Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
893
116.666.006
 
Ký ức làng Cùa
Đặng Văn Sinh
Chương 17

Chương mười bảy

 

1

 

Rừng A Cheo vào mùa này không hiếm nước nhưng phần lớn nữ thanh niên xung phong C9 thích đi hơn ba cây số đến suối Đắc May tắm, là vì nước ở đây rất trong, có những chỗ kín đáo, phù hợp với đặc điểm giới tính. Các bệnh nhân mắc chứng phá nước thi nhau gãi chỗ kín mà không sợ cặp mắt gian giảo của bọn đàn ông xăm xoi. Chị em còn cởi tuốt tuột quần áo, búi gọn tóc như một bầy tiên nga giáng trần thả sức nô giỡn trong một khung cảnh thiên nhiên lãng đãng như chốn Bồng Lai. Đó là những cô gái nông thôn đồng bằng Bắc bộ, tuổi mười tám đôi mươi, nghe theo tiếng gọi của Đảng, háo hức vào Trường Sơn, làm nhiệm vụ cao cả của dân tộc là chống Mỹ cứu nước. Công việc của họ rất tạp nham nhưng chủ yếu là mở đường, đảm bảo giao thông, lấp hố bom và gùi hàng. Rừng Trường Sơn hoang sơ, hùng vĩ và đầy bí ẩn. Sau này, khi đã ra khỏi cuộc chiến tranh hai mươi năm, người ta mới hiểu được rằng, ngoài những thứ vinh quang có được bằng xương máu, đội quân trẻ tuổi cầm cuốc xẻng này còn ấp ủ trong lòng một niềm tin thần thánh về viễn cảnh tương lai mà không hiểu rằng, thời gian là cỗ máy khổng lồ huỷ diệt những ước mơ hão huyền và làm bạc đầu rất nhanh những kẻ có tâm trạng hoài cổ.

 

Thật ra mà nói, hiếm hoi lắm mới có những ngày  lắng tiếng bom để các cô rủ nhau đi tắm tập thể. Thời gian của thanh niên xung phong không tính được bằng những loại lịch thông thường. Nó vừa là thời gian vật lý, lại vừa là thời gian tâm lý. Tất cả mọi hoạt động đều được đo đếm bằng những thiết bị đặc biệt mà cái động lực cho nó vận hành chính là chiến tranh.

 

C9 nằm trong khu rừng nguyên sinh phần lớn là loại cây săng lẻ và sao dầu. Lúc đầu đơn vị được biên chế một trăm hai mươi tám người, gồm một trăm lẻ hai nữ và hai mươi sáu nam do Chu Quang Sầm làm xê trưởng. Thời kỳ mới tập kết, anh chị em ở theo đơn vị trung đội trong những chiếc lán lợp cỏ gianh hoặc lá móc rừng. Sang nămthứ hai, máy bay Mỹ phát hiện được ngầm chữ A, thường xuyên ném bom toạ độ nên tất cả đều chuyển xuống hầm. Đủ các loại hầm. Hầm chỉ huy. Hầm sinh hoạt tập thể. Hầm bếp và hầm ngủ. Hầm ngủ chỉ rộng đủ cho hai người, cùng lắm là ba. Trần lót bằng những đoạn cây cỡ bắp đùi, bên trên đắp lớp đất dày hơn một mét.

 

Ngủ hầm vài tháng thì da mặt phần lớn các “tiên nga” chuyển sang màu xanh nhợt. ấy là dấu hiệu của thời tiết khắc nghiệt và bệnh sốt rét. Chưa đầy nửa năm, một số chị em đã rụng tóc, đầu chỉ còn lưa thưa vài sợi, phải đội khăn suốt ngày. Khổ nhất là những cô tuổi chưa quá hăm bốn hăm nhăm mà lại tự nhiên tắt kinh, ngực xẹp lép như con cá rô đực, suốt ngày mặt ủ mày chau, thở dài thườn thượt.

 

Chu Quang Sầm, ba mươi hai, cũng dân vùng Ba Tổng, vốn là trợ lý tiểu đoàn hậu cần được trung đoàn cử sang phụ trách đại đội thanh niên xung phong. Ông thân sinh ra Sầm là người kẻ Sộp, đến ngụ cư làng Quao, bị cánh hương lý chèn ép bắt làm mõ, mãi đến năm Quý Tỵ mới được giải nghệ vì mắc bệnh tràng nhạc, được hơn một năm thì mất. Một đêm Sầm bơi qua sông Lăng đến rừng Lạc Lâm xin vào làm bộ đội 974 là lực lượng địa phương quân của tỉnh lúc bấy giờ. Năm năm tư anh ta về làng Quao. Cô em gái làm mối cho anh trai một nữ cốt cán tên là Luyến. Hai người cưới nhau theo nghi thức đời sống mới. Rạp dựng tại sân đình do đội Khế làm chủ hôn. Đám thanh niên say sưa nhảy “xon mì” chẳng cần để ý đến nhịp, dẫm cả vào chân nhau kêu chí choé. Nhiều cô cậu mệt phờ, toát mồ hôi hột, ra bể nước mưa uống ừng ực. Trong lúc đám cưới cử hành có một thủ tục bắt buộc cô dâu chủ rể phải bắt tay nhau. Cô Luyến giả bộ e thẹn không dám nhìn thẳng vào chồng. Mấy hôm sau anh ta mới cay đắng nhận ra , mắt của vợ có một vết nhài quạt.

 

Người dong dỏng cao, ngực nở, lông mày rậm đen nhánh, tóc dài, nếu không có chút khiếm khuyết về mắt, chắc chắn Luyến là người phụ nữ hoàn hảo  nhất làng Quao. Hình như được thừa hưởng ở mẹ tính đồng bóng, cô ta đầu mày cuối mắt với hết lượt cán bộ Cải cách, làm khối anh chết mệt, thề thốt hứa hẹn hươu vượn đủ điều, nhưng hầu như rất ít chàng si tình chạm được vào người đẹp. Duy chỉ có đội Khế. Một lần anh ta ngồi sau Luyến trong đêm chiếu bóng ở trường bắn đồng Cò. Đó là một bộ phim của điện ảnh Xô viết, có cảnh anh lính Hồng quân hôn môi cô nông trang viên mà người phụ trách máy chưa kịp đưa tay che ống kính. Thế là đội Khế luồn tay vào trong yếm cô cốt cán mân mê đôi oản bụt. Luyến oằn người như có dòng điện lan nhanh khắp cơ thể, định đẩy ra nhưng không hiểu sao lại để yên.

 

Bàn tay dạn dĩ kia trơn như con rắn, tưởng bở, vừa luồn xuống dưới, chạm vào cạp quần thì bị ngay một cái tát, dù là không đau nhưng hẳn là phải nhớ đời. Tuy nhiên, Khế không biết ngượng là gì. Hôm sau gặp cô cốt cán trong cuộc họp bình xét thành phần, anh ta vẫn thản nhiên cười nói xem như tối hôm qua chẳng có chuyện gì xảy ra.

 

Đêm đầu tiên, dù rất đau nhưng Luyến vẫn làm cho Chu Quang Sầm phát khiếp. Người mệt phờ, vừa thiu thiu ngủ anh đã bị vợ cấu vào sườn bắt làm phận sự của người chồng. Khoảng một tuần sau, còn nhớ, lúc ấy đã quá nửa đêm, Sầm đi soi ếch về, buồn ngủ, ngáp ngắn ngáp dài nhưng Luyến vấn thức chờ. Anh chồng vừa lên giường, cô vợ đã cởi quần áo ôm riết lấy chồng, thì thầm:

- Nào!

-Tôi buồn ngủ lắm.

Luyến sụt sịt khóc:

- Mấy hôm nữa phải đi rồi, anh không thương em sao?

Cực chẳng đã, Sầm phải chiều cô ta. Anh ta ì ạch leo nên bụng vợ bỗng cảm thấy toàn thân nhẹ bẫng, trong lòng không còn cảm giác ham muốn gì, vì cái công cụ dùng để thực thi nghĩa vụ truyền giống lúc này đã hoàn toàn bất lực. Đêm ấy và cả mấy đêm sau nữa trước khi Sầm trở về quân ngũ cả hai vợ chồng đều khóc. Tiếng khóc của họ nghe rất lạ tai không giống bất cứ nỗi uất ức nào trên đời.

 

Mắc chứng bất lực nên mấy năm liền Chu Quang Sầm không về thăm vợ. Anh ta viết thư về khuyên Luyến đi lấy chồng khác để khỏi lỡ một đời con gái. Luyến chần chừ mãi , cố ý chờ xem Sầm có chữa khỏi bệnh không, nhưng rồi một lần anh ta gửi đơn ly hôn về. Năm sau cô ta lấy đội Khế, lúc ấy đang làm phó phòng tổ chức huyện. Vợ trước của Khế vừa già vừa xấu, một sáng thức dậy đã thấy chết cứng trên giường, người ta nghi Khế là thủ phạm, nhưng không tìm được chứng cứ. Sau những đổ vỡ trong gia đình, Chu Quang Sầm trở thành con người sắt đá.

 

Anh ta đối xử  với đồng đội vô cùng nghiệt ngã nhất là trong quan hệ nam nữ. Hễ nhìn thấy cô cậu nào có biểu hiện tình ý với nhau là đại đội trưởng gọi lên nhắc nhở, nếu tái phạm sẽ xử lý kỷ luật. Thuỳ Dung, quê Thuỵ Anh Thái Bình, đang học dở lớp chín thì viết đơn đi thanh niên xung phong, dáng người như diễn viên múa, mắt lúng liếng sống rất mơ mộng. Một lần Dung đi hái măng trong rừng Bầu Sao bắt gặp anh chàng” nghệ sĩ” Dóp đang tha thẩn dọc bờ suối tìm vần điệu cho bài thơ “Đêm lấp hố bom” ca ngợi vẻ đẹp của thanh niên xung phong Trường Sơn. Chủ nhật, đơn vị nghỉ nửa buổi. Phần lớn đội viên tranh thủ tắm giặt, chỉ có những kẻ lãng mạn và lười như hủi mới rủ nhau vào rừng, mà đã là lãng mạn thì tâm hồn bay bổng trên chín tầng mây, chẳng cần nghĩ đến quần áo sạch hay bẩn, người tắm từ hôm nào.  Dóp vừa đi vừa lẩm bẩm:

 

Sao trời rơi xuống cung đường

Đêm A Cheo nghiêng ngả.

Rừng Trường Sơn lung linh ngàn mắt lá...

 

Anh ta chưa đọc được câu kết thì Thuỳ Dung đột ngột xuất hiện nói rất ngọt:

- Anh làm thơ hay quá.

Dóp giật mình, dòng suy nghĩ bị gián đoạn nhìn cô gái ngập ngừng:

-  Thơ con cóc  ấy mà, em nghe làm gì.

-  Ứ ! Em thích thơ lắm, lúc nào phải chép cho em mấy bài.

Nói rồi Thuỳ Dung bước đến gần đặt hai tay lên vai Dóp chìa môi ra, thì thầm :

- Hôn em đi !

Nhà thơ nghiệp dư bỗng nhiên rơi vào tình thế khó xử trước hành động táo bạo của cô thanh niên xung phong đâm lúng túng:

- Tôi... Tôi không biết ...

 

Thuỳ Dung càng được thể, rướn người áp vào môi Dóp. Nhà thơ như chợt tỉnh giấc mơ tiếp nhận tình cảm hoàn toàn theo bản năng, ghì chặt cô gái vào ngực một cách tự nhiên. Một cái hôn dài vô cùng đắm đuối làm cơ thể hai người như tan ra hoà vào nhau chẳng còn biết trời đất gì nữa. Đó cũng là lần đầu tiên Dóp được biết da thịt đàn bà. Tuy nhiên cuộc dạo chơi của hai người không qua được mắt cô Thuyên lúc ấy cũng đang lảng vảng trong rừng. Thuyên người tròn như  hạt mít, tính hay thóc mách, là thám tử số một của đại đội trưởng. Nhìn thấy sự lạ bên bờ suối, cô ta nghĩ trời sắp sập vội chạy về báo ngay cho Chu Quang Sầm. Tối hôm ấy, đại đội trưởng gọi Dóp và Thuỳ Dung vào hầm viết kiểm điểm. sau nửa giờ, tờ giấy xé từ quyển vở kẻ ô ly để trên chiếc bàn tre  vẫn không có một dòng chữ. Sầm không ngờ đôi trai gái lại ngoan cố đến như vậy, bắt đầu lên giọng quở trách:

- Các đồng chí có biết mình vừa phạm khuyết điểm về mặt đạo đức không?

 

Thuỳ Dung vốn có thừa kinh nghiệm trong những tình huống như thế này nên ứng đối rất trôi chảy:

-Thưa Ban chỉ huy, lúc chiều tôi đi hái măng, tình cờ gặp đồng chí Dóp ở bờ suối, đứng lại nói chuyện mấy câu chẳng lẽ như vậy là phạm khuyết điểm sao?

Dóp hiểu được tình thế lúc này, tốt nhất là phải chối biến, liền tiếp lời cô bạn:

- Đồng chí Dung nói đúng. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp nhau, quan hệ bình thường, chẳng có gì khuất tất mà phải làm kiểm điểm.

Chu Quang Sầm đập tay xuống bàn:

- Rõ ràng có người nhìn thấy hai đồng chí ôm hôn nhau về báo với tôi thế mà còn cố tình cãi. Tinh thần đấu tranh phê và tự phê để đâu rồi?

 

Thuỳ Dung cười nhạt:

- Anh chị em thanh niên xung phong có phải tội phạm đâu mà phải cử người theo dõi. Tôi đề nghị đưa họ ra đây để xem kẻ giấu mặt ấy là ai mà dám cả gan vu khống, xúc phạm đến danh dự đồng đội.

Đại đội trưởng nghiêm mặt:

- Cô Dung nói năng phải cẩn thận. Cô định ám chỉ ai đấy hả? các đồng chí nên nhớ, lúc này nhiệm vụ hàng đầu là thông đường, thông tuyến, đảm bảo xe qua an toàn, góp phần vào công cuộc chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trước mắt còn nhiều khó khăn, phải tạm quên đi hạnh phúc cá nhân, hy sinh tình cảm riêng tư vì nghĩa lớn của dân tộc. Đó mới là thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Các đồng chí thử nghĩ xem, ở đơn vị ta, nếu mọi người đều sống buông thả, luyến ái tự do, chẳng may phĩnh bụng ra thì ăn nói thế nào với cấp trên và gia đình? Tôi nhắc lại, đây là rừng Trường Sơn chứ không phải buồng hạnh phúc. anh chị nào léng phéng với nhau, tổ chức biết sẽ phải khai trừ Đoàn, đuổi khỏi đơn vị, gửi giấy về địa phương.

 

Dứt mạch diễn thuyết về luyến ái quan cách mạng và tinh thần ba sẵn sàng của thanh niên xung phong, Chu Quang Sầm bất ngờ quay về chủ đề cũ :

- Hai đồng chí nghĩ kỹ lời của tôi rồi viết kiểm điểm, chiều mai mang nộp, nếu không Ban chỉ huy buộc phải xử lý kỷ luật.

Trên đường về hầm, Dóp bảo Thuỳ Dung:

- Tình hình này là phải nhận... khuyết điểm rồi.

- Sợ gì. Anh đừng có mắc lừa hắn. Em đã có cách.

Quả nhiên, tối thứ bẩy, trong buổi sinh hoạt thường kỳ, Chu Quang Sầm đưa sự kiện nhà thơ Dóp và nữ đội viên Thuỳ Dung ôm hôn nhau trong rừng Bầu Sao sau khi đã hội ý chi uỷ và ban chấp hành Đoàn. Lê Văn Nghiên lúc ấy đã ba mươi hai, quá tuổi nhưng cũng được mời họp với tư cách A trưởng phụ trách tổ mìn. Mở đầu, bí thư Hoàng Thị Chăm, một cô gái có thân hình lực sỹ quê vùng chiêm trũng Hà Nam, chân tay thô ráp, đứng lên nêu lý do cuộc họp.

 

Sự việc được đưa cô ta trình bày lộn xộn bằng một mớ từ vựng ít ỏi lại thiếu chính xác, làm cho chị em ngớ người ra, chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào, đến nỗi đại đội trưởng phải gắt lên:

- Đề nghị đồng chí trình bày ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề.

- Báo cáo các đồng chí, tình hình là thế này. Chiều hôm chủ nhật có người nhìn thấy anh Dóp và cô Dung hôn nhau trong rừng. Ban chỉ huy yêu cầu làm kiểm điểm nhưng họ vẫn cố tình chối cãi, nhất là cô Dung còn có những lời vô tổ chức, vì vậy, chúng tôi buộc phải đưa ra trước tập thể để các đội viên góp ý giúp đỡ.

 

Nhà thơ Dóp có vẻ ngượng, cúi đầu suy nghĩ còn cô Dung mặt vênh vênh, giơ tay rất cao nói to:

-Tôi xin có ý kiến.

Chu Quang Sầm chặn ngang:

-Cô Dung chưa được nói để chị em góp ý kiến trước đã.

-Việc này có liên quan đến tôi , vì vậy đề nghị đồng chí xê trưởng cho biết, ai đã nhìn thấy chúng tôi hôn nhau, sau đó hãy bàn chuyện tiếp theo.

"Lúc này buộc phải đi con bài cuối cùng, nếu không sẽ mất hết uy tín của Ban chỉ huy” – Chu Quang Sầm vừa nghĩ vừa liếc mắt  về phía Thuyên “Hạt mít”. Cô này hơi lắc đầu nhưng rốt cuộc cũng phải đứng lên gỡ thế bí cho đại đội trưởng:

- Chính mắt tôi nhìn thấy đồng chí Dóp và đồng chí Dung hôn nhau trong rừng.

 

Cô Trâm người Việt Trì, chẳng thân thiết gì với Thuỳ Dung nhưng từ lâu, vốn ghét “Hạt mít” hay xét nét chị em tâng công thủ trưởng liền đứng dậy chẳng cần xin phép:

- Đồng chí Thuyên cho biết hai người hôn nhau như thế nào?

Bên dưới lác đác có vài tiếng khúc khích bị nén lại nhưng rồi gần như không nhịn được nữa, tất cả chị em đều cười phá lên làm Hoàng Thị Chăm phải quát :

- Đề nghị trật tự !

- Đồng chí xê trưởng thấy đấy.- Trâm “Cao kều” đưa mắt nhìn khắp lượt các đội viên rồi thong thả nói tiếp - Cái sự nam nữ hôn nhau, nếu vì thế mà ảnh hưởng đến tình đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa, hoặc đế quốc Mỹ kéo quân vượt sông Bến Hải ra miền Bắc thì tôi đề nghị phải đưa đồng chí Dóp và đồng chí Dung ra truy tố trước pháp luật, phạt tù chung thân hoặc tử hình. Tôi nghĩ hôn là một trong những biểu hiện tình cảm đẹp nhất, xúc động nhất của con người văn minh, chẳng ảnh hưởng gì đến nền hoà bình thế giới mà còn có lợi cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân vì sự sống của con đường, vậy thì lý do gì mà đồng chí xê trưởng lại cử một kẻ chuyên ngồi lê đôi mách, tư cách thấp kém lén lút theo dõi đồng đội đi với nhau để tổ chức cuộc họp vô bổ chỉ vì một nụ hôn?

 

Trâm vừa nói xong, chị em vỗ tay rào rào tán thưởng. Cô Hoan, sốt rét rụng nửa mái tóc nhưng đôi mắt bồ câu vẫn long lanh, rất yêu đời , đã được anh lái xe đoàn 559 hò hẹn hồi cuối tháng trước, đứng lên tuyên bố:

-Tôi đề nghị đồng chí Thuyên bỏ ngay tính xấu hay rình mò đồng đội đi. Nói thật, nếu được một người đàn ông ôm riết lấy mình, ghì đến tức thở dù trời sập tôi cũng chẳng cần.

-Yêu cầu các đồng chí không được nói tếu! - Chu Quang Sầm mặt nặng trịch nhìn đại đội phó Bàng Thị Chuyên cầu cứu, nhưng cô này cứ tảng lờ, có lẽ còn đang cố tưởng tượng xem vị ngọt ngào và run rẩy của những chiếc hôn mà mình chưa bao giờ nhận được từ một người khác giới kỳ diệu như thế nào. Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiên mới đứng lên:

- Các đồng chí nói rất đúng. Giữa cái sống và cái chết trong cuộc chiến tranh này, một nụ hôn có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ta không nên cấm đoán tình cảm tự nhiên của con người mà phải nâng đỡ, hướng dẫn phát triển đúng quy luật, phù hợp với những giá trị đạo đức truyền thống. Tôi xin kể cho mọi người nghe câu chuyện có thật cách đây hơn một năm về một người con gái. Hồi ấy tôi đang ở C23 trên đường 34. Đấy là đoạn ngầm qua suối Đa Linh mới được mở từ đầu mùa khô tránh phải vượt đèo Sừng Bò. Trung đội thanh niên xung phong phụ trách đoạn ngầm này do cô Tuyên chỉ huy. Họ giữ an toàn được hơn hai tháng thì bị lộ. Thế là mỗi ngày có ít nhất bốn lượt máy bay quần đảo trút đủ các loại bom xuống cung đường hẹp chưa đầy tám mươi thước. Trong số chị em bám trụ ở đây có cô Mai da trắng tóc dài, mắt đen xinh như văn công. Hôm ấy, sau khi tiểu đội hai vá xong quãng ngầm phía bờ nam bị bom phá buổi trưa thì trời sẩm tối. Chị em vừa leo lên dốc bất chợt có ba chiếc máy bay từ phía biển vào, chúi xuống lần lượt cắt bom rồi biến đi rất nhanh. Tất cả dều không kịp xuống hầm. Sau hơn một giờ đào bới người ta chỉ lôi lên được những xác chết không còn nguyên vẹn. Riêng cô Mai, bị mảnh bom chém ngang sườn, máu loang ra ướt đẫm nửa người làm mặt cô nhợt nhạt, đôi môi se tím nhưng vẫn còn tỉnh táo nói thầm:

- Các chị ơi, em mới mười tám tuổi, chưa được biết thế nào là ... một nụ hôn.

 

Tôi còn nhớ, lúc ấy mọi người đều rưng rưng nước mắt nhìn nhau. Thế rồi đồng chí Hoa, nữ đại đội trưởng thấy anh kỹ sư trẻ Trần Cường của đội khảo sát thiết kế lúc ấy cũng có mặt trong đội cứu hộ liền đưa mắt khẽ bảo:

- Anh Cường...

 

Không còn thời gian nữa, tôi đẩy Trần Cường lên phía trước. Cậu ấy ngập ngừng một lúc rồi cúi xuống  khẽ chạm vào môi Mai. Mắt cô gái lúc ấy như có ánh hào quang, sáng lên một cách lạ kỳ. Hai cặp môi gắn chặt lấy nhau. Nụ hôn kéo dài dường như vô tận. Tôi đứng ngoài mà người run lên bởi những xung đột tình cảm vì trong đời chưa bao giờ chứng kiến  một hoàn cảnh bi tráng như vậy. Mấy phút sau, Mai bình thản ra đi. Trần Cường lặng lẽ vuốt mắt cho cô ấy trong tiếng nấc nghẹn ngào.

 

Nghiên kể xong tất cả đều lặng đi. Không ai nói với ai một lời. Họ âm thầm dắt nhau về. Nhà sinh hoạt chỉ còn lại Chu Quang Sầm và Thuyên “Hạt mít”. Họ thất bại thảm hại, nhưng cái chính là đã nhận được bài học về quy luật tự nhiên của tình cảm con người, một thứ tình cảm mà từ lâu họ đã đánh mất bởi những thứ nhân sinh quan méo mó, bệnh hoạn.

 

2

 

Nhưng bản chất con người khó thay đổi, nhất là thứ bản chất ấy được lồng trong động cơ cá nhân mà mục đích của nó chỉ để thoả mãn thói ích kỷ nhỏ nhen. Suốt đêm ấy Chu Quang Sầm không ngủ. Chốc anh ta lại ngồi dậy hút thuốc lá và suy nghĩ cách trừng phạt những đội viên đã làm mình mất mặt trong cuộc họp.

 

Ba hôm sau, lấy cớ là tăng cường đảm bảo giao thông, đại đội trưởng chuyển Lê Văn Nghiên ra làm A trưởng A5 phụ trách thông xe ngầm chữ A. Thuỳ Dung và Trâm “Cao kều” bị điều lên dốc Ngựa Trời là một sườn núi cao chênh vênh, heo hút, rất lắm vắt. Các cô ở chưa được một tuần đã khóc dở mếu dở vì không có nước, đến ngày hành kinh khổ vô cùng.Trâm nhăn nhó bảo Thuỳ Dung:

- Đây chính là cái giá mà chúng ta phải trả.

Thuỳ Dung gật đầu:

-Tớ đã làm liên luỵ đến cả các cậu.

 

Số nam thanh niên đã ít lại cứ hao dần. Có trận bom mất đến bốn đội viên.

Nhiều chị em tình nguyện xin ra ngầm chữ A nhưng Chu Quang Sầm vẫn lạnh lùng điều người theo ý anh ta. ở dốc Ngựa Trời, cứ một tuần chị em lại phải về đơn vị gùi gạo và thực phẩm. Cuối tháng chín, mưa kéo dài, nước trên nguồn dồn về, lũ suối, chị em phải ăn sắn trừ bữa. Một hôm các cô rủ nhau vào rừng bắt cua đá, Hà Thị Khuy bị rắn khô mộc cắn vào mang tai. Thuỳ Dung và Trâm đưa về đến lán thì lên cơn co giật chết.

 

Mùa mưa trong rừng A Cheo làm tất cả mọi thứ, kể cả con người đều ẩm mốc. Không khí ướt sũng nước. Đường nhão nhoét và các loại bệnh ghẻ lở làm chị em sinh ra cáu bẳn nhất là những cô tự nhiên mất kinh. Suốt ngày họ phải mặc những bộ quần áo đang lên men mà không được nhóm lửa hơ vì sợ khói bốc lên, máy bay ném bom bất ngờ. Cô Toan bị ghẻ nước, suốt ngày ngứa ngáy, luôn tay gãi, mếu máo bảo mấy chị A1:

- Dưới hầm khó chịu lắm đêm nay em cứ mắc võng ngủ bên trên.

Chị Thắm mắng:

- Mày muốn chết à?

- Còn hơn là ngứa.- Mặt cô gái trẻ khó đăm đăm- Chị xem, cứ gãi xoành xoạch thế này, da sần sùi như da cóc, may mà còn sống về làng cũng chẳng ma nào nó rước.

 

Dốc Ngựa Trời thực chất là một đoạn đường vòng tránh ngầm chưa A qua thượng nguồn suối Đắc May. Rừng ở đây rậm rạp, phần lớn là loại sao trắng, săng lẻ và chìa vôi mọc rất ngang hàng thẳng lối như là được bàn tay con người trồng từ thủa hồng hoang. Phía đường ngầm, cây cối bị bom phát xơ xác, đất đá cày nham nhở thực sự là bãi chiến trường thì vùng Bầu Cạn, khỉ vượn vẫn đánh đu trên cành kiếm những quả vú vò chín đỏ, ngồi vắt vẻo, chén ngon lành. Chim ‘bắt cô trói cột” ở đây nhiều vô kể. Chúng không hót đồng loạt mà thay nhau gào lên như một cuộc chạy tiếp sức bằng âm thanh ầm ĩ, náo loạn không bao giờ ngừng.

 

Lê Văn Nghiên đã nhiều lần đề xuất với Chu Quang Sầm cho hạ thấp dốc Ngựa Trời làm phương án hai, phòng khi lũ suối hoặc máy bay tăng cường ném bom thì sử dụng vừa đảm bảo giao thông vừa an toàn tính mệnh. Đại đội trưởng lắc đầu:

- Muốn xe trọng tải nặng qua được dốc Ngựa Trời phải đào hàng ngàn mét khối đất đá, xê ta không đủ sức, phải xin cấp trên tăng cường nhân lực, mà theo tôi được biết, tiểu đoàn đang rất thiếu người, họ klhông quan tâm đến cái sáng kiến phiêu lưu mất thời gian của anh đâu.

Nghiên vẫn kiên trì thuyết phục tay đại đội trưởng cố chấp:

- Anh cứ báo cáo với tiểu đoàn đi. Tôi đã tính toán rồi, chỉ cần hai tháng là mở xong con đường này.

- Đã bảo là cấp trên không đồng ý, các anh đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.

Mấy hôm sau nhà thơ Dóp cũng bị điều ra ngầm chữ A, Lê Văn Nghiên hỏi:

- Các cậu hôn nhau như thế nào mà để con Thuyên nó nhìn thấy?

Dóp có vẻ ngượng đành phải nói thật:

- Lúc ấy em đang mải làm bài thơ “ Đêm lấp hố bom” bất ngờ cái Dung từ suối đi lên, nó bảo muốn được hôn, thế là em phải...

Nghiêm tủm tỉm cười:

- Hiểu rồi, cậu là nhà thơ nhưng vẫn còn “tồ” lắm.

Cuối tháng mười, Chu Quang Sầm lại cử thêm Hạnh và Là lên dốc Ngựa Trời. Như thế là tổ gùi hàng đã tăng lên bẩy cô. Lê Văn Nghiên bàn với Sầm:

- Công việc chuyển hàng nặng nhọc nên để nam giới làm. Tôi đề nghị chuyển chị em xuống dưới này.

Đại đội trưởng trừng mắt:

- Các đồng chí sợ chết phải không?

- Nếu sợ chết chúng tôi đã chẳng trụ ở đầu ngầm mấy tháng.- Nghiên nhìn thẳng vào Chu Quang Sầm, dằn từng tiếng- Bên bộ đội cho biết, bọn thám báo đã xuất hiện ở vùng này. Các đồng chí đưa toàn phụ nữ lên trên ấy, nếu có chuyện gì xảy ra thì ai chịu trách nhiệm?

Sầm cười gằn:

- Đồng chí chẳng nên lo xa. Bọn nặc nô ấy, trời không sợ, đất không sợ, sợ gì thám báo?

Bàng Thị Chuyên lắc đầu bảo:

-Tại sao anh lại cứ có thành kiến mãi với chúng nó như thế?

Đại đội trưởng lạnh lùng nói:

- Công việc là trên hết.

-Thế còn tình người?

- Làm việc phải dựa trên nguyên tắc.- Chu Quang Sầm hằn học bảo – Với những đối tượng đã vô kỷ luật lại còn hay cãi láo như thế, bỏ rơi nguyên tắc là loạn ngay.

 

Khoảng nửa tháng sau, một đêm vào lúc gần sáng, từ dưới hầm, Ngô Thị Tuệ và Nguyễn Thanh Hoan nghe có tiếng rên rỉ vọng xuống. Hai chị em vội kéo nhau trèo lên. Trước mặt họ là Thuỳ Dung, tóc tai rũ rượi, quần áo tả tơi, một bên vai bị toạc. Vết thương rộng gần hai đốt ngón tay đang chảy máu. Tuệ tái mặt vội chạy về báo Ban chỉ huy, còn Nguyễn Thanh Hoan nâng đầu Thuỳ Dung lắc nhẹ, giọng lập cập:

-Dung... Dung ơi! Làm sao thế này?

-Thám ... báo.

 

Ba tiếng súng báo động, anh chị em vội kéo nhau chạy về phía dốc Ngựa Trời. Một cảnh tượng khủng khiếp bày ra trước mắt làm Bàng Thị Chuyên khóc nấc lên:

-Trâm ơi, Hạnh ơi, Là ơi! Sao lại đến nỗi này?

 

Ngay dưới gốc cây săng lẻ gần miệng hầm, Trâm “cao kều” thân hình loã lồ, đầu ngoẹo về một bên, cặp mắt mở trừng trừng như vẫn còn đau đớn sau khi bị lưỡi dao găm cắm vào yết hầu. Hoàng Thị Hạnh, con gái Quảng Xương Thanh Hoá mới hai mươi mốt, chơi măng đô lin rất hay bị bóp cổ cho đến chết, trên người cũng không mảnh vải. Thảm thương nhất là Mai Thị Là. Chắc là cô chống cự quyết liệt nên hung thủ cứa dao ngang cổ họng. Nạn nhân nằm ngửa, một chân co lên, tay phải nắm chặt con dao bằng sắt máy bay.

 

Buổi chiều hôm ấy C9 tổ chức chôn cất những người bị nạn. Chu Quang Sầm thay mặt Ban chỉ huy đọc những lời vĩnh biệt. Nhìn thấy anh ta cũng sụt sịt, thậm chí còn lấy ống tay áo quệt ngang mặt, Lê Văn Nghiên ghé tai nhà thơ Dóp thì thầm :

- Cậu có tin những giọt nước mắt kia không?

Dóp thản nhiên bảo:

- Nước mắt cá sấu.

 

Đám chị em như gà phải cáo. Từng nhóm ba bốn cô ngôi bên nhau khóc tấm tức. Đối với Trâm, Hạnh, Là coi như xong một kiếp người, nhưng mà nghĩ lại thấy xót xa đau đớn quá. Họ còn trẻ và cũng như cô Mai ở đường ngầm Đa Linh kia, chưa biết đến một nụ hôn.

 

*

Đầu tháng mười một, vết thương của Thuỳ Dung đã khỏi nhưng từ đấy suốt ngày lầm lì chẳng nói với ai một câu. Cô nhìn mọi người bằng cặp măt trống rỗng thỉnh thoảng ánh lên những tia man dại.

Hôm ấy là thứ tư. Gần nửa đêm có mấy bóng đen thấp thoáng phía đầu nhà bếp. Tiểu đội ba gác chẳng thấy một ai. Chắc các cô mệt quá sau một ngày khênh đất đá vá đoạn dốc Chuối nên ngủ mệt. Hai người bịt khăn kín mặt chui vào hầm chỉ huy bấm tay Chu Quang Sầm:

- Dậy! có lệnh khẩn.

- Cái gì? – Sầm tưởng mình đang ngủ mê, ú ở hỏi:

-Tiểu đoàn yêu cầu về gấp nhận nhiện vụ mới.

 

Anh ta định hỏi tiếp thì bất chợt một vòng dây dù đã quàng vào hai tay. Người bịt mặt thứ hai ấn vào miệng xê trưởng cuộn giẻ bằng nắm tay rồi kề mũi dao găm vào cổ đẩy ra ngoài. Họ dẫn Chu Quang Sầm về phía nhà vệ sinh, kéo vào rừng Bầu Sao, chừng nửa giờ thì đến sườn bên kia dãy Cô Tiên. Từ đây có thể nhìn rõ ngầm chữ A, lúc này một nửa A5 vẫn còn đang khênh đá lấp chỗ bom phá hồi chiều.

Chu Quang Sầm trực chỉ huy từ sáu giờ chiều đến mười hai giờ đêm, sau đó đến ca của Bàng Thị Chuyên. Lúc bị lôi đi có lẽ anh ta mới chỉ vừa chợp mắt. Phía dưới, những chiếc xe nguy trang kín mít lần lượt qua ngầm. Bốn giờ hai mươi. Chiếc xe cuối cùng đã lên khỏi đường ngầm. Anh chị em vừa rút quân về thì những kẻ lạ mặt lôi Chu Quang Sầm qua suối ngược lên sườn núi phía nam. Chỗ này ngày nào cũng bị đánh bom nhưng không hiểu sao vẫn còn một cây chò trắng cụt ngọn, vỏ tróc hết đứng chơ vơ giữa một khoảng đất đá đỏ quạch, ám khói. Họ trói đại đội trưởng vào cây chò bằng những vòng dây dù pháo sáng, tạm thời bỏ cuộn giẻ khỏi miệng cho anh ta nhìn rõ từng người một. Đó là ba cô gái: Thuỳ Dung, Tuệ và Thắm. Anh ta còn nhớ bọn người trói mình rõ ràng là đàn ông vậy mà tại sao bây giờ lại thế này? Thuỳ Dung bật chốt an toàn khẩu AK báng gập chĩa vào Chu Quang Sầm vừa khóc vừa nói:

- Nhân danh những nữ đội viên bị làm nhục và chết oan, tôi tuyên án xử tử Chu Quang Sầm về tội vô trách nhiệm trước tính mạng con người.

 

Mặt tay đại đội trưởng xám ngoét. Anh ta cất giọng van vỉ rất thảm hại:

-Tôi có tội thật nhưng không cố ý, xin các đồng chí tha mạng.

Thuỳ Dung quát lên:

-Nếu nghe lời anh Nghiên không đưa chúng tôi lên dốc Ngựa Trời thì làm gì đến nỗi cái Trâm, cái Hạnh, cái Là chết. Còn nữa,vì thù hằn cá nhân mà anh bắt anh Quốc, anh Thoan, anh Đoàn ra ngầm chữ A vào giờ cao điểm để họ dính bom toạ độ. Chu Quang Sầm, từ lâu anh không còn là đồng đội của chúng tôi, mà là kẻ thù, hiểu không?

 

Ngón tay Thuỳ Dung vừa định  nhấn cò khẩu AK 47 Vũ Thị Thắm vội ngăn lại:

- Cậu bắn làm gì cho bẩn tay, các anh ấy dặn, cứ để hắn ở đây, chỉ một lúc nữa thôi, lũ máy bay “con ma” đến giải quyết gọn hơn.

Nói rồi Thắm cầm nắm giẻ ấn mạnh vào mồm Chu Quang Sầm. Anh ta ú ớ muốn nói điều gì đó nhưng ba cô con gái đã xuống đến đầu ngầm. Cả bọn vừa sang đến bên này, Lê Văn Nghiên và Dóp đã đứng chờ trong một chiếc hầm kèo. Lúc ấy Thắm mới bảo:

- Cái Dung xuýt nữa làm hỏng việc. Anh Nghiên đã dặn thế nào mà cậu định bắn?

Thuỳ Dung vẫn còn khá căng thẳng sau vụ chết hụt ở dốc Ngựa Trời :

-Tôi căm thù Chu Quang Sầm. Tay này không giải quyết nhanh, trong vòng mấy tháng nữa hắn sẽ xoá sổ toàn bộ C9.

 

Lê Văn Nghiên thở phào vì đã thoát hiểm:

-Tôi đã nói, cứ để máy bay Mỹ thanh toán hắn là tốt nhất. Giả sử lúc ấy Thuỳ Dung gây ra tiếng nổ, mọi người thức dậy kéo đến hiện trường thì tất cả chúng ta phải ra toà án binh.

 

Mới sáu giờ sáng, bọn F105 đã kéo đến. Đầu tiên chúng xếp theo hình chữ V, gần đến A Cheo thì tách ra hai tốp. Tốp đầu, ba chiếc bay rất thấp , gầm rú như để uy hiếp tinh thần đối phương rồi lao vút qua, không thả bom. Tốp thứ hai năm chiếc xếp hàng dọc lần lượt hạ độ cao cắt bom theo trình tự rất bài bản của không lực Hoa Kỳ.Tốc độ vọt lên cao của phản lực cổ ngỗng nhanh đến mức chiếc cuối cùng vượt khỏi đỉnh Cô Tiên mới nghe thấy tiếng bom nổ .Ba quả rơi trúng đường ngầm khoét thành những chiếc hố lớn quăng đất đá ra xa hàng trăm thước. Một quả làm trượt mái ta luy sườn phía nam .Quả cuối cùng rơi gần cây chò cụt. Khói bom tan đi, sườn dốc bị khoét thành cái phễu khổng lồ.

 

Phải đến lúc ăn sáng người ta mới nhớ đến đại đội trưởng. Không thấy anh ta dưới hầm, Bàng Thị Chuyên vội cử mấy nhóm đi tìm. Mãi đến quá trưa hôm ấy nhóm Trần Quang Mộc và Thuyên “ hạt mít” mới phát hiện ra một cẳng chân vẫn còn lòng thòng chiếc ống quần bê bết máu ở mép ta luy. Ai cũng nghĩ, anh ta thức suốt đêm, gần sáng ngủ thiếp đi rồi trúng bom. C9 làm lễ truy điệu đại đội trưởng trong bầu không khí căng thẳng lo âu. Mới chưa đầy ba tháng, đơn vị đã hy sinh mười chín người.

 

Mấy hôm sau lại xẩy ra chuyện rắc rối. Đầu tiên là cô Thuý Bàn người Phù Vân Bắc Ninh, đang nằm trong hầm bỗng nhiên cười sằng sặc, xé quần áo chạy ra bờ suối vớt nước lên người. Được một lúc thì cô ta bắt đầu hát, phần lớn là những ca khúc về tình yêu, thỉnh thoảng lại cười khùng khục như gà trống gù gà mái. Thuý Bàn có bộ ngực không cân, một bên căng tròn như trái bưởi nhưng bên kia lại lép kẹp. Chẳng biết ai bầy cho cô ta tìm được một khoanh gỗ đẽo gọt cẩn thận lót vào trong xu chiêng, một lần đang xúc đất, thót bụng lại, bất ngờ chiếc vú giả rơi xuống làm chị em được mẻ cười.

 

Giữa trưa, Vũ Thị Thắm và Thuỳ Dung tìm thấy cô gái Bắc Ninh đang ngồi trên tảng đá dưới suối, chân nhúng nước ngồi hát nghêu ngao:

 

“Ta sống không một lời trìu mến

Như bóng con đò chiều lạc bến...”

 

Đợi một lúc Thắm khẽ gọi:

- Bàn ơi! Về ăn cơm.

Thuý Bàn giật mình, quạy lại mắt sáng lên:

- Kìa anh! Anh lại đây với em một lúc thôi.

Thắm lấy tay chặn ngang yết hầu nhại giọng đàn ông:

- Anh ra đón em về đây.

Hai chị em dắt Thuý Bàn lên bờ. Cô ta ngoan ngoãn đi theo nhưng thỉnh thoảng lại nhìn về phía sau có vẻ như còn nuối tiếc một hình bóng nào đó trong trạng thái mộng du qua lời ca buồn . Đến trưa ngày thứ ba thì căn bệnh  quái lạ của Thuý Bàn lây sang hơn hai chục chị em khác  nhất là những cô mất kinh và hay mơ mộng. Thuỳ Dung vừa hôm trước còn an ủi, vỗ về Thuý Bàn thì hôm nay đến lượt cô hát lảm nhảm những bài tiền chiến như “Con thuyền không bến" của Đặng Thế Phong “Tà áo xanh”của Đoàn Chuẩn - Từ Linh nhưng ca từ đầu Ngô mình Sở hoàn toàn tuỳ hứng, gặp Lê Văn Nghiên, ôm chầm lấy đòi hôn. Khổ nhất là Thuyên “hạt mít” . Cô này vừa nhỏ người vừa xấu nhưng bộ ngực lại to quá khổ, cứ vài giờ lại vật vã như con nghiện lúc lên cơn đói thuốc, miệng nhai tóp tép, mắt long sòng sọc, nhìn đâu cũng thấy rắn rết. Lúc đó, hàng chục cô rủ nhau ra suối, để nguyên quần áo nhảy xuống nước té nhau như những con điên. Căn bệnh bí hiểm này chỉ phát lộ vào ban ngày. Ban đêm các cô lại vác cuốc xẻng, đẩy xe cút kít ra đường, ai có nhiệm vụ của người ấy, làm việc hoàn toàn tỉnh táo với tinh thần quyết tâm bảo vệ ngầm chữ A và đảm bảo thông xe an toàn.

 

Bàng Thị Chuyên được cử làm xê trưởng. Một hôm cô nói với Lê Văn Nghiên:

- Anh thử nghĩ xem có cách nào chữa được căn bệnh cho các cô suốt ngày hát lảm nhảm giúp em.

 

Nghiên nheo mắt cười:

- Đây là thứ bệnh thuộc lĩnh vực tinh thần khó chữa lắm.

- Này, em nói thật đấy. anh nghĩ giúp đơn vị chứ không nay mai ốm cả, lấy đâu nhân lực mà đảm bảo giao thông.

Nghiên ngẫm nghĩ một lúc thấy chẳng còn biện pháp nào tốt hơn liền gợi ý:

- Có một cách đấy nhưng phải trừ tôi ra.

- Được, anh cứ nói, việc gì phải rào đón.

-Tính cho đến nay xê ta còn năm nam, đề nghị tách ra phân tán về các A để động viên chị em. Lúc này không còn xét nét họ như hồi đồng chí Sầm còn sống, thậm chí có trường hợp bệnh quá nặng phải để nam nữ tạm thời ở chung hầm. Ban chỉ huy có đồng ý phương án này may ra mới duy trì được sức chiến đấu.

Chuyên lắc đầu:

-Nhỡ chúng nó có chửa hàng loạt ra đấy thì làm thế nào? Cách này xem ra không ổn.

-Đấy lại thuộc lĩnh vực giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức của chi uỷ và Đoàn thanh niên.

 

3

 

Đầu mùa khô năm sau. Thời kỳ này máy bay tập trung đánh vào ngầm chữ A dữ dội cả ngày lẫn đêm, các đoàn xe quân sự đi lối này không an toàn nữa, đến lúc ấy người ta mới triển khai phương án dốc Ngựa Trời. Tiểu đoàn điều C13 về tăng cường cho C9. Làm xong đường, một nửa đội viên C9 lại phải vào sâu hơn nhưng không mở đường mà bổ sung vào các trạm giao liên bị tổn thất nặng sau chiến dịch” Con kỳ nhông” của Mỹ. Lê Văn Nghiên, Thuỳ Dung, nhà thơ Dóp và Thuý Bàn được phiên chế vào trạm Z35. Trạm này ở khuất sau núi Rồng bên cạnh dải đường mòn dân sinh chỉ cách biên giới chừng năm sáu cây số. Hệ thống hầm hào được giấu kín dưới tán rừng già. Bãi khách là những khoảnh đất bằng phẳng, có nhiều cây cổ thụ rợp bóng mát, ban ngày không nhìn thấy ánh mặt trời.

 

Chiều hôm trước , trạm Z37 điện sang, chừng bốn giờ sáng có đoàn khách bẩy người từ trong ra. Đây là những vị khách quan trọng cần phải có chế độ bảo vệ đặc biệt.

 

Hoàng Hữu Vân là người đàn ông trung niên rất khó đoán tuổi. Ông ta có khuôn mặt lưỡi cày, mắt trắng dã, răng vẩu và đen sì vì khói thuốc lào, xem đi xem lại bản sơ yếu lý lịch Lê Văn Nghiên mới khai theo yêu cầu của trạm. Thành phần gia đình và cái chết của Lê Văn Vận làm ông trạm trưởng rất không yên tâm. Để phòng xa, chập tối, Hoàng Hữu Vân gọi Lê Văn Nghiên và Thuỳ Dung lên giao nhiệm vụ mới:

- Sáng mai hai đồng chí không phải đón khách mà về kho T8 lấy gạo và thực phẩm, khi đi nhớ mang theo súng có đủ cơ số đạn đề phòng giữa rừng gặp bất trắc.

 

Hai người ăn lót dạ mấy khúc sắn luộc rồi khoác gùi lên vai. Ước chừng được hơn nửa giờ đường rừng, bất chợt từ phía bãi khách có tiếng súng rộ lên. Lê Văn Nghiên lắng tai nghe một lúc rồi phán đoán:

-Thám báo tập kích vào trạm rồi, phải quay về xem sao.

Thuỳ Dung vội ngăn lại:

- Khoan đã anh, nghe như có tiếng trực thăng, nếu chúng đổ quân thì  ta về cũng vô ích.

Không phải trực thăng mà là máy bay trinh sát.

Thuỳ Dung bảo:

-Toàn là tiếng AK chẳng lẽ họ...

- Đúng là tiếng AK nhưng xem ra cách bắn không phải là của quân ta. Gay rồi, bọn thám báo mà chiếm được Z35 thì đoàn khách nguy mất. Ta về đi em.

 

Thuỳ Dung giấu gùi vào bụi cây ven đường mòn. Hai người về đến suối Cua Đá, thì tiếng súng thưa dần. Họ qua suối ngược lên một đoạn sau đó rẽ vào đường hào từ trung tâm bãi khách thông ra. Vừa ra đến lán chỉ huy, Lê Văn Nghiên đã nhìn thấy bọn thám báo mặc đồ rằn ri quật báng súng vào lưng Hoàng Hữu Vân. Ông ta  đau quá gục xuống kêu ồ ồ. Thuỳ Dung rê nòng súng định bóp cò nhưng Nghiên giữ tay cô, thì thầm:

- Đừng bắn.

 

Lê Văn Nghiên đi trước, Thuỳ Dung lom khom phía sau, cách chừng năm bẩy thước lặng lẽ lách vào ngách hào bên trái. Lúc này họ mới biết bọn giặc khá đông, không thể manh động được. Trên bãi khách, chị La cấp dưỡng, chị Thảo y tá và anh Số giao liên đã hy sinh. Xác hai người nằm bên cạnh hai tên biệt kích bị thương, một thằng vào bụng, thằng kia vào bắp đùi đang thều thào đòi uống nước. Trạm phó Đoàn Huy Thước bị trói giật cánh khuỷu, ở đuôi mắt rách một miếng, máu chảy loang cả ngực áo.

 

Tình hình càng lúc càng nghiêm trọng khi toán lính phục kích phía rừng Xạ Hương đã đón lõng được đoàn khách từ Z37 ra. Sau một hồi chạm súng, ba đội viên bảo vệ hy sinh, số còn lại phần lớn bị dính đạn. Bọn rằn ri trói họ bằng dây dù đẩy lên phía trước. Trong đoàn có một người tóc chớm bạc, tuổi ngót năm mươi, mặc bà ba đen, đội mũ tai bèo bị thương vào bắp chân, bước loạng choạng thỉnh thoảng lại vấp ngã. Lúc này Nghiên và Thuỳ Dung đã bí mật vận động đến nhánh hào bắt vào con đường mòn, nhìn thấy bọn thám báo có chín tên xếp theo hình dọc, thằng nào cũng mang theo súng AK 47, Nghiên rỉ tai Thuỳ Dung:

- Phải diệt bọn này trước.

Thuỳ Dung gật đầu:

- Cẩn thận không lại bắn vào người của ta.

 

Bọn rằn ri hí hửng tưởng đã thanh toán hết Việt Cộng trong trạm nên xem ra có phần lơ là việc canh phòng. Bất ngờ cả Lê Văn Nghiên và Thuỳ Dung đồng loạt nổ súng.

 

Những viên AK bắn ở cự ly gần làm lũ thám báo đổ hàng loạt. Hai tên còn lại xả súng vào đoàn tù binh rồi nhảy xuống đoạn đường hào ném theo quả lựu đạn. Thuỳ Dung xách súng nhảy lên miệng hào bị sức ép bật laị. Nghiên nhảy theo định cứu Thuỳ Dung thì bất ngờ từ đường hào cụt, hai tên rằn ri đội mũ tai bèo nổ súng bắn chặn, một viên sượt qua vành tai nóng bỏng.

Đoàn khách chỉ còn lại hai người. Một anh lính rất trẻ, bị thương vào ngực nắm tay áo Lê Văn Nghiên thì thào:

-Các đồng chí phải đưa chú Năm ra khỏi chỗ này ngay... Trực thăng sắp đến.

 

Nghiên đoán người mặc bộ bà ba kia chắc là cán bộ quan trọng vội chạy đến cởi trói cho ông ta. Ngoài vết thương bắp chân ông Năm còn bị đạn AK xuyên qua bàn tay trái. Chỗ viên đạn phá không lớn lắm nhưng máu chảy nhiều, rất đáng ngại. Nghiên vừa xé xong cuộn băng cá nhân buộc vào tay ông cán bộ thì có tiếng phành phạch trên tán rừng. Hai chiếc trực thăng từ hướng tây nam ầm ầm lao tới. Lá cây bị gió quạt táp đi rụng bay lả tả. Thấy không còn cơ hội cứu Thuỳ Dung được nữa, Nghiên ngồi xuống, quàng hai tay người bị thương vào cổ rồi luồn theo đường hào chính chạy ra bờ suối. Đến đoạn rừng thưa, bọn trực thăng đã nhìn thấy hai người cõng nhau liền bay sát ngọn cây, gầm rú, xả đạn. Chúng bay chậm, có lúc gần như đứng yên một chỗ xăm xoi dưới tán rừng . Bất chợt một chiếc vượt lên trước chặn đầu, chiếc sau khoá đuôi rồi ném lựu đạn xuống những chỗ nghi ngờ như là trò chơi ú tim. Khoảng mười phút sau, chiếc trực thăng thứ ba hạ xuống khoảng trống. Chúng tăng cường lực lượng để quây cho được đoàn khách. Bọn lính mặc đồng phục da  báo ôm súng lom khom luồn dưới tán cây, sau đó nhảy xuống hào. Chúng gạt xác đồng bọn sang một bên, thận trọng chui vào các ngách hầm tìm kiếm.

 

Lúc này Lê Văn Nghiên đã vượt qua con suối một đoạn. Ông cán bộ thuộc loại người to lớn, vất vả lắm anh ta mới leo lên được đoạn đường mòn lúc sáng sớm cùng Thuỳ Dung đi lấy lương thực. Nơi đây đã khá xa trạm Z35 nhưng chưa phải chỗ an toàn. Lũ trực thăng vẫn vè vè trên trời. Toán biệt kích vừa đổ xuống đang sục sạo khắp nơi, dừng lại có nghĩa là chết.

 

Bọn biệt  kích trang bị nhẹ chẳng mấy chốc đuổi kịp hai người. Chúng vừa hô hét vừa bắn chặn các ngả. Tình hình này thì phải quyết một sống một chết thôi. Nghiên nghĩ vậy liền đặt ông Năm nằm xuống, gác súng nên một gò đất chuẩn bị chiến đấu. Ông cán bộ đã tỉnh lại, rút khẩu súng ngắn đeo bên sườn đưa cho Lê Văn Nghiên và bảo:

-  Đồng chí lên đạn hộ tôi. Chúng nó đến đâu rồi?

-  Đang ở lưng chừng núi.

-  Vậy thì đồng chí đi đi để mặc tôi, đằng nào thì cũng chết.

Nghiên lắc đầu:

-  Anh cứ bình tĩnh, có chết tôi cũng phải cho bọn này nhớ đời.

-  Vào đúng lúc ấy, anh ta chợt nhớ đến cái hầm bí mật đào từ cuối năm ngoái ở rất gần đây. Phải rồi, tại sao lại không nghĩ ra từ trước nhỉ? Chiếc hầm được làm rất chắc chắn để dự trữ lưng thực, thực phẩm phòng khi bị địch tập kích bất ngờ, nằm dưới bụi gai răng mèo giữa ba cây mỏ vẹt, chỉ cần xuống được là thoát. Nghiên nhanh chóng xoá dấu vết dìu ông Năm bò ngang sườn dốc, chừng hơn ba chục  bước chân thì chạm bụi gai. Ông Năm đau quá chốc chốc lại rên khe khẽ. Xuống hầm rồi Nghiên vẫn phấp phỏng. Anh ta sờ soạng băng lại vết thương bắp chân cho ông Năm đồng thời ghếch nòng súng lên phía trên, nếu cần thì cùng chết với chúng. Thời gian chờ đợi căng thẳng đến mức, đã có lúc Nghiên muốn bật nắp hầm thử xem bọn thám báo đã rút chưa nhưng rồi anh ta ngáp liền mấy cái ngủ thiếp đi.

 

Lúc tỉnh dậy, Lê Văn Nghiên thấy khó thở liền leo lên bậc tam cấp khẽ đẩy nắp hầm. Một luồng sáng chói  mắt lùa vào. Thì ra hai người đã ngủ trong hầm một ngày một dêm. Ông Năm vẫn năm thiêm thiếp, vết thương sưng tấy, toàn thân nóng hầm hập, Nghiên xốc ông cán bộ lên lưng, tay xách súng, lom khom lần xuống đường mòn. Bây giờ chỉ còn cách về kho T8 nếu không ông ta nguy mất. Từ đây đến dấy còn xa, ít nhất cũng nửa ngày cuốc bộ. Bụng đói cồn cào vì còn phong lương khô 701 hai người đã ăn hết ngay từ lúc mới thức dậy.

-  Nghiên có cảm giác càng đi càng xa vì vừa leo dốc lại phải cõng một người trên lưng. Khẩu AK lủng lẳng trước ngực nặng như khối đá tảng kéo trĩu cổ xuống chỉ muốn quẳng xuống vực cho nhẹ bớt. Khổ nhất là lúc lội suối. Suối Sê Băng không sâu mà lổn nhổn toàn đá đầu sư phủ rêu trơn tuột làm Nghiên mấy lần trượt chân quẳng cả ông Năm xuống nước. Chiều tối hai người mới đến kho T8. Nghiên vừa đặt ông Năm xuống trạm gác lập tức lăn quay ra ngất xỉu. Vết thương của ông cán bộ khá nặng lại bị nhiễm trùng phải đưa ngay đến bệnh xá binh trạm. Trước khi lên cáng, ông ta lấy trong sắc quyển sổ công tác bảo Lê Văn Nghiên:

-  Đồng chí ghi họ tên, quê quán và đơn vị công tác vào đây, biết đâu đến ngày đất nước thống nhất chúng ta lại gặp được nhau.

 

Chương mười tám

 

1

 

Trịnh Doãng được tha sau hơn bốn năm ở trại Chiềng Khoa. Hắn đi tù mà không có án. Lúc đầu người ta dự kiến ba năm nhưng hắn cứ khăng khăng cãi mình không có tội, rằng hắn mang xác con mình lên trình ông chủ tịch vì biết Trần Quảng là người công tâm, sáng suốt chứ không phải với mục đích khủng bố, thế là bị gia hạn thêm ba năm. Tay thả ống lươn xuất trại trước khi mãn hạn không phải vì đã cải tạo tốt, mà do bà ba Lánh biết rõ hoàn cảnh gia đình hắn, viết đơn bảo lãnh. Lúc đưa cho Doãng giấy tờ, ông Chẵn, giám thị còn dặn:

- Anh về nhớ là phải làm ăn lương thiện, chấp hành pháp luật nhà nước, phấn đấu trở thành công dân tốt.

Tay thả ống lươn cúi đầu nghe lời giáo huấn rất cung kính:

-Thưa ông, vâng.

 

Nhập trại được gần ba tháng Doãng mới biết Ngô Quỳnh và bà Cả Huê cũng bị tù ở đây. Bà Chánh mắc bệnh phong thấp, chân đi cà nhắc, mặt lúc nào cũng khó đăm đăm. Tạng người Ngô Quỳnh không hợp thuỷ thổ vùng Tây bắc. Ông ta bị ngã nước rồi chuyển sang viêm gan, thụ án đến năm thứ mười ba thì chết trong lúc vun gốc sắn trên nương. Mộ Ngô Quỳnh để ở nghĩa địa tù trên vạt rừng già cách bản Chiềng Khoa bốn cây số. Nhà ông ta chẳng còn ai, vì thế đã qua sáu bẩy năm vẫn không có người bốc hót. Ngày tháng qua đi, nấm đất lúc đầu còn lùm lùm sau bị những trận mưa rừng san bằng không còn để lại chút dấu vết nào.

 

Trịnh Doãng về làng Cùa. Thời gian ở tù hầu như chẳng mấy tác động đến tính cách của hắn. Con người hắn vẫn như hơn bốn năm trước, chỉ có khuôn mặt là nhàu đi kéo những vết sần lỗ chỗ -  hậu quả của trận đậu mùa -  giãn ra, trông lại dễ coi hơn trước.

 

Tào Văn Hỗ lúc ấy đã là chủ tịch xã. Doãng căm lão ta lắm. Mối hận chưa trả được trong lòng lúc nào cũng như có lửa. Hôm tay thả ống lươn mang giấy xuống uỷ ban trình  với trưởng công an Trương Đình Tái, thấy Hỗ Chột đứng ngoài hành lang nói chuyện với cô Thảnh uỷ viên thư ký. Hai bên nhìn nhau trừng trừng nhưng không nói gì. Ăn tết xong thằng Dõng có giấy gọi nhập ngũ. Doãng vừa ở đồng về, vẫn còn mặc quần đùi, tay chân đầy bùn đất chạy đến nhà xã đội trưởng Cung Văn Luỹ sừng sộ:

-Nó mới mười bảy, tại sao các ông đã bắt lính?

Xã đội trưởng biết tính Doãng, mở ngăn kéo bàn lấy bản danh sách sao từ sổ hộ khẩu đặt trước mặt hắn:

- Tháng ba năm nay cháu Dõng vừa đủ mười tám. Số liệu tôi lấy bên uỷ ban. Xã ta đợt này cuối tháng mới đi nhưng chúng tôi phải báo trước để bà con có sự chuẩn bị.

 

Trịnh Doãng hiểu ra tuy nhiên vẫn còn chưa về ngay. Hắn ngẫm nghĩ một lúc khá lâu rồi bảo Cung Văn Luỹ:

- Nói thật nhá, thích thì tôi cho thằng Dõng đi, còn nếu không, thách các vị đấy.

- Ông lại muốn vào trại lần nưã hay sao? – Xã đội trưởng lên giọng răn đe- Đi bộ đội là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay. Ông nên thận trọng, không được phát ngôn bừa bãi.

Doãng lăc lư mái tóc tổ quạ, nghểnh cái cổ dài ngoẵng toàn những dây chằng về phía Cung Văn Luỹ, lý sự cùn:

- Vậy tôi hỏi ông nhá, ông Bùi Quốc Tầm, bí thư Đảng uỷ, có hai thằng con trai, một thằng đã hăm bốn, sao không để nó ở nhà làm nghĩa vụ công dân mà lại sang Liên Xô?

 

Xã đội trưởng không thể kiên nhẫn giải thích được nữa, khoát tay bảo:

- Nói dở như ông thì mất nước lâu rồi. Xã hội phân công mỗi người một việc, thắc mắc làm gì. Ai bảo mấy đứa nhà ông chỉ học đến lớp bốn rồi bỏ đi thả ống lươn?

 

Cùng nhập ngũ đợt này làng Cùa còn có cả Tào Văn Kha, con thứ hai của chủ tịch Tào Văn Hỗ. Hỗ có hai con trai. Thằng lớn là Tào Văn Hó, hai mươi ba tuổi, bị thiểu năng trí tuệ. Đầu nó to đùng ngất ngưởng trên cái cổ ngẳng trông chẳng khác gì con rối nhồi bông, suốt ngày ngồi ở góc vườn nặn những con giống bằng đất sét miệng lảm nhảm:

-  Ái chà! ái chà! Thịt gà ngon lắm.

 

Tào Văn Kha năm ấy hăm mốt, khoẻ mạnh , khôn ngoan. Tào Văn Hỗ thấy Bùi Quốc tầm đưa được thằng Tiếm sang Liên Xô, ông ta cũng không muốn cho con trai đi bộ đội vì biết rằng tình hình chiến sự đang rất ác liệt. Tân binh huấn luyện ba tháng là phải vào Nam, mà đã vào Nam thì mười thằng đi may ra còn ba thằng về. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng ông bố quyết định cho con trai đi gang thép Thái Nguyên. ở đấy, ông ta có người em rể làm trưởng phòng tổ chức cán bộ, chắc chắn nó sẽ an toàn. Hồ sơ đang làm thì bị Lương Hữu Tiệp, biệt danh “Tiệp Cò” là phó chủ nhiệm hợp tác xã phát hiện liền đưa ra cuộc họp đảng uỷ. Tiệp cò với Hỗ Chột từ lâu vẫn mâu thuẫn với nhau. Cánh họ Lương bị họ Tào, họ Bùi chèn ép, từ nhiều năm nay chỉ được làm cấp phó. Tiệp còn trẻ, có năng lực, trước đây đã là phó bí thư xã Đoàn mấy khoá, thế mà khi Hỗ Chột trúng ghế chủ tịch lại đưa Tào Văn Tưởng em họ ông ta ra thay chân chủ nhiệm.

 

Tào Văn Tưởng mắt đỏ như mắt cá chày, nổi tiếng đánh rọ cá rô, trình độ lớp ba, không biết cộng trừ phân số, như có phép thần, bỗng chốc trở thành người lãnh đạo cao nhất hợp tác xã.

Trong cuộc họp, Tiệp Cò nêu ý kiến:

- Tôi đề nghị, các đồng chí lãnh đạo phải gương mẫu chấp hành chính sách nghĩa vụ quân sự. Mọi người thử nghĩ xem, nếu chúng ta đều tìm cách đưa con em mình đi công nhân hoặc ra nước ngoài học tập thì bà con xã viên ai  chịu cho con mình nhập ngũ. Lúc này nhiệm vụ cao nhất là chống Mỹ cứu nước. Mọi công dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, là đảng viên lại càng phải nghiêm chỉnh thực hiện.

Hỗ Chột tức điên người nhưng không làm gì được vì Tiệp Cò nói đúng.

 

Cuối tháng ba thằng Kha và thằng Dõng lên đường. Đầu năm trước Tào Văn Kha đã cưới vợ. Vợ Kha là ứng Thị Liễu, con gái đội Lạc và ứng Thị Sót nhưng lấy họ mẹ. Tổ chức xong, ông bố làm luôn cho ngôi nhà ba gian hai chái trên khoảnh đất mới được quy hoạch thành thổ cư ngoài xóm Trại Cá. ứng Thị Liễu mông to như mông bọ ngựa, cặp mắt lúng liếng, bỏ học từ năm lớp ba ở nhà làm hợp tác.

Làng Cùa mấy năm nay đã vãn thanh niên, phần lớn là vào chiến trường. Số còn lại chủ yếu là đui què mẻ sứt, chẳng đáng mặt đàn ông nên những anh chàng đẹp mã như Tiệp Cò luôn là niềm khao khát cháy bỏng của đám con gái quá lứa nhỡ thì.

 

Tiệp Cò là con thứ ba con ông lang Chén, một thầy thuốc nam nổi tiếng vùng Ba Tổng về chữa bệnh trẻ con đái dầm. Năm năm hai, ông Chén bị trúng mảnh ca nông chết lúc chưa đến năm mươi. Các con lớn của ông chịu khó làm ăn, đã thành gia thất từ lâu. Tiệp Cò là út được chiều, mãi đến năm mười sáu tuổi mới học lớp bốn. Hắn cao lớn, da trắng, tóc gọng kính, lúc nào cũng chải sáp thơm lừng nhưng dốt nhất hạng. Lớp học ngày ấy thường là gồm nhiều lứa tuổi khác nhau. Có những đứa còn thò lò mũi xanh, thầy mắng đái cả ra quần, nhưng cũng có những cô cậu choai choai sớm dậy thì, đến lớp chỉ để liếc mắt đưa tình. Cùng học lớp bốn với Tiệp có Bích Ong con bà Cả Ve. Bích Ong rỗ hoa, người cao ráo, mắt trố ngồi cùng bàn với Tiệp. Có những lúc thầy Phan Đề mải giảng bài hoặc ra ngoài là hai người rì rầm nói chyện. Một lần Bích Ong đau bụng gục đầu xuống bàn. Tiệp Cò giả vờ lấy sách, luồn tay vào ngực cô ta.

 

Thầy Đề bất chợt nhìn thấy liền quát:

-  Cậu Tiệp làm gì thế?

Tiệp Cò giật mình mắt nhìn trước nhìn sau nhưng vẫn chối phắt:

-  Thưa thầy không ạ.

-  Nào, cô Ong đứng lên trả lời cho thành khẩn. Nói dối là nhà trường đuổi học.

Lại Thị Bích Ong là cô gái mới lớn tính bộc toạc chẳng biết nghĩ thế nào lại trả lời thẳng tuột:

-  Thưa thầy! Em đang đau bụng thì bị bạn ấy... bóp vú ạ.

Thầy Đề xuống tận nơi bảo Lương Hữu Tiệp:

-  Đặt hai tay xuống bàn!

Tay hắn vẫn còn khum khum đã bị chiếc thước lim quật liền mấy nhát. Đau quá, Tiệp xách cặp lầm lầm bước ra khỏi lớp dõng dạc tuyên bố:

-  Từ nay ông đếch thèm học nữa.

 

Bỏ học, Tiệp theo anh Ba Trì làm nghề  bẫy cò và thả rọ cá rô. Hắn có nghệ thuật làm dò cò, hôm nào cũng được hàng xâu đem về xáo măng, từ đó thanh niên làng Cùa đặt cho biệt hiệu “Tiệp Cò”. Tiệp vốn có năng khiếu hoạt động phong trào, lại biết cách đón ý Bùi Quốc Tầm nên chẳng mấy chốc được kết nạp đảng rồi làm thư ký đội sản xuất, phó bí thư  chi đoàn xóm Chùa. Vào thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá khắp nơi trên miền Bắc, thanh niên có phong trào viết đơn bằng máu tình nguyện vào chiến trường thì Tiệp được giữ lại làm lực lượng kế  cận. Hắn vốn có tính trai lơ, chòng ghẹo hết lượt các nữ thanh niên  cho nên nhiệm kỳ thứ hai trượt uỷ viên chấp hành Đoàn xã. Lúc ấy Bùi Quốc Tầm phải ra tay cứu bằng cách đưa hắn sang làm phó chủ nhiệm sau khi chấp nhận phương án của Tào Văn Hỗ để em họ ông ta là Tào Văn Tưởng giữ ghế chủ nhiệm.

 

Từ lâu Tiệp cò đã để ý đến ứng Thị Liễu mặc dù hắn hơn cô ta đến mười lăm tuổi. Ứng Thị Sót có lần thấy hắn ăn nói lả lơi với con gái, liền bảo:

- Mày phải tránh xa thằng chó dái ấy ra.

- Sao mẹ lại nói thế?

- Cả làng này ai không biết nó là thằng Sở Khanh mà còn ỡm ờ.

 

Hôm Liễu lấy chồng, Tiệp Cò đóng vai chủ hôn. Khi chúc mừng cô dâu chú rể, thấy hắn nắm tay vợ quá lâu, thằng Kha đâm ghen . Tối, trước lúc lên giường, nó uống liền hai cốc rượu ngang quốc doanh rồi đấm ứng Thị Liễu một quả vào ngực làm cô này tức thở mất mấy ngày.

 

2

 

Ngôi nhà của vợ chồng Kha Liễu cuối xóm Trại Cá, vì mới ra được mấy vụ nên cây cối còn thưa thớt nhưng hàng rào tre chung quanh đã đan kín. Thằng Kha vào Nam bốn tháng Liễu mới nhận được thư. Tháng trước, làng Cùa báo tử ba người. Mới đây nghe tin thằng Dõng con nhà Trịnh Doãng mất tích, cái Liễu càng thêm lo lắng. Cuối năm, xã Đoàn Kết thêm bẩy người hy sinh, làng Cùa ba nhân mạng trong đó có Tào Văn Kha. Tại lễ truy điệu các liệt sỹ, Tào Văn Hỗ nhìn thấy bộ mặt giả nhân giả nghĩa của tay phó chủ nhiệm, uất quá lại bị chứng xung huyết ngất tại chỗ. Đám thanh niên phải xúm vào khênh sang trạm xá tiêm thuốc trợ tim. Tối hôm ấy, Bùi Quốc Tầm dẫn đầu đoàn đại biểu của xã đến chia buồn :

- Thay mặt đảng uỷ, uỷ ban, chúng tôi vô cùng thương tiếc đồng chí Tào Văn Kha đã hy sinh anh dũng vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và thành thật chia buồn cùng gia đình. Mong đồng chí biến đau thương thành hành động cách mạng, tiếp tục đảm đương trọng trách của mình cùng tập thể đảng uỷ, uỷ ban lãnh đạo nhân dân hoàn thành nhiệm vụ.

 

Ứng Thị Liễu khóc đỏ cả mắt, giọng khản đặc, mệt nhoài,thỉnh thoảng mới hờ được một tiếng. Hỗ Chột như đứt từng khúc ruột. Ông ta thương con bao nhiêu thì căm thù Tiệp Cò bấy nhiêu, thề sẽ trả bằng được mối hận này.

 

Sau lễ truy điệu được nửa tháng, một đêm  Tiệp Cò mò đến xóm Trại cá.

Giọng hắn thì thầm:

-  Liễu ơi, mở cửa.

Cô nàng biết ngay là gã phó chủ nhiệm nhưng vẫn hỏi:

-  Ai?

-  Anh...đây.

Liễu vẫn giữ chốt cửa:

-  Có việc gì mà anh đến lúc này? Để mai.

-  Không được mai tôi phải đi học ở tỉnh một tháng.

Cửa mở, Tiệp cò lẩn vào nhanh một cách kỳ lạ, gần như không có tiếng động, ôm choàng lấy cô vợ liệt sỹ, đôi môi nhớt nhoát như môi nhệch, lướt trên má cô ta, giọng hổn hển:

-  Cặp mắt của em hút hồn anh. Anh yêu em.

Liễu cười nhạt:

-  Còn vợ anh? Nó đến đây xé xác tôi ra thì đẹp mặt.

Tiệp hạ giọng van vỉ:

-  Anh không yêu nó. Nó như con quỷ cái.

Liễu dằn giọng:

-  Anh không sợ bố chồng tôi à? Ông ấy là chủ tịch xã. Trêu vào vợ liệt sỹ hãy coi chừng.

Tiệp cười nhăn nhở:

-  Chồng em chết rồi bây giờ còn việc gì mà phải giữ gìn, con gái tuổi xuân có hạn.

Liễu giãy giụa, một cánh tay tuột ra và liền tát cho Tiệp Cò một cái.

-  Thôi đi, đồ hèn!

 

Hắn xoa má, giọng tỉnh khô:

-  Em đẩy thằng bé nằm sát vào trong.

Liễu lùi lại định mở cửa chạy ra ngoài nhưng tay phó chủ nhiệm đã kéo tuột cô ta lên giường, giọng thì thầm nhưng dứt khoát:

-  Thôi , đừng làm bộ nữa!

 

Hai người thậm thụt với nhau được hơn nửa tháng thì chuyện xảy ra. Một đêm có tiếng gõ cửa. Liễu vội choàng dậy nghĩ là Tiệp Cò. Nhưng không phải. Thằng Kha về.  Bị sốc, cô ta lặng đi, người mềm nhũn ngã vào cánh tay chồng. Kha sờ soạng tìm hộp dầu trong túi xoa vào thái dương vợ .  Một phút sau Liễu tỉnh lại bảo:

- để em châm đèn.

Kha nắm tay vợ  nói khẽ:

- Đừng thắp đèn.

- Sao lại thế?

Lúc ấy hắn mới nói thật:

- Anh trốn về.

Cô vợ hốt hoảng kêu lên:

- Thôi chết! Sao lại đến nông nỗi này?

Tào Văn Kha vội lấy tay bịt miệng vợ, giọng khàn khàn:

- Chuyện dài lắm, sau này anh sẽ nói.

Liễu tức tưởi khóc:

- Xã đưa giấy báo tử từ đầu tháng chạp, đã làm lễ truy điệu.

- Thế thì tốt. Con đâu?

- Nó nằm ở giường trong.

- Trông nó thế nào?

Liễu gật đầu:

- Khoẻ, giống anh lắm.

- Chuyện anh về không được cho ai biết, kể cả thày, nhớ chưa?

-Nhớ rồi, chả phải dặn.

Ngay đêm hôm ấy, hai vợ chồng đào một chiếc hầm trong gian buồng. Đất xúc lên cho vào đôi thùng gánh nước chuyển ra đổ xuống ao bèo sau nhà. Đồ đạc của Tào Văn Kha chỉ có chiếc ba lô lép kẹp, một bộ quân phục đã sờn, chiếc xẻng quân dụng có cán gập và con dao găm Mỹ. Chiếc xẻng công binh lúc này tỏ ra được việc. Tầm bốn giờ sáng thì xong hầm. Nó được đào cách tường bốn mươi phân, phía ngoài để chiếc hòm khoá chuông làm vật che chắn. Nắp hầm tạm thời đậy bằng tấm thảm áo ngô. Nó rất tiện lợi để người ở dưới, nếu cần có thể đội lên được nhưng lại khá bất ngờ nếu ai vô tình vào buồng.

 

Thu dọn đồ đạc xong, ứng Thị Liễu bế thằng Khả ra chiếc giường tre gian ngoài. Nó vẫn ngủ mệt. Cô ta múc nước cho chồng rửa ráy chân tay, lau người, sau đó khoá cửa buồng để hắn ngủ rồi xuống bếp nấu cơm. Tào Văn Kha vừa đi nhờ xe vừa cuốc bộ đúng hai tháng chín ngày mới về đến nhà. Lúc ăn cơm trời đã hơi rạng, Liễu nhìn thấy chồng mà phát khiếp. Kha mặc bộ đồ lính bạc phếch, tay áo, cổ áo, ống quần dính bê bết một thứ bụi đất hung hung đỏ. Mặt hắn hốc hác, da sần sùi tái nhợt một cách đáng ngờ. Đó là nước da của những người mắc chứng sốt rét rừng có thể lên cơn bất cứ lúc nào. Ban ngày thằng Kha ở trong buồng, có người đến hắn lặng lẽ xuống hầm. Ban đêm hắn mới lần mò ra ngoài , nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng thôi. Thời chiến Uỷ ban xã đã có lệnh cấm để lộ ánh sáng ban đêm. Lực lượng dân quân tuần tra thường xuyên xuất hiện. Họ mà nhìn thấy thì toi đời.

 

Mấy năm gần đây những anh chàng “bê quay” vác mặt về làng thì nhục nhã hết chỗ nói. Chủ tịch Tào Văn Hỗ, mỗi lần đến động viên chia tay đám tân binh sắp lên đường cuối bài phát biểu thế nào cũng nói vài lời răn đe :

- Đào ngũ là phản bội Tổ Quốc, tội danh tương đương với nguỵ quyền nguỵ quân thời trước. Các đồng chí hãy nâng cao tinh thần Cách mạng xứng đáng là trai làng Cùa.

 

Chủ tịch Hỗ không nói chơi vì năm trước đã xảy ra vụ thằng Củng ở xóm Cầu Đá. Cuối tháng chín, đơn vị thằng Củng huấn luyện ở Mai Siu xong, có lệnh hành quân vào Nam. Đến Lệ Thuỷ Quảng Bình hắn giả vờ đau bụng lùi lại sau, lúc nhập nhoạng thì trốn vào rừng. Đại đội cử người tìm suốt đêm vẫn biệt tăm đành phải báo cáo tiểu đoàn. Hoá ra Trần Củng không quay về ngay mà hắn rẽ nên rú Lài, tìm được hốc đá kín đáo tá túc  ở đó mấy ngày, đợi đơn vị hành quân khá xa mới quay về Bắc. Nhưng phải nói thằng này có cái óc bã đậu. Đáng lẽ ra loại lính đào ngũ như hắnkhông nên vào làng vội cho dù cô vợ trẻ mới cưới trước lúc nhập ngũ đang ngày đem khắc khoải mong chờ, mà tìm nơi an toàn ở tạm một thời gian, nghe ngóng động tĩnh rồi hãy tính. Đằng này chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, hắn chui ngay vào lều vó bè nhà lão Bong ở ngòi Mác. Hồi đêm mưa to lão Bong bỏ vó đi soi ếch, gần sáng mới về, vừa bước vào đã thấy một gã con trai tóc tai bờm xờm, ngủ say như chết . Lão vó bè sợ hết hồn, ù té chạy về báo cho xã đội trưởng. Cung Văn Luỹ lập tức huy động cả một trung đội dân quân , súng ống nai nịt gọn gàng, bí mật tiếp cận chiếc lều theo nguyên lý vận động chiến, tóm sống tên “bê quay” trong lúc hắn vẫn còn ngủ mê mệt sau chặng đường dài đói khát.

 

Chuyến ấy Trần Củng bị trói giải lên huyện. Trước ông cán bộ điều tra Đoàn Danh Thẩm, hắn phải viết bản tự khai và trả lời hàng trăm câu hỏi đủ loại, sau đó vào trại giam ba tháng. Thời kỳ này Củng và đồng bọn phải lao động cật lực mà không được tiếp xúc với người nhà. Chịu hình phạt đến tháng thứ hai, Củng nhớ vợ quá, một đêm hắn vượt rào bỏ trốn nhưng vừa ra khỏi trại chừng bốn chục thước thì bị dân quân tuần tra làng Si bắn chết...

Một đêm cái Liễu hỏi:

- Sao anh trốn về?

 

Thằng Kha bảo:

- Tiểu đội có mười ba thằng, đánh trận đầu chết năm, trận thứ hai mất bốn, ba đứa bị thương còn anh may thoát được, bơi qua sông sau đó lạc đơn vị, lần mò trong rừng hàng tháng không tìm thấy đường ra, xuýt chết đói. Thằng Dụ ở Đậu Khê gãy chân trái bị hai thằng lính nguỵ bắt, chẳng biết sống hay chết. Anh chỉ muốn về thăm con và em mấy hôm rồi đi.

- Cái Liễu hạ giọng thì thầm :

- Hay là em bảo với thầy. Thầy là chủ tịch xã chả lẽ lại không có cách nào...

Thằng Kha vội xua tay:

- Ông ấy mà biết thì giết chết anh mất, cứ để ít hôm xem sao đã.

Những ngày này thằng cu Khả được gửi về bên ngoại, vài hôm cái Liễu mới đón về một lần. ứng Thị Sót thương thằng cháu mồ côi lắm, chẳng nghi ngờ gì.

 

Hôm ấy là mười sáu âm lịch. Trời sáng như ban ngày. Vào khỏang mười giờ đêm , bên ngoài có tiếng gõ nhẹ. Liễu bảo chồng:

- Anh xuống hầm đi.

Thằng Kha hỏi khẽ:

- Ai mà đến khuya thế?

- Chắc là mấy ông dân quân tự vệ kiểm tra hộ khẩu đột xuất.

Vừa khép cửa buồng xong, Liễu nhón chân ra cửa.

- Liễu ơi!

 

Không thấy tiếng trả lời, một bàn tay luồn qua chỗ vách thủng phía trên ngõng khoá rút chốt cửa:

- Đừng vào! -Cái Liễu thì thầm. Nó đứng nghiêng , lấy tay tỳ vào cánh liếp nhưng sức đẩy phía ngoài mạnh hơn, cửa bật ra. Tiệp Cò nhanh tay ôm thốc lấy nhân tình :

- Sao không cho anh vào?

- Hôm nay tôi mệt.

- Anh có mang cho ít thuốc bổ nữa đây.

-Anh về đi, nếu không tôi kêu lên đấy.

Tay phó chủ nhiệm sẵng giọng:

- Hôm nay cô làm sao thế?

- Anh là thằng đểu. Anh hại đời tôi. Bố chồng tôi mà biết thì...

Tiệp vuốt tóc cái Liễu bảo:

- Thằng Kha chết rồi, bây giờ em là người tự do, lão Hỗ Chột không có quyền ngăn cấm hạnh phúc.

Đúng lúc ấy thằng Kha đẩy cửa buồng bước ra, tay cầm con dao găm quát lên:

- Nhưng tao thì có quyền đấy. Tiệp Cò, còn nhớ thằng này là ai không?

 

Tay phó chủ nhiệm sững người nhưng cũng đủ bình tĩnh quờ khẩu AK báng gập vẫn mang theo để ở khe cửa bật chốt an toàn rôì cười gằn bảo:

- Thì ra mày là Tào Văn Kha mới trốn bộ đội về. Cô Liễu là vợ liệt sỹ chứ không phải vợ một thằng “bê quay” hèn nhát. Bây giờ mày là thằng đã hy sinh, uỷ ban mới tổ chức truy điệu rất long trọng. Mày định làm trò bật nắp áo quan đứng dậy phải không?

 

Thằng Kha hình như đang lên cơn sốt, người run lên hoa con dao lại phía giường tìm Tiệp Cò:

- Lũ chúng mày mới là đồ hèn. Chúng mày tìm mọi cách đẩy thanh niên làng Cùa vào chiến trường rồi thoả sức bóc lột xã viên, tha hồ tiệc tùng, chè chén, tán tỉnh làm nhục vợ bộ đội. Hôm nay tao phải cho thằng chó dại này bài học.

Tiệp Cò lùi đến cuối giường cười gằn, rê nòng súng về phiá Tào Văn Kha, giọng vẫn cố ghìm để cuộc đấu khẩu bất đắc dĩ khỏi bị bại lộ :

- Cậu tiến một bước nữa là tôi bắn.

 

Cái Liễu run rẩy, mồ hôi toát khắp người như vừa tỉnh dậy sau cơm mơ khủng khiếp. Nó ngồi thụp xuống nền nhà rên rỉ. Cảnh ngộ của nó lúc này thật khốn nạn. Thôi thì một sống hai chết, Liễu vùng dậy đứng chen vào giữa hai người đàn ông giọng thảng thốt:

- Các người giết tôi đi. tất cả là tại tôi. Sao trời không giáng sấm sét để tôi chết đi cho rảnh mà bắt phải nhục nhã thế nay?

 

Lưỡi dao của thằng Kha rơi xuống nền nhà. Tiệp Cò khoá chốt an toàn khẩu AK.

- Tôi không có lỗi cậu Kha ạ.- Tay phó chủ nhiệm thong thả nói- Trong chuyện này cùng lắm là bị khai trừ khỏi đảng về khuyết điểm quan hệ bất chính với một phụ nữ goá chồng. ở đời ai học hết chữ ngờ. Giả dụ cậu không trốn về làng thì làm gì có cuộc gặp khó chịu hôm nay. Cậu cũng nên biết ở làng Cùa chưa có gia đình liệt sỹ nào được quan tâm như mẹ con cô Liễu.

- Còn gì nữa nói hết đi!

- Bố cậu tuy là chủ tịch xã nhưng nói thật, khoá tới chẳng những mất chân đảng uỷ  mà còn có thể bị rầy rà vì hồi làm chủ nhiệm hợp tác xã  đã dung túng cho thẳng Tiếm và thằng Khắc ăn cắp thóc ở kho đình Đụn rồi đánh chết thằng Dọng khi bị nó phát hiện. Lão Doãng sau hơn bốn năm ngồi tù giờ lại phát đơn kiện. Tình hình nhà cậu gay đấy. Hãy nghe tôi, tìm cách lánh đi đâu vài năm mà làm ăn, đợi mọi sự lắng xuống rồi về.

- Câm đi! – Thằng Kha gầm lên giọng uất nghẹn- Đây là nhà tao thách đứa nào dám bước qua cửa.

 

Tiệp Cò cười nhạt:

- Chuyện ấy thì dễ, cậu không phải đợi lâu đâu.

 

*

 

Sáng hôm sau, cái Liễu cùng cánh phụ nữ đội bẩy xóm Trại Cá xuống đồng Đấu làm cỏ lúa. Gần trưa bà Nhinh hớt hơ hớt hải chạy xuống gọi:

- Cái Liễu về ngay con mày bị làm sao ấy.

Liễu hấp tấp chạy về. Bà Sót đã đưa thằng Khả ra trạm xá. Cô y sỹ nhìn thấy mặt thằng bé tái xám, bụng nó cứ ưỡn lên khóc mãi không thôi, nghi là bị giun chui cuống mật liền viết giấy cho đi bệnh viện. Bệnh viện sơ tán cách làng hơn chục cây số, Liễu chẳng kịp báo với nhà chồng mà mượn xe đạp cho con đi ngay, ứng Thị Sót ngồi đằng sau bế cháu. Liễu gò lưng đạp. Giữa đường thủng xăm phải tìm mãi mới nhờ được người vá. Đến phòng cấp cứu mới hay, thì ra thằng Khả bị đau ruột thừa phải mổ. Sáng hôm sau Liễu bảo bà Sót:

- U ở đây trông cháu, tôi phải về lấy thêm ít quần áo.

 

Nó đạp xe ra cổng bệnh viện lòng như lửa đốt vì từ sáng hôm qua đến giờ thằng Kha bị nhốt trong buồng chưa được ăn gì. Vừa mở cửa, cái Liễu bỗng lặng người. Thằng Kha nằm sấp, chân tay co quắp, cái đầu ngoẹo sang một bên. Nó khẽ chạm vào chồng nhưng thằng Kha đã lạnh. Mùi tử khí thoát ra làm cái Liễu rùng mình, vội chạy đi tìm bố chồng. Thật may lúc này Tào Văn Hỗ vẫn ở uỷ ban. Cô con dâu bỗng oà lên khóc:

- Thầy sang nhà, con có chuyện muốn nói.

- Việc gì cứ để sau, bây giờ chị phải lên bệnh viện với thằng bé đã.

- Không, thầy phải sang ngay, anh Kha...

- Hả? Chị bảo cái gì?

Về đến xóm Trại Cá Liễu vừa mở cửa Tào Văn Hỗ đã nhảy bổ vào. Nhìn tư thế nằm của thằng con trai, ông chủ tịch biết ngay nó chết bởi lên cơn sốt ác tính. Ngẫm nghĩ một lúc ông ta bảo con dâu:

- Đằng nào nó cũng chết rồi, chị không được nói với ai chuyện này vì khoá tới thầy dự kiến vẫn ra ứng cử đảng uỷ và hội đồng nhân dân.

Liễu quệt nước mắt, thổn thức:

- Con hiểu nhưng còn việc mai táng?

- Tạm thời phải liệm cho nó rồi để dưới hầm vậy, sau này hẵng hay.

 

 

Ký ức làng cùa-  Vĩ Thanh

 

1

 

Năm chín hai, làng Cùa xảy ra mấy sự kiện lớn làm cả vùng Ba Tổng xôn xao. Sự kiện thứ nhất là Trịnh Doãng được con trai bảo lãnh sang Pháp làm một chuyến du lịch mấy tháng. Chuyện bắt đầu từ việc thằng Dõng đi bộ đội được một thời gian thì có tin đồn là mất tích. Mất tích hay đầu hàng địch? Không ai bảo ai, từ cán bộ đến xã viên đều mặc nhiên nhìn vợ chồng hắn như là bố mẹ của kẻ phản bội.

Ban đêm, thỉnh thoảng thức giấc linh tính mách cho hắn biết, hình như có kẻ nào đó rình mò sau nhà.

- Mặc mẹ chúng mày!- Doãng chửi đổng- Có giỏi thì ngày nào cũng đến đây canh trộm cho ông.

Nói thế nhưng hắn cũng mài sẵn cây mác, rót thêm dầu vào chiếc đèn ló đề phòng bất trắc.

 

Giải phóng miền Nam được ba tháng, thanh niên Ba Tổng, trừ những trường hợp có giấy báo tử đều lần lượt kéo nhau về. Anh nào cũng mang theo chiếc khung xe đạp và con búp bê nhựa to đùng nhưng khá xấu. Riêng thằng Dõng, hết năm  bảy lăm qua năm bảy sáu vẫn bặt vô âm tín, cứ vài tuần Doãng lại đạp xe lên huyện đội hỏi, lần nào cũng vậy người cán bộ chính sách trả lời ”Chưa xác minh được”. Tuy không nói ra nhưng Doãng cho rằng nó đã hy sinh mà đồng đội không tìm thấy xác. Thật khổ cho nó. Con người ta chết được công nhận liệt sỹ còn con mình chết sao mà mờ ám thế?

Những ngày tháng chờ đợi càng dài niềm hy vọng của Doãng càng vơi. gặp người làng nếu ai vô tình gợi đến chuyện ấy là hắn nổi cáu:

- Ông đừng có mà xỏ xiên, nay mai người ta cấp bằng liệt sỹ cho thằng Dõng rồi khối đứa trắng mắt ra.

 

Doãng già đi trông thấy. Chưa đến bốn lăm mà tóc đã lốm đốm hoa râm, khuôn mặt nhằng nhịt những vết tàn nhang, bình thường vốn đã khó coi giờ nhăn nhúm như chiếc bị rách trông càng hãm tài. Đã thế cặp môi cá ngão dày hơn mức bình thường càng ngày thêm một giẩu ra đẩy lưỡi về phía sau làm hắn nói rất khó khăn. Thỉnh thoảng Doãng lại hỏi thằng Dung:

- Mày gặp các ông chỉ huy đơn vị thằng Dõng người ta bảo thế nào?

- Con đã nói rồi, thày cứ hỏi mãi. Họ bảo anh ấy có khả năng bị địch bắt rồi  chúng thủ tiêu.

- Thế có khốn nạn không cơ chứ. - Doãng thở dài thườn thượt- Đợi ít lâu nữa tao với mày vào trong ấy xem  sao. Chẳng nhẽ họ lại vô trách nhiệm với người lính đến như thế.

-Được rồi con đi. - Thằng Dung nhấm nhẳng- Nhưng thầy phải cưới cưới cái Nụ cho con.

- Mày ra điều kiện cho tao đấy hả?- Doãng nói lập bập - Con với cái.

 

Tiếp đó là hơn chục năm hợp tác xã nông nghiệp làm ăn thất bát. Làng Cùa xơ xác. Đói bụng đầu gối phải bò. Hơn bốn chục gia đình dắt díu nhau vào tận Đắc Lắc khai hoang trồng sắn để "tự cứu mình trước khi trời cứu” như ông Tổng bí thư đã khuyến cáo. Lũ con Trịnh Doãng lấy vợ ra ở riêng chẳng thằng nào theo nghề của bố. Thằng Dung kiếm được ít vốn chạy tuyến biên giới buôn hàng Trung Quốc. Thằng Dị cùng với mấy anh bạn đấu thầu khu đồng trũng gần rừng Hóp thả cá và nuôi vịt đẻ. Riêng thằng Dọi không chịu cảnh đất chật người đông chỉ độc canh cây lúa dắt vợ lên Tây Bắc lập nghiệp. Doãng vẫn túc tắc thả ống lươn kiếm đồng ra đồng vào. Có điều bí mật công nghệ đã bị đánh cắp, làng Cùa hình thành đội ngũ đánh bắt loại bò sát da trơn khá đông đảo, chuyên cung cấp hàng cho con buôn mang lên cửa khẩu Móng Cái , thành ra lươn ít dần có nguy cơ tuyệt chủng. Một hôm ngồi nhắm rượu với lươn om bên cạnh bà vợ kém mắt, Doãng than thở:

- Nghề của tôi mạt vận đến nơi rồi bà ạ.

 

Giữa năm , Doãng nhận được thư của thằng Dõng từ Pháp gửi về. Vậy là nó còn sống nhưng sao lại theo bọn thực dân đế quốc? Doãng giận lắm định xé thư đi nhưng thằng Dung ngăn lại:

- Thầy nóng tính quá, cứ đọc hết đi xem anh ấy nói gì đã.

Doãng lườm con:

- Nó bỉ mặt tao. Chuyện này mà lộ ra thì nhục với cả làng.

Dung càng đọc mặt ông bố càng tươi tỉnh. Hoá ra chuyện cũng đơn giản chứ không phức tạp như Doãng nghĩ.

 

Cuối năm bảy tư, trong trận đụng độ với một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ ở căn cứ Phước Tân, đại đội mười hai bị đơn vị thiện chiến này gây tổn thất nặng. Trung đội của Dõng toàn lính mới, tuy chiến đấu dũng cảm nhưng chưa có kinh nghiệm đối phó với địch ở địa hình bán sơn địa phức tạp nên hy sinh khá nhiều, số còn lại, trong đó có Trịnh Dõng bị trực thăng hốt, đưa về trại giam Phước Lộc. Hàng ngày lính ta phải lên rừng chặt gỗ khai thác đá ở sườn núi Ông Tượng. Một lần đi làm, nhận thấy bọn quân cảnh giám sát có phần lỏng lẻo, nhóm sơn tràng của Dõng đánh bị thương một tên, trói hai tên khác, nhét giẻ vào mồm rồi rủ nhau trốn vào rừng. Bọn quân cảnh truy đuổi ráo riết, ngay đêm hôm ấy tất cả đều bị bắt lại. Thằng Dõng nhận hết về mình, như thế có nghĩa là chấp nhận hình phạt xử bắn. Viên trung tá giám thị, người gốc Phát Diệm, thấy gã Việt Cộng trẻ măng, lanh lợi, lại có hành động nghĩa hiệp, trong lòng phục lắm, gợi ý:

- Tôi có thể miễn tội chết cho cậu nhưng với một điều kiện.

- Điều kiện gì?- Dõng nhìn viên giám thị đầy vẻ cảnh giác, hỏi cộc lốc.

- Đơn giản thôi, làm lính hầu cho tôi.

Dõng ngẫm nghĩ một thoáng rồi gật đầu:

- Tôi chấp nhận nhưng không được bắn những người kia.

- Cậu là thằng đầu têu mà tôi còn tha huống hồ anh em khác.

 

Cuối tháng chạp tay trung tá có dự cảm cuộc chiến sắp tàn, chế độ Sài Gòn khó mà trụ vững được nếu không thoát ra mau tất sẽ phải chung cảnh đắm tàu, bèn xin giải ngũ đem cả gia đình sang Pháp. Ông ta bảo Trịnh Dõng :

- Cậu được tự do nhưng theo tôi nên xác lập cho mình một tương lai chắc chắn ngay từ bây giờ.

- Trung tá nói sao?

- Từ nay đến lúc kết thúc chiến tranh không ai biết được chuyện gì xảy ra với những tù binh như cậu, cho nên, tốt nhất hãy di tản cùng chúng tôi.

- Nhưng còn bố mẹ, anh em tôi ở miền Bắc?

- Nhà cậu vẫn còn ba gã con trai đúng không?- Viên giám thị kiên nhẫn thuyết phục - Vả lại, Bắc Việt đang đói và còn rất lâu mới thoát ra khỏi ảnh hưởng tai hại của cuộc chiến tranh vô nghĩa này. Khi đã có chút ít tài sản trong tay, về nước lúc nào chẳng được.

Nghe ông ta tán, thấy cũng có lý, Dõng gật đầu:

- Thì cứ thử một chuyến xem sao. Ông bố tôi suốt đời làm nghề thả ống lươn, có lẽ nằm mơ cũng không dám nghĩ đến chuyện sang Pháp.

 

Sau mười tám năm tha hương, Dõng biết quê nhà đã có nhiều thay đổi. Chính quyền không còn định kiến với những người vì hoàn cảnh bắt buộc phải rời Tổ quốc kiếm sống ở phương trời xa. Nó dự định về thăm làng Cùa.

 

Mấy tháng sau, Dõng đưa vợ con về thật.  Vợ nó chính là con gái út viên trung tá giám thị trại tù binh Phước Lộc năm xưa. Vợ chồng Dõng ở nhà một tháng. Nó biếu họ hàng, làng xóm quà cáp chu đáo, giúp vốn các em làm ăn và cho bố mẹ đủ số tiền xây một căn nhà hai tầng đẹp nhất vùng Ba Tổng. Trước khi về Pháp. Dõng ra uỷ ban xin góp năm ngàn đô la để xây trạm xá. Chủ tịch xã Đoàn Kết bấy giờ là Nguyễn Đình Quyết con trai ông Nguyễn Đình Phán chỉ xấp xỉ tuổi thằng Dõng. Anh này tốt nghiệp đại học Nông nghiệp khoa quản lý ruộng đất mới trúng cử hội đồng nhân dân khoá mười hai hồi đầu năm.

 

Trịnh Dõng đương nhiên thành Việt kiều yêu nước. Lão Doãng bao nhiêu năm vì cái nghi án mất tích của con trai, nay được nở mày nở mặt với hàng tổng, trong lòng vô cùng tự đắc. Sau tết nguyên đán Dõng gửi giấy bảo lãnh cho bố sang Pháp chơi mấy tháng. Lão đến Paris cứ như người từ hành tinh khác xuống vậy. Gặp cái gì lạ lão cũng “ồ, à” chẳng khác gì dân làng Cùa ra thành phố nhìn thấy bọn manơcanh ăn mặc hở hang trong cửa hàng may đo. Thằng Dõng là chủ cửa hàng cơm bình dân với những món ăn thuần tuý Việt Nam , nổi tiếng nhất là lươn, ếch, ba ba. Lão không thể hiểu, ở cái xứ sở cách quê nhà cả chục ngàn cây số, quanh năm giá lạnh này mà chúng vẫn kiếm ra được những thùng lươn béo mẫm phục vụ khẩu vị của các thượng đế tha hương. Sang đây với con, Doãng đâm ra nghiện món bánh mỳ sốt vang thịt bò. Người lão đẫy ra. Những vết rỗ nhằng nhịt hình như đang lặn dần. Khuôn mặt nhăn nhúm vốn rất khó coi của lão giờ dãn ra bóng nhẫy, linh động đầy sinh khí. Hết đi thăm các danh lam thắng cảnh, lại ở nhà mở máy thu hình (Toàn chữ Tây người Tây) xem mãi cũng chán, Doãng đòi về. Vợ chồng Dõng giữ mãi không được đành phải chiều ông bố trái tính. Trước khi lên máy bay, Dõng đưa cho ông lão thả ống lươn ít tiền tiêu vặt, còn lại nó gửi theo lối phát nhanh để đảm bảo an toàn. Về đến nhà, như lời thằng Dõng dặn, Doãng trích ra năm ngàn đô la tặng xã để xây trụ sở theo gợi ý của chủ tịch Nguyễn Đình Quyết. Số tiền còn lại lão bàn vơí vợ đem gửi ngân hàng lấy lãi. Từ đấy Trịnh Doãng bỏ hẳn nghề thả ống lươn.

 

Trụ sở Uỷ ban xã xây hai tầng mặt tiền ốp cẩm thạch, mái chóp đẹp nhất huyện Nam Thành. Để ghi nhớ công lao của Trịnh Doãng có được người con trai làm vẻ vang cho quê hương, chủ tịch Nguyễn Đình Quyết đề nghị dựng tượng lão ở phía sau khuôn viên. Công trình hoàn tất, rất nhiều người đến xem và bình phẩm. Đó là một hình người thô kệch bằng chất liệu bê tông cốt thép, đứng ưỡn ngực trên bệ cao chiềng ra trước thiên hạ bộ mặt vênh váo do nhà điêu khắc Quang Đệ nổi tiếng lãng tử của Hội văn nghệ tỉnh sáng tác.

 

Dạo này bụng Trịnh Doãng mỗi ngày một to vì sâm nhung và các món cao lương mỹ vị. Bởi thế, sáng nào lão thả ống lươn cũng cưỡi chiếc xe Peugéot cánh trả qua lối cổng chùa Vĩnh Hưng lên đường trục liên xã sang Phố Phủ làm vại bia cỏ, bát tiết canh và tô phở bò. Vừa ăn Doãng vừa thả lời ong buớm tán tỉnh bà chủ quán phốp pháp tuổi cỡ tứ tuần có cặp mắt đa tình. Trên đường về lão ghé vào quán chị Nhài mua cho vợ cặp bánh dày giò rồi đạp xe chậm rãi như người tập thể dục dưỡng sinh. Đến trụ sở uỷ ban thế nào lão cũng vòng ra phía sau vườn ngắm tượng của mình, có lần ngắm xong lão chép miệng bảo:

- Cái tay Quang Đệ rượu vào nói phét một tấc đến giời. Tượng chẳng giống mình tý nào. Thật phí tiền.

 

2

 

Sự kiện thứ hai là thứ trưởng Lê Văn Nghiên về làm giỗ bố. Anh ta ngồi trên chiếc Toyota đời mới có cả thư ký riêng và nhân viên bảo vệ đi kèm. Hồi cuối năm ngoái, Nghiên đã cử người mang tiền về xây cho mẹ và anh ngôi nhà ba tầng ở đồng Chó Đá. Ngôi nhà thiết kế theo kiểu biệt thự Pháp thế kỷ mười chín, xung quanh có tường bao rất nổi nhưng lại khá lạc lõng ở một xóm nghèo người ở lẫn với ma và toàn những căn hộ lụp xụp, lợp rạ, tường trình bằng đất sét. Quan khách khá đông, phần lớn là ở Hà Nội về, toàn xe hơi xịn. Về phía địa phương, ông thứ trưởng mời toàn bộ ban thường vụ tỉnh uỷ, ban thường vụ huyện uỷ và tất cả các chức sắc xã Đoàn Kết. Những ông này phần lớn là người làng Cùa. Mấy hôm trước mưa to, đường làng toàn đất thó, nhão nhoét như cháo bột, có chỗ ngập sâu đến bụng chân lổn nhổn những gạch vỡ, vỏ ốc với phân trâu bò tạo thành một thứ hỗn hợp đặc biệt bốc mùi khăn khẳn, mới ngửi thấy đã phát lộn mửa. Có thể nói, những trục giao thông chính của làng Cùa lúc này đã biến thành các con kênh bùn vì vậy, tất cả các phương tiện sang trọng đều phải để ở sân đình, quan khách nhất loại tháo giầy vén quần lội ra đồng Chó Đá.

 

Sau ba mươi bảy  năm dịp này anh em họ Lê mới cải táng cho bố. Việc sang cát đáng lẽ được làm từ năm sáu tư. Lần ấy bà Hài đi chợ Cháy nhờ một thầy phong thuỷ xem hộ thế đất. Ông này mới đi tù về vì tội hành nghề mê tín dị đoan, xua tay chối bai bải:

- Bà về đi. Tôi giải nghệ rồi. Công an họ nhìn thấy thì chết.

 

Bà Hài phải đặt lễ hai đồng bạc, nói bã bọt mép ông ta mới chấp thuận.

- Bà chỉ cần nói ngày tháng năm sinh, năm mất và quê quán của ông nhà để tôi đoán xem sao đã.

- Dạ thưa thầy, nhà tôi tuổi ất Mão, sinh tháng tư, ngày mười bẩy , giờ Dần, mất ngày mùng bẩy, tháng giêng năm ất Mùi.

Ông thầy bấm đốt ngón tay tính toán một lúc rồi phán:

- Tôi đoán không nhầm thì người này bị hàm oan, bất đắc kỳ tử, cát táng lúc này không có lợi vì uất khí tích tụ lâu ngày chưa giải được, động vào sẽ bị thương tổn.

Đêm hôm ấy vào khoảng canh ba bà Hài đang thiu thiu chợt thấy một người mặc bộ bà ba nâu ngang lưng đeo khẩu pạc hoọc đi đôi giầy da cao cổ, đẩy cửa mạch lẻn vào. Bà ta sợ quá định kêu lên thì người ấy bảo :

- Vận đây mà, mình không nhận ra tôi sao?

- Ông đi đâu chừng ấy năm bây giờ mới về?

- Vẫn quanh quẩn ở đồng Đấu thôi.- Bóng ma thong thả nói- Tôi về báo để mình biết, chỗ ở hiện nay đang yên ổn, chưa nên rời đi nơi khác, đến năm Nhâm Thân hãy thay áo cho tôi.

 

Nằm dưới đất gần bốn mươi năm nhưng hài cốt của Lê Văn Vận vẫn còn nguyên vẹn, đen bóng như sừng trừ chiếc xương quai hàm bị vỡ vì trúng đạn. Công việc hoàn tất trước bốn giờ sáng do Trịnh Doãng chủ trì. Lão làm việc này không phải vì lợi mà vì nghĩa bởi thuở còn hàn vi Doãng và Nghiên đã có mấy năm cùng thổi kèn đám ma, cay đắng ngọt bùi đã từng nếm trải. Doãng phục Nghiên vì anh ta có học, soạn điếu văn nổi tiếng, sống với anh em rất có tình còn Nghiên quý tay thả ống lươn là người bộc trực có gì nói nấy, trọng nghĩa khí, khinh tiền của, không chịu khuất phục cường quyền.

 

Ngôi mộ Lê Văn Vận nằm bên cạnh ngôi mộ bà Hai Thoả đã được chuyển về từ đồng Mả Dứa làng Tảo An  năm Kỷ Hợi, nằm ở góc nghĩa địa đồng Chó Đá, xét về quy mô, thì nhỏ hơn nhiều so với những công trình đồ sộ của cha mẹ các trọc phú làng Cùa mới nổi lên mấy năm gần đây, nhưng lại được xây dựng rât có khiếu thẩm mỹ, vừa thanh thoát vừa thể hiện được lối kiến trúc á Đông truyền thống. Trên phiến cẩm thạch ốp mặt trên, giữa nền hoa văn, khắc chìm dòng chữ rất đậm:

 

Ông Lê Văn Vận

 

Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1915 ( Tức 14 tháng tư năm ất mão ), đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, chủ tịch uỷ ban hành chính huyện Nam thành, bị toà án Cải cách ruộng đất xử bắn ngày 30 tháng giêng năm 1955 ( Tức mồng bẩy tháng giêng năm ất Mùi ), được minh oan và phục hồi danh dự tháng 7 năm 1958.

 

 

Trịnh Doãng vừa bưng mâm cỗ đặt lên cái bệ cao giữa hai ngôi mộ chợt nhớ ra điều gì vội chạy về phía sau dẫn đến một ông già để râu dài, mặc bộ quần áo gụ nhưng lại đội chiếc mũ phớt Thượng Hải, vai quàng bị cói đến trước Lê Văn Nghiên hỏi:

- Ông thứ trưởng có còn nhớ ai không?

Nghiên nheo mắt cười:

- Bác lại còn phải thử tôi. Đây là Nguyễn Đình Phán, một cây trống nổi tiếng làng Cùa, cựu thành viên đội kèn hiếu của chúng ta chứ còn ai nữa.

 

Trịnh Doãng cười ha hả rất không hợp với không khí trang nghiêm của đám cải táng, cái cổ cò rướn ra quá mức trông rất hài hước:

- Thế thì còn đợi gì nữa. Đồ nghề đã có sẵn trong chiếc bị kia, anh em ta hôm nay phải hoà tấu một tang khúc thật trọng thể để chiêu hồn cho ông chủ tịch và cụ nhà.

Lê Văn Nghiên tủm tỉm cười:

- Bác vẫn nhớ nghề hay là mấy tháng nay sang bên Tây chén sốt vang thịt bò quên sạch rồi?

- Quên là thế nào. Ta bắt đầu chứ?

 

Trịnh Doãng thổi kèn Lê Văn Nghiên kéo nhị, Nguyễn Đình Phán ngồi bệt xuống cỏ, hai tay, hai dùi lúc cắc, lúc tùng như làm xiếc với mấy chiếc trống cơm. Bản “Lâm khốc” được tấu lên ở âm vực luôn thay đổi, lúc bổng lúc trầm, lúc khoan lúc nhặt với đủ các cung bậc tình cảm, nghe vô cùng thống thiết làm cho các vị khách ai cũng phải mủi lòng.

 

Vào đúng lúc phường kèn chuyển sang khúc “Lưu thuỷ”, Trịnh Doãng dạo đoạn mở đầu bằng những âm trầm “tò tí te...” thì người thư ký đến bên Lê Văn Nghiên khẽ nói:

- Có hai bà cụ muốn gặp thủ trưởng.

 

Phường kèn tạm ngừng. Hai bà gìa tóc đều bạc trắng như cước. Một bà xách làn mây, bên trong có mấy thẻ hương. Anh em họ Lê nhận ra ngay. Bà cả Huê và bà ba Lánh. Bà Cả tuổi quá chín mươi bị phong thấp, phải chống gậy nhưng mắt còn tinh, thong thả thắp hương, chắp tay vái ba vái trước mộ bà Hai Thoả và mộ Lê Văn Vận. Bà ba Lánh năm nay bước sang tuổi tám mươi mốt đi cùng với con trai là uỷ viên thường vụ, giám đốc sở công an tỉnh. Từ khi rời làng Cùa, phải năm mươi tám năm bà mới có dịp trở lại. Bà Ba lấy trong túi ra chiếc khăn xô, thong thả thắt lên đầu, bỏ thõng hai múi ngang lưng rồi bảo Lê Văn Nghiên:

- Các anh tế kèn đi để tôi thắp cho ông ấy tuần hương.

Nhìn thấy bà ba, bà Hài chống gậy bước đến nắm tay thì thầm:

- Cảm ơn dì, không có dì giúp đỡ thì anh em thằng Nghiên chẳng bao giờ có ngày hôm nay.

Buổi tối, sau khi quan khách về, Trịnh Doãng sang nhà bà Hài rủ Lê Văn Nghiên:

- Chú sang bên tôi chén lươn om củ chuối.

Ông thứ trưởng gật đầu:

- Nhắm với rượu Tây chứ?

Doãng nháy mắt :

- Dân nhà quê chỉ khoái món “cuốc lủi”, rượu Tây thằng Dõng có đem về mấy chai đấy nhưng uống chua như cứt mèo, phí cả món nhắm.

 

Bữa rượu toàn nhắm với những món nhà quê nhưng rất rôm rả vì có cả Nguyễn Đình Phán râu dài. Rất tiếc thiếu mất lão Mộc. Lão mất từ năm tám hai, năm làng Cùa bị đói đến mức nhiều nhà phải ăn cháo sắn. Thằng Thụt con ông xếp Đáy là gã cùng đinh, ban đêm rủ lũ bợm rượu ra đồng Quan moi con trâu của hợp tác xã chết vì bệnh nhiệt thán chôn từ tối hôm trước lên, xả thịt chia nhau. Lão Mộc vừa ở nhà Nguyễn Đình Phán về, thấy tay Ba Cò xách xâu thịt vừa đi vừa nhìn lấm lét như kẻ ăn trộm liền chặn lại hỏi:

- Thịt ở đâu đấy?

Ba Cò lấy tay ra hiệu:

- Bọn thằng Thụt đang mổ trâu ở đồng Quan, nhanh chân lên may ra còn.

 

Lão đánh gộc mò đến nơi được thằng Toan “quẳng cho một miếng phải đến hơn hai cân, toàn thịt nục. Thịt trâu chết toi nhưng xào tỏi cũng dậy mùi. Đã mấy ngày liền lão mộc toàn nhai sắn khô luộc, người nhão ra có miếng thịt tươi ăn vào đến đâu mát ruột đến đấy. Trưa hôm ấy tất cả bọn chén thịt trâu đều mắc chứng bệnh quái lạ. Toàn thân toát mồ hôi, bụng căng như quả bóng, không đi đại tiểu tiện được mà thỉnh thoảng đánh rắm phì ra một thứ mùi thối khẳn còn kinh khủng hơn cả cóc chết ba nắng. Y sỹ Phát, phụ trách trạm xá xã Đoàn Kết chịu không chẩn đoán ra liền gửi tất cả lên bệnh viện huyện. Hơn ba chục chiếc võng, kẻ thì khênh, người đèo lẵng nhẵng bằng xe đạp nối nhau trên đường 228 là hiện tượng chưa từng thấy ở vùng Ba Tổng xưa nay. Sau ba giờ hội chẩn các thầy thuốc mới tìm được nguyên nhân căn bệnh tập thể tai hại này là do bà con ta ăn phải thứ thịt trâu đã nhiễm khuẩn nên bị ngộ độc ở thể cấp. Mười ba nạn nhân tử vong, trong đó phần lớn là đàn bà và trẻ con. Số còn sống chủ yếu là bọn sâu rượu. Các bác sỹ chịu không thể giải thích được hiện tượng kỳ lạ trên, Còn dân làng Cùa thì cho rằng  rượu “cuốc lủi” giết chết vi trùng.

 

Thằng Nhặt lúc ấy mới xuất ngũ, chưa vợ, đang đóng gạch thuê ở Mao Điền, có người báo, vội bỏ công việc đạp xe sang bệnh viện. Cậu ta vào đến nơi thì lão Mộc chỉ còn thoi thóp thở. Những cơn co giật làm lão kiệt sức rất nhanh. Mọi người đang định đưa lão về làng thì từ bên ngoài, một người đàn bà trùm khăn mỏ quạ lặng lẽ lách vào. Bà ta tuột vành khăn, quỳ trước người đánh gộc ghé tai nói gì đó trong tiếng nấc. Vốn nặng tai lại sắp về với tổ tiên, hẳn là lão chẳng nghe được tiếng thì thầm của Chĩnh Con, nhưng khi nhìn thấy những giọt nước mắt chảy dài trên gò má nhăn nheo, lão biết đó là những giọt nước mắt sám hối. Bằng một cố gắng cuối cùng, lão đánh gộc nhìn bà mẹ rồi đưa mắt về phía người con nuôi. Lúc ấy cậu ta đang ngồi cuối giường, bàn tay phải xoa nhẹ trên bụng lão...

Sang đến chén thứ ba , Trịnh Doãng đã ngà ngà hỏi Lê Văn Nghiên:

- Cậu phấn đấu thế nào mà lên đến cấp thứ trưởng, lũ thảo dân chúng tôi phục sát đất đấy.

Lê Văn Nghiên cười bảo:

- Gặp may thôi, chuyện của tôi chẳng khác gì chuyện Trạng Lợn.

 

Rượu vào lời ra, ông thứ trưởng thường trực Bộ X... hứng lên kể rất rành rọt đoạn đời thanh niên xung phong của mình. Năm bẩy mốt, một số đơn vị thanh niên xung phong giải thể, phần lớn anh chị em về địa phương, nhưng cũng có những người được bổ sung vào các công trường cầu đường bên Cục công trình 2. Lê Văn Nghiên về mỏ đá Trại Sen. Tại đây anh ta làm tổ trưởng tổ mìn, ba năm liền lao động tiên tiến, năm bẩy tư là chiến sỹ thi đua được bình chọn là đối tượng kết nạp đảng, nhưng lần nào cán bộ tổ chức về thẩm tra lý lịch Bùi Quốc Tầm cũng phê” Thành phần gia đình phức tạp. Bố đẻ bị tử hình năm 1955. Đề nghị không kết nạp” Phép vua thua lệ làng. Đảng uỷ xã Đoàn Kết đã nhận xét bằng giấy trắng mực đen như thế, dù lãnh đạo mỏ đá có nhiệt tình giúp đỡ đến mấy cũng đành chào thua.

Cuối năm bẩy lăm, Lúc ấy Lê Văn Nghiên đã sang tuổi bốn mươi mới cưới vợ. Vợ anh ta không phải ai khác mà chính là Thuỳ Dung. Lúc bị thương ở trạm Z35, Thuỳ Dung mê man bất tỉnh, bị bọn biệt kích kéo lên máy bay trực thăng mang về bệnh viện quân đội Việt Nam cộng hoà chữa chạy. Sau khi xuất viện, cô ta bị đày ra Phú quốc hai năm rồi được trao trả tù binh ngay đợt đầu. Tình cờ một lần qua Hà Nội, Lê Văn Nghiên gặp Thuỳ Dung ở ga Hàng Cỏ. Hai người mừng mừng tủi tủi ôn lại những kỷ niệm đầy máu và nước mắt.

 

Giải phóng miền Nam được hơn một năm. Hôm ấy rét lắm. Cả tổ đang đục lỗ mìn trên sườn núi đá chợt có chiếc Volga đen rẽ vào công trường. Một lúc sau, ông Quá, nhân viên hành chính ra gọi Lê Văn Nghiên bảo:

- Cậu tạm nghỉ xuống có người gặp.

 

Nghiên về đến lán thấy một người đàn ông còn khá trẻ, tay xách cặp da cùng với giám đốc đang ngồi chờ trong phòng làm việc. Anh ta hỏi bằng thứ giọng miền Trung khá nặng:

- Thưa... đồng chí là Lê Văn Nghiên, người làng Cùa?

- Vâng, tôi đây... ông là...- Anh thợ khoan thoáng giật mình cảnh giác dò xét vị khách lạ.

- Xin hỏi, đồng chí trước đây đã ở đơn vị thanh niên xung phong C9 và trạm Z35?

Nghiên xuýt bị choáng khi chợt nhớ đến cái chết của Chu Quang Sầm, nhưng rồi anh ta vẫn giữ được dáng vẻ tự nhiên bảo:

- Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ được Tổng đội cấp giấy cho chuyển sang mỏ đá, nếu cần xác minh thêm xin mời các đồng chí về uỷ ban xã Đoàn Kết.

- Việc là thế này.- Người khách lấy trong cặp ra bức thư có dấu Quốc huy đưa cho Nghiên - Tôi được lệnh của chú Năm  mời đồng chí về Hà Nội.

Lê Văn Nghiên thở nhẹ:

- Ông Năm Khương ở bộ chỉ huy mặt trận R...?

- Dạ đúng. mời đồng chí lên xe, ta đi ngay kẻo chú Năm chờ.

 

Chuyến ấy, Lê Văn Nghiên đi làm cả mỏ đá xôn xao còn Thuỳ Dung thì phấp phỏng. Mãi đến tháng chạp năm sau anh ta mới về chuyển cho vợ vào Nam. Lúc ấy mọi người mới hay, Nghiên đã được kết nạp đảng và bổ nhiệm chức vụ phó tổng giám đốc tổng công ty Haticô. Thời kỳ xoá bỏ bao cấp, chuyển đổi cơ chế , anh thợ đá đảm nhiệm chức Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng cầu đường sau khi đã tốt nghiệp hệ chuyên tu khoa Thiết kế công trình cầu hầm. Năm tám chín, ở tuổi năm ba, tức là vào cái tuổi đáng ngại nhất trong đời, ông tổng giám đốc được điều về bộ giữ ghế thứ trưởng.

Nghe xong, Trịnh Doãng bảo;

- Đúng là người ta có số thật, mà cậu ăn về hậu vận, chứ cứ như những năm anh em mình thổi kèn đám ma thì thật sầu đời. Mà này, có còn nhớ cô Hảo làng Báng?

Nghiên đang vui chợt thở dài:

- Quên sao được, tính đến nay Hảo đã mất hai mươi nhăm năm. Ngày mai bác đi với tôi sang thắp hương cho cô ấy được không?

- Đi thì đi nhưng còn chuyện này chắc cậu chưa biết. Tay Thạc bây giờ là bí thư huyện uỷ Nam Thành.

- Thật à? Sao hôm nay không thấy anh ta đến?

- Chắc hắn còn ngượng với cậu về cái chết của cô Hảo

 

*

ở nhà được một tuần thì vợ chồng Lê Văn Nghiên và cậu con trai đang học lớp mười từ biệt mẹ và anh chị ra Hà Nội. Bà Hài cảm động lắm, cả cuộc đời chìm nổi, khổ ải mới có ngày hôm nay. Bà bảo Thuỳ Dung:

- Bố nó bận việc chính phủ thì không nói, còn mẹ con chị thỉnh thoảng phải về thăm nhà để bà cháu tôi còn được gặp nhau.

Thuỳ Dung ý tứ liếc nhìn chồng rồi gợi ý:

- Hay là mẹ lên Hà Nội ở với chúng con?

Lúc ấy Lê Văn Khải đang ngồi với Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán vội bảo:

- Mẹ là mẹ chung, chú thím có thể đón bà lên chơi một thời gian, còn nếu ở hẳn thì không nên.

Thuỳ Dung tỏ vẻ thông cảm:

- Em hiểu rồi, bác yên tâm, hè này nhà em lại đưa bà về.

 

Lê Văn Khải lấy vợ năm bảy mươi mốt, vợ Khải là một cô trung cấp chăn nuôi, người vùng biển, xinh xẻo nhưng chua ngoa, coi mẹ chồng chẳng ra gì. Khải biết thân phận mình, phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Trong có tám năm, chị ta đẻ liền ba đưa con gái, đứa nào cũng giống mẹ, vừa đanh đá vừa thích đua đòi ăn chơi. Cuối năm, Lê Văn Khải xin nghỉ hưu trước tuổi vì mắc chứng hen phế quản. Dạo này anh ta bắt đầu để râu. Chỉ sau mấy tháng, bộ râu quai nón đâm ra tua tủa cùngvới mái tóc nghệ sỹ vừa dài vừa rậm chờm kín mang tai đã biến gã chăn bò có thâm niên hai mươi năm thành lão già tám mươi, mặc dù tính cả tuổi mụ anh mới tròn năm bẩy. Về vườn rồi viên bác sỹ thú y lại có thu nhập cao hơn nhiều so với hồi còn là công chức. ấy là nghề chữa trâu, bò, chó ,lợn, thậm chí cả mèo nếu có người thỉnh. Hàng ngày anh ta rong ruổi khắp vùng Ba Tổng trên chiếc xe máy “Bố già” có série từ đời tám hoánh nào chẳng ai biết, với hộp đồ nghề đựng trong túi bạt, phục vụ các ‘thượng đế” tại nhà rất tận tình.

 

Tháng chín vừa rồi, Lê Văn Khải được nhà nước tặng huy chương “Vì sự nghiệp an ninh tổ Quốc” sau một thời gian khá dài mang đống giấy tờ có bút tích của các ông công an mật,  giao nhiệm vụ đặc tình, gõ cửa các cơ quan hữu trách. Cùng với số tiền kèm theo hai trăm ngàn, anh ta làm mâm cơm mời bạn bè đến chia vui. Giấy chứng nhận và huy chương được lồng trong khung kính treo trang trọng bên cạnh chân dung ông bố do một thợ truyền  thần vẽ lại theo trí nhớ của bà Hài.

 

Trước tết Quý Dậu, Khúc Luận về làng. Cùng đi có Diễm Phương và cô con gái Mai Lan hai mươi mốt tuổi. Cô ta học luật nhưng bỏ nửa chừng nhảy sang lĩnh vực kinh doanh vũ trường. Khúc Luận ra Bắc chuyến này là để ký một hợp đồng với tỉnh về dự án nhà máy chế biến hoa quả xuất khẩu. Cả bí thư và chủ tịch đều tiếp đãi nhà Việt kiều yêu nước vô cùng nồng hậu. Trong dự án có những điều khoản rất ưu đãi mà tỉnh dành cho doanh nghiệp nhằm giải quyết đầu ra cho hàng ngàn hécta vải thiều đang có nguy cơ chặt bỏ vì mấy năm liền rớt giá. Nhà máy bắt đầu khởi công thì Khúc Luận cũng thương lượng được với ông Tam chuộc lại ngôi nhà cũ và rước bà cả Huê về ở. Sau bốn mươi tám năm ngôi nhà đã lần lượt sang nhượng qua tay nhiều chủ nhưng vẫn vững chãi đứng sừng sững bất chấp sự tàn phá của thời gian, chỉ cần quét vôi, trang trí lại nội thất là có thể ở được cả thế kỷ nữa.

 

Nhưng còn một việc rất đáng trách là anh ta không chịu đến thăm bà ba Lánh mặc dù lúc ấy cả hai mẹ con cùng ở một thành phố.

 

Ký ức làng Cùa

 

Vào một đêm mùa hè năm Mậu Ngọ có ngôi sao băng từ dải Ngân Hà rơi xuống phía đông nam làng Cùa kéo thành một vệt sáng chói như lưỡi kiếm kèm theo tiếng nổ rùng rùng như sấm động. Sáng ra, dân làng vô cùng kinh ngạc khi thấy dải đất trồng dâu đồng Bìm Bịp bị khối thiên thạch khoét thành một cái đầm lớn, nước đục ngầu vẫn còn sôi sùng sục... Cái đầm ấy giờ gọi là đầm Ma. Tất nhiên các  nhà khoa học không tin truyền thuyết này. Đầu những năm sáu mươi, một đoàn chuyên gia của Học viện Thuỷ lợi về khảo sát địa hình vùng Ba Tổng đã đưa ra kết luận, đầm Ma chỉ là một đoạn của sông Lăng. Nó được hình thành cách đây khoảng hai trăm nghìn năm khi dòng chảy quặt về hướng nam bởi một trận động đất kéo dài mười bẩy phút trên tám độ Rích te. Một thời gian dài người ta vẫn cho rằng đấy là kết luận có sức thuyết phục. Thế nhưng, đến tháng tám năm chín hai, một nhóm các nhà địa vật lý và cổ sinh học của Viện khoa học Việt Nam, nhân chuyến điền dã qua làng Cùa đã phát hiện ra đầm Ma có chỗ sâu hơn trăm mét nước. Tin này được đăng trên trang nhất của những tờ báo và  tạp chí lớn của cả nước làm giới khoa học xôn xao. Ngay sau đó, người ta tiến hành khảo sát rừng Hóp là khu rừng tự nhiên cách đầm Ma chưa đầy tám chục thước. Trong lúc tìm kiếm mẫu hoá thạch, một vị tiến sỹ địa vật địa lý ngẫu nhiên nhặt được hòn đá bằng già nửa lon sữa bò nhưng rất nặng. Ông ta nghi là quặng uranium liền gửi về phòng thí nghiệm phân tích. Kết quả cho thấy mẫu quặng trên không có nguồn gốc từ trái đất mà là một mảnh thiên thạch.

 

Hoá ra ký ức làng Cùa không sai, chỉ có điều khối thiên thạch rơi xuống không phải năm mậu ngọ mà đã viếng thăm hành tinh của chúng ta sáu mươi tư triệu năm trước, đúng vào thời kỳ  những con khủng long cuối cùng tuyệt diệt. Khối thiên thạch khá lớn, sau khi bị cháy gần hết trong quá trình rơi do ma sát với tầng khí quyển dày đặc, nó vẫn còn đủ năng lượng khoét được một cái đầm rộng hơn trăm hécta, sâu một trăm hai mươi tám mét, đất đá tung toé khắp nơi tạo thành khá nhiều gò đống mà cái gò lớn nhất là rừng Hóp.

 

Chí Linh, tháng 4/2002- tháng5/2005

 

Ghi chú : Bản thảo hoàn thành từ tháng 5 năm 2005

 

Chương : 1    2    3    4    5    6    7    8    9    10    11    12    13    14    15    16    17  
Đặng Văn Sinh
Số lần đọc: 2420
Ngày đăng: 20.01.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Rái cá đồng và cô bé hàng xóm - Trịnh Thắng
Dấu ấn Đồng Quê - Trịnh Thắng
Đứa con của thần linh - Trần Quang Vinh
Kỷ niệm 8 năm ngày mất nữ danh ca Tuý Phượng ( 13/11/2001 – 13/11/2009): - Trần Trung Sáng
Ký ức làng Cùa - Đặng Văn Sinh
Một mối tình ngụ cư - Phan Huy Đường
Nốt Nhạc Cuối Mùa Đông - Trang Thanh Trúc
Bụi vết tháng năm - Trọng Huân
Chết - Phan Huy Đường
Hư thực - Phùng Văn Khai
Cùng một tác giả
Ký ức làng Cùa (truyện dài)
Đò đêm (truyện ngắn)
Đêm trăng Tả Giàng (truyện ngắn)
Bến phù dung (truyện ngắn)
Chị Hà (truyện ngắn)
Chuyển kiếp (truyện ngắn)
Cây mít tố nữ (truyện ngắn)
Công ty Vẹt (truyện ngắn)
Chiều muộn (truyện ngắn)
Cái vòi (truyện ngắn)