là vấn đề mà chúng ta đang nhận diện và đối diện.

- Cấp thứ ba là chọn lựa một hướng đi, hay là mục đích tối hậu. Từ đó, chúng ta xác định đâu là ưu tiên số một - hay là mục tiêu quan trọng nhất - trong bao nhiêu dự phóng của chúng ta.

- Cấp thứ tư là chuyển biến mục đích tối hậu thành những hiện thực hay là những tác động cụ thể hằng ngày.

 - Cấp thứ năm là đánh giá kết quả cuối cùng, sau một thời gian thực hiện, bằng cách trở về đối chiếu với thực tế lúc ban đầu, để xác định đâu là thành quả khả quan và đâu là những tồn tại chưa được khắc phục. Nói cách khác, chúng ta thất bại, vì những cản trở nào?  Hay là chúng ta đã thành tựu, nhờ vào những năng động nào? Dựa vào cách đánh giá ấy, chúng ta sẽ thêm, bớt hay là chuyển hướng thế nào, trong bao nhiêu dự án sắp tới?

 

Trong cách dùng từ, để tránh những ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra, chúng ta cần phân biệt hai động tác có ý nghĩa và phần vụ hoàn toàn khác nhau:

 

Một bên là nhận định, đánh giá tác phong hay là hành vi của chúng ta và của người khác.

Bên kia là phê phán, xét đoán giá trị của con người, với một đoàn tùy tùng dài thòng lòng như tố cáo, loại trừ, chửi bới và tấn công...

 

Trong cuộc sống làm người, chúng ta không thể không nhận định và đánh giá công việc cũng như hành vi của mình và của người khác.

 

Một cách đặc biệt, khi có nhiệm vụ giáo dục và hướng dẫn ai, phải chăng công việc quan trọng bậc nhất của chúng ta là giúp cho người ấy càng ngày càng phát huy khả năng đánh giá tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời, bắt đầu từ những gì họ nói và làm?

 

Đánh giá như vậy có nghĩa là xác định và phân biệt, theo những tiêu chuẩn đang được thịnh hành trong môi trường xã hội, văn hoá và giáo dục : cái gì đúng và cái gì sai, cái gì thích hợp và cái gì không thích hợp với đời sống và quan hệ xã hội…

 

Tuy nhiên, khi làm công việc ấy, chúng ta cần ý thức một cách rõ ràng và sáng suốt : trong mọi hoàn cảnh, đánh giá công việc hay là tác phong của một người không phải là phê phán giá trị và bản sắc làm người của người ấy.

 

Cho nên, trên con đường đi tới của tư duy, một đàng với sứ điệp «TÔI», chúng ta khẳng định quan điểm và xác tín của mình. Đàng khác, chúng ta lắng nghe và tôn trọng người khác, cho phép họ diễn tả và trình bày ý kiến của mình, mặc dù đó là một trẻ em, đang ở vào lứa tuổi «học làm người». Trái lại, khi «nói THAY nói THẾ», hay là «cố tình áp đặt từ trên và từ ngoài» cho kẻ khác, một lối nhìn, một cách đơn phương và độc tài, chúng ta chưa thực sự làm người. Đồng thời, chúng ta đang làm tổn thương giá trị làm người, hay là xói mòn lòng tự tin và khả năng học tập của người ấy.

 

3.- Xúc Động

 

Tư duy, như vừa được nói tới, có phần vụ sáng soi và điều hướng chúng ta, trong mọi chương trình và kế hoạch hành động. XÚC ĐỘNG, trái lại, là động cơ thúc đẩy chúng ta thực hiện và hoàn thành công việc, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu chính đáng và cơ bản trong cuộc sống làm người. Chính vì lý do đó, khi các nhu cầu làm người được đáp ứng và toại nguyện, chúng ta vui sướng, hạnh phúc và an bình. Trong trường hợp ngược lại, những xúc động như sợ hãi, lo buồn và tức giận sẽ xuất hiện trong nội tâm, như một tiếng còi báo động nhằm đánh thức và thúc giục chúng ta «hãy diễn tả, chia sẻ và chuyển hoá tình huống hiện tại». Không được hoá giải như vậy, xúc động sẽ tràn ngập và khống chế tư duy, như một dòng thác lũ phá vỡ bờ đê và làm băng hoại mọi mùa màng trong những cánh đồng hai bên.

 

Thêm vào đó, ở bên dưới mỗi xúc động đang làm cho nội tâm và nhất là các sinh hoạt bình thường của tư duy bị tê liệt, chúng ta hãy lắng nghe và khám phá một hay nhiều NHU CẦU của cuộc sống làm người. Hãy lắng nghe và nhìn nhận, một cách chân thành và cẩn trọng, những nhu cầu cơ bản ấy. Phải chăng đó là cách hoá giải hữu hiệu và cũng là con đường làm người cần được mỗi người học tập, tôi luyện trong suốt cuộc đời.

 

Nếu chúng ta không đáp ứng, với những phương thức vừa được trình bày, xúc động sẽ trở thành BẠO ĐỘNG trong ngôn ngữ và hành vi. Ở cuối chặng đường thoái hoá, xúc động sẽ trở thành hận thù và chiến tranh. Và con người lúc bấy giờ, sẽ biến thân thành muông thú đối với nhau, trong mọi quan hệ qua lại hai chiều, như “Tao hơn – mày thua, Tao tốt – mày xấu, Tao có lý – mày phi lý…”. Tắt một lời, “Mors tua, vita mea”, có nghĩa là “Mày phải chết, để cho tao sống, chúng ta không thể đội trời chung”.

 

Trong khuôn khổ của bài chia sẻ này, tôi chỉ đề cập đến ba xúc động chính yếu sau đây mà thôi:

 

-    Thứ nhất là TỨC GIẬN. Xúc động này có phần vụ nhấn mạnh rằng: «Tôi đang cần TỰ DO và tôi cần khẳng quyết quyền KHÁC BIỆT, đối với những người đang chung sống hai bên cạnh.

-    Thứ hai là BUỒN PHIỀN. Sứ điệp của xúc động này là: «Tôi đang cần tạo lập những QUAN HỆ hài hòa và mới mẻ, với con người và sự vật đang bao quanh tôi».

-    Thứ ba là LO SỢ. Xúc động này đang dùng ngôn ngữ không lời, để nhắn nhủ cho chính chúng ta rằng: «Tôi đang cần được sống trong bầu khí AN TOÀN. Xin đừng có ai đe dọa, tố cáo và kết án tôi».

 

Khi cả ba nhu cầu cơ bản ấy được lắng nghe, trân trọng, đáp ứng và toại nguyện, ai ai trong chúng ta cũng sẽ tự nguyện thi thố tài năng của mình một cách tối đa và tốt hảo, trên con đường làm người. Đồng thời, một cách hăng say và nhiệt tình, chúng ta sẽ vận dụng mọi cơ may, để đóng góp và xây dựng cho kẻ khác, để họ cũng có những điều kiện làm người như chúng ta, với chúng ta và nhờ chúng ta.

 

4.- Quan Hệ Xã Hội

 

Sinh hoạt thứ bốn, trên tiến trình làm người của chúng ta, là kết dệt những quan hệ ĐỒNG CẢM và ĐỒNG HÀNH, với anh chị em đồng bào và đồng loại. Theo lối nhìn của tác giả Stephen COVEY, đây là loại quan hệ «Người Thắng-Tôi Thắng-Chúng ta cùng Thắng». Không có kẻ hơn, người thua. Không có người tự tấn phong là hạng «siêu nhân», và những thành viên còn lại được cư xử và đối đãi như là «công cụ», «đồ vật», «bệ gác chân», hay là «một loại người phó sản».

 

Trong hiện tình thoái hoá của đời sống làm người, vì những lý do thực tiễn, quan hệ XIN CHO đã bị đầu độc và ô nhiễm trầm trọng. Xin có nghĩa là quị lụy, sụp lạy trước một « phú ông ». Cho có nghĩa là ban phát một cách nhỏ giọt, từ trên và từ ngoài, một cách tùy nghi và tùy tiện.

 

Trong khi đó, quan hệ bình thường và lành mạnh giữa người và người, nhất là trong địa hạt Tình Yêu dâng hiến, bao gồm bốn động tác cơ bản: XIN và CHO, NHẬN và TỪ CHỐI.

 

Hẳn thực, chính lúc tôi cho, tôi đang nhận lại bao nhiêu hồng ân, bằng cách này hoặc cách khác. Khi xin ai một điều gì, tôi đang nhìn nhận tính chủ thể của người ấy. Cho nên, tôi không có thái độ cướp giật, ép buộc, đòi hỏi, đấu tranh, giống như hùm beo muông sói.

 

Cũng trong tinh thần và lăng kính ấy, khi ai xin tôi một điều gì, tôi cần khảo sát điều kiện thực tế của mình, để có thể chọn lựa một trong hai con đường: Một là CHO một cách bình tâm và thanh thản. Hai là từ chối, trả lời «KHÔNG», một cách nhã nhặn và khiêm tốn. Xin như vậy không phải là nài nỉ, ép buộc người kia phải cho. Và khi cho trong tinh thần ấy, tôi không phải là người ở trên, ban phát xuống một cái gì dư thừa, vô ích và vô dụng. Trong cách cho như vậy, tôi không cưu mang một hậu ý là «thả tép câu tôm». Hẳn thực, khi cho bất kỳ một điều gì, một cách thực sự và trọn vẹn, tôi CHO chính CON NGƯỜI của tôi. Tôi CHO cả MỘT TẤM LÒNG làm người, khả dĩ kêu mời người khác cũng làm người với tôi va giống như tôi.

 

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được đề xuất như vậy, trong mọi quan hệ bao gồm tình yêu, tình bạn, tình anh chị em đồng bào, đồng loại… tôi dùng sứ điệp «NGÔI THỨ NHẤT, TÔI», để diễn tả vả khẳng định con người của mình, thay vì lạm dụng ngôi thứ hai, để nói thay, nói thế cho kẻ khác, theo kiểu «cả vú lấp miệng em», hay là áp đặt từ trên và từ ngoài những « qui luật » như : Phải, Cần, Nên, Không được...

 

Trong tinh thần và lăng kính ấy, khi biết lắng nghe và tôn trong con người đang có mặt và chung sống, chúng ta sẽ có khả năng sáng tạo và thiết lập với mọi người, những quan hệ xây dựng và hài hòa, còn mang tên là « tương sinh, tương thành ». Hẳn thực, khi chúng ta cố quyết « làm người », chúng ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác « thành người, với chúng ta, nhờ chúng ta và như chúng ta ».

 

Bốn bước đi tới trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi

 

Nhằm cụ thể hoá những ý kiến vừa được quảng khai, sau đây là bốn bước cần thực hiện, mỗi lần chúng ta thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, nhất là khi đối diện những phản ứng xúc động đang leo thang, tràn ngập và sắp bùng nổ :

 

Bước thứ nhất: Tôi Nghe, tôi Thấy… Tôi ghi nhận sự kiện khách quan, cụ thể trước mắt mình.

 

Khi làm như vậy, tôi tìm cách phản ánh và kiểm chứng : có phải, có đúng như vậy không ?

 

Bước thứ hai : Kêu ra ngoài, gọi tên xúc động đang ẩn núp ở dưới sự kiện.

 

Ví dụ : Em/chị nói như vậy có nghĩa là em/chị đang BUỒN, GIẬN, hay là SỢ phải không ? Khi tiếp xúc với trẻ em, chúng ta chỉ cần xoay lui xoay tới với 3 xúc động chính yếu này mà thôi.

 

Bước thứ ba : Sau khi lắng nghe và ghi nhận xúc động, chúng ta tìm hiểu thêm : Chị/em đang CẦN  gì? NHU CẦU quan trọng bậc nhất của chị/em có phải là --- ?

 

Bước thứ tư : Vậy theo em/chị, trong hoàn cảnh và vị trí của tôi, tôi có thể làm gì cụ thể, để đáp ứng nhu cầu của em/chị ? Chị/em yêu cầu tôi LÀM gì?

 

Sau khi lắng nghe, ghi nhận, tôi xin trả lời :

- Về yêu cầu thứ nhất mà chị vừa trình bày, tôi có thể làm được.

- Về yêu cầu thứ hai... tôi không có khả năng và điều kiện để làm.

 

Khi từng bước đi lên như vậy, tôi lưu tâm đến những cách làm quan trọng sau đây :

- 1) Dùng sứ điệp TÔI, để nói về mình, cũng như khẳng định mình một cách trung thực. Điều cần đề phòng là nói thay nói thế kẻ khác, thuyên giải, bói đoán, áp đặt cho kẻ khác những lối nhìn hoàn toàn chủ quan.

- 2) PHẢN ẢNH, nghĩa là nói lại với ngôn ngữ của mình, những gì chúng ta đã ghi nhận và đón nhận, khi lắng nghe và đặt trọng tâm vào con người của kẻ khác.

- 3) KIỂM CHỨNG bằng cách yêu cầu kẻ khác nói rõ : những điều tôi hiểu về họ, có hoàn toàn ăn khớp với quan điểm của họ hay không ?

- 4) KHÔNG KHUYÊN BẢO, nghĩa là đề nghị cho kẻ khác những lối nhìn và cách làm của chính chúng ta.

- 5) Thay vì bói đoán hay là tưởng tượng, tôi GHI NHẬN một cách khách quan, những gì mắt thấy, tai nghe, phát xuất từ người đang trao đổi với tôi.

- 6) Thay vì ÁP ĐẶT một cách vu vơ, nghĩa là đề xuất một lối nhìn hoàn toàn chủ quan, do chính tôi khám phá, xây dựng và tưởng tượng, tôi chỉ cố gắng TRUNG THỰC NÓI VỀ MÌNH và LẮNG NGHE cũng như TÌM HIỂU ý kiến của người khác, khi họ phát biểu.

- 7) Khi thiết lập những quan hệ ĐỒNG CẢM như vậy, chúng ta tạm thời đóng vào ngoặc, không đề cập vấn đề đồng ý hay bất đồng, về mặt tư tưởng và quan điểm. Chúng ta chỉ làm công việc nhìn nhận con người và tôn trọng giá trị làm người của họ mà thôi.

Thể theo lối nhìn và kinh nghiệm hòa giải của tác giả Marshal B. ROSENBERG, chúng ta chỉ cần tôn trọng một cách nghiêm chỉnh và chính xác, bốn bước từ từ đi lên, như được đề nghị, chúng ta sẽ có khả năng đề phòng và ngăn chận hiện tượng xúc động biến thành bạo động, trong hành vi của chính chúng ta, cũng như trong hành vi của kẻ khác.

 

Chính vì lý do này, mỗi lần có hiện tượng xúc động « bùng nổ » nơi trẻ em, tôi đề nghị những cách hành xử sau đây :

 

- Thứ nhất, người lớn hãy có mặt với trẻ em, đừng bỏ đi nơi khác,

 

- Thứ hai, thay vì ngăn chận, ức chế, bằng ngôn ngữ hoặc hành vi, chúng ta chỉ bình tĩnh phản ánh : Mẹ thấy con bùng nổ. Con có thể nói lên cơn tức giận của con. Mẹ cho phép con diễn tả, nói ra, bộc lộ ra ngoài. Nếu tức quá, con hãy tức với cái gối này đây. Trường hợp trẻ em đánh đập kẻ khác, chúng ta chỉ cầm tay, giữ chặt trẻ em lại và nói : Con tôi tức quá, giận quá. Con có thể giận cái ghế, cái gối. Nhưng không bao giờ đánh em, đánh mẹ. Điều cốt yếu trong lúc này là chúng ta giữ nét mặt và thái độ bình tĩnh, không ức chế và trừng phạt.

 

- Thứ ba, sau khi trẻ em đã trở về tình trạng ổn định, chúng ta tìm hiểu nhu cầu của trẻ em : Con cần gì, hãy nói ra cho mẹ biết. Trường hợp trẻ em không nói, chúng ta có thể thuyên giải, đưa ra một lý do hay là đặt câu hỏi. Động cơ chính trong cách làm và cách nói của chúng ta, vào lúc này là có mặt và trao đổi, phản ánh, hơn là khám phá sự thật hay là nguyên nhân đích thực của hành vi bùng nổ.

 

- Thứ bốn, để kết thúc, chúng ta đề nghị một trò chơi. Hai mẹ con có thể cầm tay nhau, đi quanh một vòng… Nếu người lớn đã có thói quen tiếp xúc, trao đổi như vậy… dần dần họ sẽ tìm ra những cách làm và lời nói thích hợp. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh lại, điều quan trọng ở đây là có mặt và trao đổi. Nội dung không thiết yếu bao nhiêu.

 

Và khi người mẹ biết tạo quan hệ Đồng Cảm như vậy, bà là cái KHUNG bao bọc, che chở, tạo an toàn tình cảm cho đứa con, trong mọi tình huống thuận lợi cũng như bất lợi.

 

Trong tinh thần và lăng kính này, Lắng Nghe, Có Mặt và Đồng Cảm, là những quà tặng lớn lao, cho những người đang tiếp xúc với chúng ta, bất kể người ấy đang còn là một trẻ em, hay đã trưởng thành và có những trách nhiệm, trong lòng xã hội.

 

5.- Ngôn Ngữ

 

Như đã được trình bày từ đầu, Nội Tâm bao gồm năm thành tố khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau :

-  Cửa Vào làm bằng năm giác quan (Input),

- Tư Duy và Xúc Động là hai Thành Tố thuộc Tiến Trình Biến Chế và Chuyển Hoá (Processing),

-  Hai Thành Tố thứ tư và thứ năm là Cửa Ra bao gồm Ngôn Ngữ và những Quan Hệ xã hội giữa người với người (Output).

 

Vì lý do sư phạm, tôi đã chọn lựa thứ tự trước-sau, trong-ngoài. Trong thực tế, năm thành tố ấy giao thoa chằng chịt, tác động qua lại, kết dệt với nhau những quan hệ nhân quả hai chiều. Hẳn thực, một trong năm thành tố có thể là nhân, có khả năng phát sinh, điều hướng hoặc điều động bốn yếu tố còn lại. Khi khác, chính yếu tố ấy lại là thành quả chịu ảnh hưởng lớn lao của một thành tố khác.

 

Tư duy chẳng hạn, mang lại cho đời sống của con người một hướng đi, một ý nghĩa, một mục đích. Tuy nhiên, không có xúc động làm động cơ thúc đẩy, làm sao con người có thể có khả năng chuyển biến một chương trình, một kế hoạch thành hoa quả cụ thể trong lòng cuộc đời. Nhưng khi không có ánh sáng của tư duy soi sáng và hướng dẫn, xúc động sẽ tức khắc bị tràn ngập và gây ra nhiều đổ vỡ trong đời sống xã hội…

 

Nói khác đi, xúc động cần được gọi ra ngoài, đem ra vùng ánh sáng của ý thức và ngôn ngữ. Lúc bấy giờ, xúc động không còn là một «Xung Năng » hoàn toàn vô thức, một sức thúc đẩy, dồn ép, tạo căng thẳng. Trong tiếng Anh, sức mạnh ấy mang những tên chuyên môn như Drive, Urge hay là Pulsion.

 

Trong lăng kính vừa được trình bày, ngôn ngữ là một phương tiện được dùng, để GỌI RA NGOÀI, hay là MANG RA VÙNG ÁNH SÁNG, những gì được cưu mang trong nội tâm. Đối với bốn thành tố khác ─ là giác quan, tư duy, xúc động và quan hệ xã hội ─  ngôn ngữ đóng vai trò tổ chức, xếp đặt, diễn tả, phản ánh hay là giải toả. Nhờ ngôn ngữ, chúng ta đặt tên hay là gọi tên, cho những gì chúng ta thấy, nghe, cảm. Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là sở hữu riêng tư của một cá nhân. Đó là phương tiện của cả một tập thể, một cộng đồng, một nền văn hoá, có khả năng mở ra cho chúng ta những cánh cửa bao la, diệu vợi, một bầu trời tự do và sáng tạo. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là một cạm bẫy đầy hiểm nguy và tai hoạ. Chẳng hạn, chúng ta dùng ngôn ngữ, để tìm hiểu, khám phá lối nhìn và quan điểm của kẻ khác. Nhưng chúng ta cũng có thể dựa vào ngôn ngữ, để áp đặt cho kẻ khác những cách làm, những lối suy tư mà chúng ta lầm tưởng đó là chân lý ngàn đời, là qui luật bất di bất dịch, phổ cập bất kỳ ở đâu.

 

Bao nhiêu nhận xét ấy cho phép chúng ta ý thức đến ít nhất ba phần vụ khác nhau của ngôn ngữ :

 

- Thứ nhất, đó là một phương tiện cần được đặt dưới quyền sử dụng của tư duy, nhằm tổ chức và định hướng cuộc đời.

 

- Thứ hai, đó cũng là một dụng cụ hữu ích và hữu hiệu, để chúng ta thiết lập quan hệ tiếp xúc và trao đổi, chia sẻ và đồng cảm với những người cùng chung sống trong môi trường xã hội.

 

- Thứ ba, xuyên qua con đường ngôn ngữ, chúng ta thực thi công việc phản ánh, có nghĩa là từ từ gọi ra vùng ánh sáng của ý thức, bao nhiêu động lực đen tối, mập mờ, bao nhiêu xung năng vô tổ chức, cũng như bao nhiêu tiếng nói còn đang bị ức chế, trấn áp, chưa được coi trọng và lắng nghe.

 

Không nhìn nhận và coi trọng đúng tầm ba vai trò và ba giá trị ấy của ngôn ngữ, trong các phương pháp tiếp cận và giáo dục, chúng ta sẽ lập tức biến ngôn ngữ thành một dụng cụ nhồi nhét, nhồi sọ. Một cách vô tình và vô thức, chúng ta biến trẻ em thành một con sáo, con cưỡng học nói, hay là một chiếc máy vô hồn ghi âm và phát âm.

 

Nói cách khác, bao lâu trẻ em tự kỷ còn có những vấn đề « xúc động tràn ngập hay là bùng nổ », điều quan trọng bậc nhất là tạo ra những điều kiện, những bầu khí, những khung cảnh an toàn thể lý và tâm linh. Tôi gọi đó là « cái KHUNG bền vững », bao bọc và che chở trẻ em, đối với mọi va chạm trong cuộc đời.

 

Bao lâu trẻ em còn sống bít kín, đóng khung trong những hành vi lặp đi lặp lại, ưu tiên số một hay là nhu cầu cơ bản nhất, cần khám phá, để chuyển hoá tình trạng hiện tại của trẻ em, là thiết lập với trẻ em ─ một cách vô điều kiện và đơn phương về phía chúng ta  ─ những quan hệ xã hội.

 

Quan hệ xã hội này làm bằng những động tác cụ thể như : có mặt, lắng nghe, nhìn ngắm, sung sướng, hạnh phúc, sẵn sàng đồng cảm và đồng hành với trẻ em.

 

 

 

Bài 6

 

 Mặc cảm là gì ?

 

Khi bàn đến nội tâm của con người, Phân Tâm Học của FREUD  trình bày hai cách tổ chức khác nhau, còn được gọi là hai cấu trúc của bộ máy tâm linh.

Cấu trúc thứ nhất gồm có ba thành phần khác nhau : Thành phần thứ nhất là « Cái Tôi » hay là Bản Ngã. Thành phần thứ hai là Siêu Ngã, còn mang tên là « Cái Trên-Tôi », có phần vụ soi sáng và hướng dẫn Bản Ngã. Đó là một loại « bản đồ tâm lý » cho phép Bản Ngã tìm ra những đường đi và nẻo về, ở giữa lòng cuộc đời. Sau cùng là thành phần Tự Ngã, còn được gọi là « Cái Ấy ». Đó là kho tàng nguyên liệu tự nhiên, bẩm sinh, có sẵn trong hành trang vào đời, từ ngày chúng ta được cưu mang, trong cung dạ của Mẹ. Những nguyên liệu nầy sẽ từ từ được chuyển biến thành vật tư kiến dựng ngôi nhà Bản Ngã, trong suốt tiến trình học làm người, còn mang tên là tiến trình xã hội hóa.

 

Cấu trúc thứ hai bao gồm hai chế độ sinh hoạt khác nhau : Ý Thức và Vô Thức. Khi sống trong chế độ ý thức, tôi biết tôi là ai, đang làm  gì… Khi ăn, tôi biết tôi đang ăn. Khi làm, tôi biết tôi đang làm. Khi phát biểu, tôi biết rành mạch đâu là sự kiện khách quan, đâu là giả thuyết, đâu là những kết luận phát xuất từ tôi, đâu là những dư luận đồn thổi, không được kiểm chứng... Nói một cách vắn gọn, khi tôi sống trong ánh sáng của ý thức, tất cả những gì xảy ra, trong và ngoài, trước mắt tôi, đều là bài học và kinh nghiệm quí hóa giúp tôi xây dựng bản thân và cuộc đời. Nhờ đó, tôi trở nên một Bản Ngã kiên cường và vững mạnh, có khả năng LÀM CHỦ bản thân và kiến dựng  đời sống.

              

Trái lại, khi ở trong chế độ Vô Thức, tôi hoạt động như một bộ máy vô hồn. Nhiều sức ép bắt nguồn từ Tự Ngã, còn mang tên là Xung Năng, tác động trên tôi, thúc đẩy tôi. Thêm vào đó, khi phải đối diện với lối nhìn xoi móc và cay nghiệt của Siêu Ngã, tôi dễ dàng hóa thân thành « một con múa rối », bị lèo lái, điều khiển từ ngoài và từ trên. Thay vì làm một chủ thể có khả năng sáng tạo cuộc đời, tôi chỉ là một « đồ vật », một « đối tượng »,  lênh đênh, phiêu bạt giữa dòng đời. Khi bị kích thích, tôi  phản ứng một cách máy móc, tự động và một chiều. Hẳn thực, không có trước mặt những con đường thứ hai, để cân nhắc, phân biệt, đánh giá…làm sao tôi có thể trở nên con người tự chủ, biết quyết định và chọn lựa một  cách tự do, hài hòa, linh động và sáng tạo.

 

Nói theo ngôn ngữ của Phân Tâm Học, Bản Ngã của tôi bị chèn ép, kềm kẹp, giữa hai đối lực đang tranh giành quyền lực và ảnh hưởng. Một bên là Siêu Ngã áp đặt cho tôi những cách làm, những nguyên lý hành động. Và bên kia là Xung Năng, với những sức ép khắt khe, những đòi hỏi mãnh liệt, những thèm khát đầy quyến rủ… cơ hồ một dòng thác lũ lôi cuốn và phá hủy tất cả những bờ đê ngăn chận, trên con đường đi tới của mình. Rốt cuộc, sống thường xuyên, ở giữa hai gộng kềm khắc nghiệt như vậy, tôi không biết : Tôi thực sự là ai ? Bản Ngã của tôi đặt trọng tâm ở chỗ nào ? Tôi có những nhu cầu cơ bản nào ? Khả năng và giá trị, mà tôi  cần kiên trì đeo đuổi và ngày ngày thực hiện, gồm có những gì, trên con đường vạn nẻo của cuộc đời ? Rốt cuộc, tôi chỉ « theo đuôi kẻ khác », nghĩa là thừa hành, tuân lệnh, bị động, lệ thuộc, « nhắm mắt đưa chân ». Đến một lúc nào đó, khi không còn chịu đựng được tình trạng « làm đồ vật, công cụ » để kẻ khác sử dụng và sai khiến, lúc bấy giờ tôi bùng nổ, phản loạn, hủy hoại mình như một con thiêu thân. Sau khi hồi tỉnh lại, tôi tố cáo, phê phán, trách móc chính mình, gán cho mình những danh hiệu xấu xa và tệ hại, đang có mặt trong ngôn ngữ thường ngày.

 

Ngoài ra, trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi với kẻ khác, thậm chí với những người thân tình, bằng hữu… tôi có xu thế « CẢM » và « THẤY » mình là người luôn luôn « thua thiệt, bị lép vế, lạm dụng và lợi dụng ». Không ai thương tôi thực sự. Không ai kính trọng tôi. Không ai hiểu tôi và lắng nghe tiếng kêu trầm thống của tôi. Những tâm tình, xúc động sâu xa và thầm kín, đang sôi sục và rền rĩ trong nội tâm, không một ai trong trời đất nầy có khả năng chia sẻ với tôi. Họ chỉ tố cáo, phê phán, trừng phạt. Nói tóm lại, cô đơn và cô độc là thân phận và số kiếp đọa đày của tôi. Tôi cảm thấy mình là người hoàn toàn xa lạ và bất hạnh, trong mọi môi trường của cuộc sống làm người.

 

Xuyên qua một vài đường nét chính yếu vừa được đề xuất như vậy, tôi đã cố gắng phác họa và mô tả một phần nào, con người đang cưu mang trong nội tâm nhiều mặc cảm.

 

-   Con người ấy chìm đắm trong vô thức, hơn là sống trong ánh sáng của ý thức.

-   Con người ấy cảm thấy mình là nạn nhân của nhiều đối lực bên ngoài và bên trong, hơn là làm chủ bản thân và nắm vững vận mệnh của mình.

-   Con người ấy phản ứng một cách bốc đồng, bột phát và lộn xộn… hơn là sáng tạo và xây dựng , khẳng định chính mình và từng bước đi lên thực hiện mỗi ngày những hoài bảo, mộng mơ  trong cuộc đời.

-   Trong mọi tình huống, khi va chạm với kẻ khác, con người ấy cảm thấy mình bị thua thiệt, bất hạnh và cô đơn.

-   Sau cùng, con người ấy không biết rõ mình là ai : Hiện tại họ có những nhu cầu cơ bản nào ? Họ cần phải chọn lựa ưu tiên nào, trong cuộc đời, để hăng say dấn thân, nhập cuộc, xây dựng bản thân và thăng tiến anh chị em đồng bào ?

 

 Trước khi phân tích, tìm hiểu tâm trạng rất đa phức và phiền toái nầy, chúng ta hãy lắng nghe lời tự thú của LÝ MINH NGUYỆT  đang sống và giam hãm mình trong vòng mê cung của mặc cảm  :

 

« Tôi vừa đọc trong sách một đọan văn nói về tính nhút nhát, rụt rè. Tôi thấy đó là một tính xấu, đúng như người ta nói. Tôi sợ hết mọi người. Ở lớp, thấy thầy cũng sợ, bạn cũng sợ. Về nhà, thấy chị em, tôi cũng sợ. Tôi không hiểu sao cả. Đôi lúc, tôi thấy mình sao hèn nhát quá. Hình như tôi không còn là tôi, không dám làm gì, nói gì cả. Mặc dù chẳng ai làm gì, nhưng sao tôi cứ sợ. Tôi lo quá. Cứ như thế nầy, tôi chẳng ăn làm gì được… »

 

 

2.-Những tiêu chuẩn để phát hiện 

 

Những sơ đồ tâm lý,

Những tập  tục xúc động,

Những yếu tố dẩn khởi.

 

Làm sao phát hiện sự có mặt của những Mặc Cảm, trong nội tâm của chính mình, và trong cuộc sống của người khác ?

 

Như tôi đã nhấn mạnh trên đây,  đối với người đang bị mặc cảm khống chế, tất cả bốn loại sinh hoạt của nội tâm đều bị rối loạn, ối đọng và ô nhiễm :

 

Thứ nhất, nhận thức bị bóp méo, xuyên tạc, không phản ảnh thực tại khách quan bên ngoài.

  

Thứ hai, lối nhìn về mình và về người khác có chiều hướng tiêu cực, phiến diện và một chiều. Khi đã không tìm ra giá trị nội tại của mình, họ không thể nào đặt niềm tin yêu vào kẻ khác, môït cách lâu bền và trung thực.

         

Thứ ba, đời sống xúc động di chuyển từ cực đoan nầy đến cực đoan khác : khi thì câm nín, lo sợ, dồn nén, khi thì bùng nổ, bạo động, tràn ngập như nước vỡ bờ. Khi không tiếp xúc và lắng nghe tiếng kêu trầm thống của xúc động, làm sao tôi có khả năng khám phá những nhu cầu cơ bản của mình, trong cuộc sống làm nguời ?

 

Thứ bốn, trong địa hạt trao đổi giữa người với người, quan hệ nhị nguyên – Tao hơn Mày thua - là tên du kích len lỏi, nằm vùng trong tất cả mọi môi trường sinh hoạt. Đó là nguồn gốc hay là nguyên nhân phát sinh mọi phản ứng xung đột và hận thù, chia rẽ và bạo động, thậm chí giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Cũng vậy, giữa anh chị em đồng bào, trong lòng quê hương và dân tộc, thay vì bổ túc, kiện toàn cho nhau, và chấp nhận nhau… họ tìm cách phân biệt một cách rõ ràng : Ai trắng ai đen ? Ai hơn ai thua ? Ai mạnh ai yếu ? Ai bạn ai thù ? Và khi đã gắn cho ai nhãn hiệu « địch thù », họ sẽ tìm ra mọi cơ hội và lý chứng, để qui định vị trí của người kia trong hàng ngũ  phản loạn, phá hoại,  và chống đối. Hẳn thực, theo cách nhận định của Tâm lý đương đại, lối nhìn là một « lời tiên tri », có khả năng biến thành hiện thực những tin tưởng có mặt trong nội tâm. Khi tôi tin làm sao, thế nào tôi cũng sẽ thấy thực tại y như vậy. Phải chăng cha ông chúng ta đã thường nhắc nhở : « Yêu nên tốt, ghét nên xấu » ?

 

Nói tóm lại, khi tôi bị mặc cảm khống chế, tôi không còn mở mắt, để nhìn. Không còn mở tai, để lắng nghe. Không còn mở rộng lòng, để học tập, đón nhận và tiếp thu những tin tức mới lạ trong cuộc đời. Cơ hồ một kẻ mê muội và mù quáng, tôi chỉ phản ứng, nghĩa là nhai đi nhai lại những sơ đồ tâm lý thô thiển và giản lược, đã có sẵn trong tâm tư từ bao nhiêu đời. Đó cũng là những tập tục xúc động xa xưa, cỗ đại, đã lỗi thời, lạc hậu, không còn thích ứng với những tình huống của hiện tại. Thế nhưng, chúng nó vẫn còn bám trụ trong những tầng sâu của nội tâm, ngày ngày tiếp tục lèo lái, điều khiển, chỉ đạo toàn diện cuộc đời hôm nay của tôi, trong những lãnh vực nhận thức, tư duy, quan hệ, và giao tiếp.

 

 

2.1.  Những sơ đồ nội tâm

 

Nhằm trình bày một cách cụ thể thế nào là sơ đồ tâm lý, tôi xin liệt kê một số cơ chế hoạt động, thường xuyên có mặt và được vận dụng, mỗi lần chúng ta nhận thức về thực tại khách quan bên ngoài :

         

Thứ nhất là sàng lọc hay là chủ quan hóa, có nghĩa là giữ lại những tin tức thích hợp với chờ đợi của mình, và loại bỏ bao nhiêu sự kiện khách quan khác cùng có mặt.

          

Thứ hai là tổng quát hóa quá khích : sự kiện chỉ xảy ra một lần, đã được ghi nhận như một qui luật tất yếu, thường hằng.

           

Thứ ba là phỏng đoán : giải thích một cách tùy tiện,  thể theo những tâm trạng và tâm tình hiện tại của mình, thay vì dựa vào những sự kiện khách quan để rút ra những kết luận.

          

Thứ bốn là kết luận vội vã : rút tỉa những lời khẳng định, từ vài ba tin tức, trước khi kiểm chứng tính khách quan và đáng tin tưởng của những dữ kiện ấy.

         

Thứ năm là cường điệu : thổi phòng, phóng đại ý nghĩa của một vài tin tức, và không đánh giá đúng tầm những kết quả toàn diện của vấn đề. Theo lối nói bình dân, đó là xu thế « có bé, xé ra to ».

 

Thông thường, mỗi lần nhận thức về một vấn đề, tất cả chúng ta, không trừ sót một ai, đều sử dụng những cơ chế tâm lý trên đây. Tuy nhiên, những ai sống trong ánh sáng của ý thức và làm chủ bản thân mình, luôn luôn sẵn sàng « xét lại » và điều chỉnh cách hành xử của mình, khi phải đối diện với những ý kiến khác biệt của những người hai bên cạnh,  nhất là những ai có lập trường hoàn toàn đối kháng với chúng ta. Có khả năng tư duy linh động, đầy sáng tạo là những người có thể quay trở lui, chấp nhận nhìn lại mình, với ánh sáng của những người khác đang có mặt trong nhiều môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Trái lại, khi chúng ta bị mặc cảm khống chế, một trong năm lề lối nhận thức trên đây trở thành con đường độc lộ, một chiều. Chúng ta bám trụ, đóng chốt, giam hãm mình trong một lối nhìn khô cằn, vô hiệu, đang xuyên tạc và bóp méo thực tại. Đó là những sơ đồ tâm lý điều khiển, lèo lái những đường đi nẻo về hằng ngày của chúng ta. Chúng ta biến mình làm con tin, hay là « nạn nhân tự nguyện », thay vì sáng tạo bản thân và cuộc đời. Chúng ta vòng vo, luẩn quẩn, nhai đi nhai lại «  những điều xưa bày nay làm ». Chúng ta ngụp lặn trong khổ đau, héo mòn, tê liệt… nhưng không biết thoát ra ngoài bằng cách nào. Thực ra, ngục tù không phải ở ngoài, bao quanh chúng ta, do kẻ khác áp đặt. Ngục tù đang có mặt ở giữa nội tâm, trong chính lối nhìn của con người mang nặng mặc cảm.

 

2.2. Những tập tục xúc động

 

Thông thường,  mỗi xúc động, bắt nguồn từ lối nhìn và được cảm nghiệm trong nội tâm. Những ai sáng suốt, sống trong ánh sáng của ý thức và có khả năng làm chủ bản thân, sẽ tìm cách bộc lộ, diễn tả mình một cách bình tâm, thể theo một tiến trình bao gồm bốn bước đi lên:

 

·  Bước thứ nhất là xác định những điều kiện khách  quan  của môi trường sinh sống hiện tại.

·   Bước thứ hai là gọi tên xúc động đang xuất hiện.

·   Bước thứ ba là phát hiện và diễn tả nhu cầu đang ẩn núp ở đằng sau mỗi xúc động.

·   Bước thứ bốn là tìm cách thỏa mãn hay là yêu cầu kẻ khác giúp mình thỏa mãn những nhu cầu chính đáng ấy. Khi gặp trở ngại, ở nơi nầy, với người nầy, tôi linh động đi tìm những điều kiện thuận lợi, ở nơi khác, với người khác, cho  đến khi nào được toại nguyện.

Thay vì sáng tạo và làm chủ vận mệnh của mình như vậy, những ai đang bị mặc cảm khống chế, sẽ có xu thế trở lui với những tập tục quen thuộc mà họ đã học tập, đắc thủ, trong những giai đoạn xa xưa, từ những tháng ngày thơ ấu, chung quanh 2 hoặc 3 năm cho đến 6 tuổi. Những tập tục xúc động nầy là những thể thức giải quyết vấn đề nhu cầu, có giá trị và hiệu năng cho một đưa bé chưa biết suy luận. Nhưng đối với những người đã bước vào tuổi trưởng thành, những tập tục xúc động nầy đã lỗi thời, lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện sinh sống hiện tại.

 

Vì lý do sư phạm, trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, tôi chỉ trình bày một cách vắn gọn, mười tập tục xúc động chính yếu. Trong thực tế của cuộc sống làm người, những tập tục nầy giao thoa chằng chịt, kết dệt vào nhau, chồng chéo lên nhau, ảnh hưởng qua lại hai chiều.

          

Thứ nhất, tôi cảm thấy bị bỏ rơi một mình, trong lòng cuộc đời. Không ai có mặt với tôi, bên cạnh tôi, thậm chí mẹ tôi. Cho nên, tôi lo ngại, sợ hãi.

           

Thứ hai, tôi cảm thấy thiếu tình thương, không ai lắng nghe, lại gần. Tôi có những nhu cầu, tôi đói, tôi khát… Không có ai lưu tâm đến tôi. Cho nên, tôi bức tức, giận hờn, thét gào, buồn khổ, thất vọng. Rốt cuộc, tôi trầm mình trong lãnh đạm, khép kín mình, từ chối tiếp xúc.

          

Thứ ba, tôi cảm thấy không có giá trị. Tôi không có tiếng nói. Tôi không có quyền phát biểu ý kiến riêng tư của mình. Cho nên, bề ngoài, tôi câm nín. Nhưng trong đáy sâu tâm hồn, tôi oán hận, phản loạn.

 

Thứ bốn, tôi cảm thấy bị hà hiếp, lạm dụng. Cho nên, tôi nghi kỵ mọi người. Tôi không thể tin tưởng vào một ai. Tôi muốn đập phá, hủy hoại tất cả và xách gói ra đi, biệt tăm biệt tích.

Thứ năm, tôi cảm thấy xấu xí, dễ ghét, bị coi thường, khinh thị và bạc đãi. Nói khác đi, tôi cảm thấy mình chỉ là phế liệu, trước con mắt mọi người. Cho nên, tôi xa lánh mọi người. Hay là, theo luật bù trừ, tôi có những hành vi ngang tàng, bướng bĩnh, lập dị. Tôi tỏ thái độ bất cần, trước nhận xét của người khác, trong đó có những người thương tôi, muốn xây dựng, đóng góp cho tôi.

          

Thứ sáu, tôi cảm thấy bị loại trừ. Bạn bè không cho phép tôi nhập vào hàng ngũ, cùng chơi đùa với họ. Cho nên, tôi cảm thấy mình cô đơn, lạc lỏng. Tôi chỉ là con vịt giữa bầy gà. Không ai giống như tôi. Cuộc sống thật cô đơn, hãi hùng, buồn chán

         

Thứ bảy, tôi cảm thấy bị đe dọa. Giữa đấu trường của cuộc đời đầy hiểm nguy và cạm bẫy, không một ai bênh đỡ tôi. Cho nên, tôi run sợ, lo âu. Tôi cảm thấy bất ổn, trong mọi nơi, với mọi người.

         

Thứ tám, tôi cảm thấy vụng về, thất bại. Cha mẹ tôi thường trách mắng : mày đụng vào đâu, là hư hại ở đó. Cho nên, bây giờ, tôi không dám mạo hiểm. Sở dĩ tôi thành tựu được một đôi việc, là do tình cờ may rủi mà thôi.

         

Thứ chín, tôi cảm thấy băn khoăn, lo ngại, cầu toàn. Tôi không bao giờ thấy mình thành đạt một cách mỹ mãn, trong bất cứ công việc gì. Kết quả cụ thể không mang lại niềm vui, vì tôi luôn luôn thấy mình « chưa đạt », thất bại, ở dưới trung bình. Khuyết điểm còn có mặt khắp nơi. Khi quét nhà, thế nào tôi cũng tìm thấy rác trong mọi xó xỉn.

           

Thứ mười, tôi cảm thấy mình ngoại lệ, xuất chúng. Cho nên, tôi không tuân thủ những qui luật và những giới hạn bình thường, giống như mọi người. Vì quá đề cao và chú trọng những điểm khác biệt trong con người, tôi bỏ quên những đồng điểm, đang nối kết tôi lại với người khác. Khi cho phép mình sống ngoại lệ, khác người, tôi không ý thức rằng : tôi thuộc loại người « phạm pháp, vô kỹ luật », có xu thế thống trị và đàn áp người anh chị em. Những xung năng rừng rú, man dại của tôi không được giáo hóa, để chấp nhận những khuôn khổ tất yếu của cuộc sống làm người.

 

 

2.3. Yếu tố dẫn khởi

 

Tất cả những sơ đồ tâm lý và những tập tục xúc động, như tôi đã nhấn mạnh trong các phần vừa qua, đã xuất hiện và thành hình, trong cuộc đời của một đứa bé, trước 6 tuổi. Vào giai đoạn tăng trưởng và phát triển nầy, khả năng suy luận chưa có mặt. Tuy dù  đã xuất hiện, ngôn ngữ chưa phải là phương tiện tinh nhụê, thuần thục, cho phép trẻ em bộc lộ nội tâm, diễn tả những xúc động và ý thức về những nhu cầu của mình. Trong lãnh vực nhận thức, trẻ em cũng chưa thể phân biệt một cách rõ ràng, rành mạch, thực tại khách quan bên ngoài và những tâm tình, tâm trạng bên trong nội tâm. Nói theo ngôn ngữ của Phân Tâm học, trẻ em đang còn sống trong chế độ vô thức. Do đó, trẻ em chỉ phản ứng một cách máy móc, tự động, khi cảm nghiệm một cách mơ hồ một nhu cầu thể lý như  đói và khát… khi ghi nhận một kích thích trên làn da, thớ thịt của mình, như nhiệt độ nóng lạnh, ánh sáng chói chang, sự có mặt hay vắng mặt của mẹ.

Những cảm nghiệm bên trong hay là những kích thích bên ngoài, vào giai đoạn nầy, đều là những yếu tố dẫn khởi (Trigger trong tiếng Anh, hay là déclencheur trong tiếng Pháp, không thể lẫn lộn và đồng hóa với Cause có nghĩa là nguyên nhân phát sinh và tạo ra kết quả). Đó chỉ là  những điều kiện, những cơ hội, có phần vụ gợi ý, để trẻ em bộc lộ những phản ứng xúc động của mình. Cứ mỗi lần yếu tố dẫn khởi có mặt, là bấy nhiêu lần trẻ em có phản ứng xúc động. Ngày này qua ngày khác, được lặp đi lặp lại nhiều lần, phản ứng sẽ trở thành một tập tục ổn định, kiên cố. Yếu tố dẫn khởi được so sánh như một nút bấm hay là một loại « công tắc » điện. Công tắc được bấm lên, thì ánh sáng xuất hiện. Con người bị mặc cảm khống chế, cũng có xu thế phản ứng giống y hệt như vậy. Khi có một yếu tốâ dẫn khởi tương tự như trước đây,  tái xuất hiện trong môi trường sinh hoạt hiện tại, hay là trong các quan hệ tiếp xúc, thì người ấy phục hoạt, làm sống lại một cách tự động toàn bộ tập tục xúc động của mình, giống như trong tuổi thời thơ ấu. Cơ hồ, khi « rút một chiếc giây leo», chúng ta « làm chuyển động cả một khu rừng già». Yếu tố dẫn khởi có thể là một nhận xét vẩn vơ, một giọng nói, một liếc nhìn, một tà áo…có khả năng gọi trở về toàn bộ những kinh nghiệm xúc động u tối, ảm đạm, nhức nhối và thương đau, thuộc quá khứ.

 

3.- Phương thức  hóa giải

 

Hóa giải, theo lối nhìn của Phân Tâm Học, không có nghĩa là diệt trừ, tiêu hủy hay là làm tan biến. Với tinh thần BẤT NHỊ và bất bạo động, tôi chấp nhận, nhìn nhận và đón nhận tất cả những gì đang có mặt, trong hành trang của bản thân và cuộc đời. Hiện tại, Tự Ngã còn rừng rú, man rợ. Nhưng đó là nguồn nguyên liệu quí hóa. Siêu Ngã đang khắt khe và hạn chế, cơ hồ nhiều con đường « đầy ổ gà », đó đây trên Quê hương. Nhưng chính tôi cố quyết ra tay kiến dựng những con đường mới, nối lại những chiếc cầu gãy đổ.

 

Nhìn nhận như vậy không có nghĩa là chịu đựng, buông xuôi, đầu hàng, bất động,  “nhắm mắt đưa chân, để xem Con Tạo xoay vần nơi nao ». Trong lòng cuộc đời, chúng ta là người luyện vàng, có khả năng chuyển biến đồng, chì, săùt thép… và bao nhiêu quặng sản khác thành vàng nguyên chất. Và để có khả năng luyện vàng như vậy, chúng ta phải HỌC. Phải HỎI. Phải tay làm hàm nhai. Phải đổ mồ hôi sôi nước mắt. Phải bắt tay vào làm. Không ngồi đợi, một cách vớ vẩn, quả sung từ trời rơi xuống trong miệng của mình. Phép lạ ở trong lòng cuộc đời. Phép lạ có mặt trong những khó khăn mà chúng ta đang gặp, trên từng bước đi, từ ngày vào đời. Thay vì ngồi ù lì, bất động, phàn nàn, chưởi bới, chúng ta hãy THẤY : Nếu chưa có một ngàn, chúng ta đang có một trăm. Nếu chưa có một trăm, ít nhất chúng ta đang có mười. Nếu mười chưa có, phải chăng chúng ta đang có một ? Thậm chí một cũng thiếu vắng, lúc bấy giờ, chúng ta vẫn còn có thể làm bùn đất, để vun bón một giây khoai, một củ chuối…Đối với một con người cần cù, lam lũ, Phép lạ luôn luôn  có mặt trong bàn tay của mình.

 

Hởi người Em, mà tôi đã đặt tên là Lý Minh Nguyệt trên đây, có nghĩa là Mặt Trăng Sáng. Em đang sợ, sợ đến độ tê liệt như một đứa bé chung quanh tuổi đời 8-9 tháng. Em đang muốn bám chặt tà áo của mẹ, và không chịu đựng được tình huống xa rời mẹ…cho phép mẹ đi chợ, đi thăm ruộng đồng… Em hãy lắng nghe lời ca dao :

 

          «   Ra đi, biết đó, biết đây.

          «  Ở nhà với Mẹ, biết ngày nào khôn ? »

 

Với tuổi đời 69, tôi cũng « khóc nhè » như trẻ thơ, mỗi lần xa quê hương, xa mẹ. Xa anh chị em bạn bè. Xa khóm lau, bụi chuối, xa khu vườn trồng rau của mẹ. Xa bờ ao mà ngày trước, tôi thường ra ngồi câu cá, để đợi mẹ đi chợ trở về. Có người đã chê cười, gắn cho tôi nhiều nhản hiệu như :« ấu trĩ, bệnh hoạn, tâm thần… ». Tôi đã ngã bệnh, thoái hóa, tê liệt, kiệt quệ trong một thời gian. Nhưng, như tôi đã nói trước đây, phép lạ có mặt trong mỗi người, mỗi cuộc sống. Tôi đã vùng chỗi dậy. Và tôi đã nghĩ đến thân phận mong manh, yếu mềm  của những đứa em, giống  như tôi. Cho nên, tôi đã nghiên cứu, học hỏi… Kết quả là tôi đả khám phá được kỹ thuật đồng cảm và ý thức hóa những xúc động, bằng cách  từng bước kinh qua bốn giai đoạn vươn tới.

 

Hôm nay, sau khi trình bày nỗi lo sợ làn tràn, lây lất… đang khống chế nội tâm của em, em hỏi tôi : cần làm gì, để thoát ra ngoài vòng vây hãm độc hại ấy. Tôi xin cám ơn Em, về lòng tin tưởng và những lời tâm sự ấy. Câu trả lời của tôi : Phép lạ ở trong em. Em hãy « làm phép lạ » cho mình và cho người. Tự khắc, phép lạ sẽ đâm chồi, nảy lộc, kết sinh hoa trái. Em không làm phép lạ, thì không có một ai trên Trời, dưới Đất có thể làm phép lạ, thay thế cho Em.

 

Làm phép lạ là biến bệnh hoạn, mặc cảm… thành sức sống tràn đầy và vươn lên.

-   Mặc cảm, như bây giờ em đã biết, xảy ra khi Siêu Ngã áp chế cho chúng ta những tư duy độc lộ, ép buộc chúng ta  nhắm mắt đi theo những con đường MỘT CHIỀU.

-   Mặc cảm là tai họa, gông cùm… khi xung năng đảo lộn mọi qui luật và thứ tự tất yếu của cuộc đời.

-   Khi mặc cảm trấn ngự bản thân, chúng ta bơ vơ, lạc lỏng, không biết mình là ai. Nhu cầu cơ bản của tôi là gì ? Nhu cầu của người khác bị tôi khinh thị và đàn áp…

 

Sinh lực và năng động,  trái lại, là hoa trái, mùa màng, khi chúng ta thực thi những động tác cụ thể như sau :

 

Chủ động trở thành một Siêu Ngã có khả năng soi sáng và hướng dẫn người khác, nhất là trẻ em và giới trẻ, trong môi trường gia đình và xã hội. Thay vì làm Siêu Ngã độc tài và đàn áp những sức sống hồn nhiên, yêu đời. Hay là tạo bầu khí ngột ngạt, đầy tố cáo, phê phán, xung đột và hận thù trong mọi quan hệ trao đổi giữa người với người.

Cho phép trẻ em và giới trẻ phát biểu ý kiến của mình.

 

Dạy cho trẻ em và giới trẻ diễn tả xúc động và ý nguyện của mình một cách cởi mở, bình tĩnh, lịch sự và an toàn.

 

Đồng cảm, nghĩa là lắng nghe, tìm hiểu, đón nhận và nhìn nhận những khó khăn, vấn đề và nỗi lòng ấm ức của người đối diện.

 

Tạo những điều kiện thuận lợi, thuộc mức độ thực tế của mình, để kẻ khác có cơ may thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ.

 

Khi chúng ta có khả năng CHO như vậy, tự khắc chúng ta sẽ NHẬN lại một quà tặng cao quí : Trở thành NGƯỜI. Khi chúng ta giúp kẻ khác hóa giải những mặc cảm đang khống chế nội tâm và làm băng hoại cuộc đời của họ, mặc cảm không còn là trở ngại. Mặc cảm đã trở nên cho chúng ta một bài học, một kinh nghiệm. Nhờ đó,  chúng ta biết đồng cảm với những người đang khổ đau, trong cuộc đời. Không can trường đi vào vùng bão tố, làm sao chúng ta tìm ra cho mình và cho người khác, con đường đi ra khỏi bão tố ?

 

 

Nguyễn Văn Thành
Số lần đọc: 1789
Ngày đăng: 16.10.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Con Đường Bao Dung - Trong văn hóa và huyền sử Việt Nam 2 - Nguyễn Văn Thành
Con Đường Bao Dung - Trong văn hóa và huyền sử Việt Nam 1 - Nguyễn Văn Thành
Mạc Vị Xuân Tàn Hoa Lạc Tận Đình Tiền Tạc Dạ Nhất Chi Mai. - Nguyễn Cẩm Xuyên
Huyền sử 8 – hết - Nguyễn Văn Thành
Truy Tìm Gốc Tích Đôi Câu Đối Thiền Tông - Nguyễn Cẩm Xuyên
Huyền sử 7 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 6 - Nguyễn Văn Thành
Núi Vọng Phu; Những Thiếu Phụ Chờ Chồng Muôn Kiếp - Nguyễn Cẩm Xuyên
Huyền sử 5 - Nguyễn Văn Thành
Huyền sử 4 - Nguyễn Văn Thành