Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
528
116.432.923
 
Bảy lời của Đức Maria & đời sống linh mục -1
Vũ Duy Thống

Bài giảng tĩnh tâm linh mục đoàn Phan Thiết ngày 5-9/1/2009

LỜI THỨ NHẤT

Trích sách  Lc 1, 26-34

Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

BIẾT MÌNH

“Việc đó được xảy đến thế nào,

vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34)

I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA

1. Từ thái độ bối rối

2. Đến câu hỏi “thế nào?”

3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi

II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH

1. Biết mình

2. Linh mục và lời “tôi biết”

3. Linh mục và lời “tôi không biết”

LỜI THỨ HAI

Trích sách  Lc 1, 35-38

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

VÂNG PHỤC

“Này tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời,

tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38)

I. LỜI XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA

1. “Này tôi”

2. “là tôi tá Đức Chúa Trời”

3. “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”

II. SỰ VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI LINH MỤC

1. Vâng phục là thành phần cuộc đời linh mục

2. Vâng và phục

3. Vài lãnh vực đang cần đến sự vâng phục

LỜI THỨ BA

Trích sách  Lc 1, 39-45

Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.

Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

BẰNG HỮU

Đức Maria vào nhà ông Dacaria

và chào hỏi bà Elizabeth (Lc 1,40)

I. TÌNH BẰNG HỮU CỦA ĐỨC MARIA

1. Vội vã lên đường

2. Vui vẻ gặp gỡ

3. Vồn vã giúp đỡ

II. TÌNH BẰNG HỮU TRONG ĐỜI LINH MỤC

1. Từ tình bằng hữu đời thường

2. đến tình bằng hữu linh mục đoàn

3. Vấn đề thực tế

LỜI THỨ TƯ

Trích sách  Lc 1, 46-56

Bấy giờ bà Maria nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới:

Từ nay hết mọi đời

Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,

Danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia,

Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

Vì Người nhớ lại lòng thương xót

Dành cho tổ phụ Abraham

Và cho con cháu đến muôn đời”.

Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

KINH MAGNIFICAT

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui

mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-55)

I. KINH MAGNIFICAT CỦA ĐỨC MARIA

1. Nhãn giới mầu nhiệm

2. Nhãn giới sứ vụ

3. Nhãn giới hiệp thông

II. KINH MAGNIFICAT TRONG ĐỜI LINH MỤC

1. Ngợi khen bằng đời sống linh mục đích thực

2. Ngợi khen bằng đời sống linh mục gương mẫu

3. Ngợi khen bằng đời sống sứ vụ nhiệt thành

LỜI THỨ NĂM

Trích sách  Lc 2, 41-52

Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.

Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu.

Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

MỤC VỤ TÌM KIẾM CHIÊN LẠC

“Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không,

cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48)

I. LỜI CỦA ĐỨC MARIA

1. Từ sự cố trẻ Giêsu ở lại Đền Thờ

2. Đến lời đối đáp giữa hai mẹ con

3. Để sáng lên lời mời gọi vượt qua

II. LỜI THỨ NĂM VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC

1. Sứ mạng tìm kiếm chiên lạc

2. Những bóng dáng chiên lạc hôm nay

3. Những bước chân không mỏi

LỜI THỨ SÁU

Trích sách  Ga 2, 1-4

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”.

Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”.

MỤC VỤ GIA ĐÌNH

“Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3)

I. LỜI “HỌ HẾT RƯỢU RỒI”

1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin

2. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm

3. “Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu

II. LỜI THỨ SÁU TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC

1. Khi cuộc sống gia đình “hết rượu”

2. Mục vụ với trái tim

3. Nhờ Mẹ Chúa Giêsu chuyển cầu

LỜI THỨ BẢY

Trích sách  Ga 2, 5-11

Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.

Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”. Và họ đã đổ đầy tới miệng.

Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”.

Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.

Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

MỤC VỤ LỜI CHÚA

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)

I. LỜI THỨ BẢY CỦA ĐỨC MARIA

1. “Người”

2. “bảo gì”

3. “các anh cứ việc làm theo”

II. LỜI THỨ BẢY VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC

1. Gặp gỡ Lời Chúa

2. Thực hành Lời Chúa

3. Giảng Lời Chúa

BIẾT MÌNH

“Việc đó được xảy đến thế nào,

vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34)

 

Có một bài thánh ca từ lâu đã nổi tiếng, nhưng từ hơn một năm nay lại càng nổi tiếng hơn. Nổi tiếng vì nội dung phong phú như ánh sáng muôn đời soi dẫn cuộc đời phụng sự, nhưng cũng nổi tiếng vì cách vận dụng bài thánh ca ấy trong những tình huống cụ thể để trở thành bài ca thời sự cho người có đạo cũng như cho người ngoại đạo, cho tín hữu trong nước cũng như cho tín hữu ngoài nước. Bài ca là lời kinh gieo tin yêu hy vọng và nhất là khi được hát cộng đồng đã trở thành sức mạnh làm chứng đức tin, bất kể những khó khăn mọi mặt. Đó là bài hát cha Kim Long phổ nhạc lời “Kinh hoà bình” của thánh Phanxicô Khó Khăn mà hầu như mọi tín hữu Việt Nam đã thuộc nằm lòng. Bài hát là một lời kinh tin tưởng mở đường mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, cũng là bài ca vẽ lên chương trình phục vụ và yêu thương mọi người trong Chúa. Bài hát là kinh nguyện hoà bình dâng lên Chúa và cũng là ước nguyện đấu tranh bất bạo động gửi gắm cho con người.

 

Bản thân, khi được hoà vào dòng chảy hoà bình mạnh mẽ ấy, nhất là với ánh nến trên tay giữa bóng tối vây quanh, tôi cũng cảm nhận được những nghịch lý quắt quay của hành trình đức tin Kitô giáo. Hôm nay, nếu được hát bài ca này giữa cộng đoàn, xin chỉ dừng lại trong một nghịch lý cũng là chân lý ngàn đời của người phụng sự: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”, để thấy được rằng khi quên mình tưởng là không biết mình mà kỳ thực lại là cách khẳng định mình đẹp nhất, cũng như nói “mình không biết” lại là cách diễn tả “mình biết mình” hơn cả bao giờ.

 

Lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm là lời khẳng định Mẹ không biết, nhưng chính lại là lời cho thấy Mẹ biết mình rất rõ để từ đó làm cơ sở mà bước vào chương trình của Thiên Chúa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.

 

Trong khuôn khổ của những ngày tĩnh tâm linh mục, chúng ta trước hết sẽ tìm hiểu ý nghĩa lời của Đức Maria trong bối cảnh năm xưa, và tiếp theo sẽ xét xem lời đó rọi sáng điều gì trên đời sống hôm nay của linh mục.

 

I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA

 

1. Từ thái độ bối rối

 

Khi thốt lên lời thứ nhất, Đức Maria đang ở trong một hoàn cảnh khó xử. Khó xử bên ngoài có thể vì sự xuất hiện của một gương mặt lạ trong nhà mình, cho dẫu với kiến thức truyền thống của một thiếu nữ Sion ngoan đạo, Mẹ đã chẳng lạ gì với những tên tuổi thiêng liêng phụng mệnh Thiên Chúa. Trình thuật Phúc Âm đã không vòng vo để gọi tên vị khách lạ ấy là thiên sứ Gabriel. Sự xuất hiện của một người lạ phàm nhân như người hàng xóm chẳng hạn, có lẽ không gây khó xử vì là chuyện thường ngày; nhưng khi sứ thần Thiên Chúa đến gặp ai thì không còn là chuyện thường ngày nữa, mà xem ra đã là chuyện trọng đại ngoại thường. Nhưng khó xử bên trong nội dung câu chuyện trao đổi, từ lời chào cho đến sứ điệp chuyển đạt, mới là điều đáng nói. Nghe những lời ấy, ruột gan Đức Maria rối bời. Có thể lý giải những bối rối của Đức Maria, dựa trên chính lời nói của thiên sứ Gabriel.

 

Bối rối thứ nhất: Hồng ân Chúa quá cao, phận mình lại bé nhỏ. Trước lời chào đặc biệt của thiên sứ “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”, Đức Maria đã cảm nhận một bầu khí hồng ân đang bao bọc lấy mình. Đây không chỉ là lời chào thông thường, mà còn là lời xác nhận Thiên Chúa luôn hiện diện hỗ trợ. Đây cũng không chỉ là lời chào khuôn định xã giao, mà còn là lời mời gọi hãy mừng vui lên vì được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn để góp công góp sức góp thân góp phận vào công trình yêu thương của Ngài. Tiếng chào cao hơn mâm cỗ. Nếu mâm cỗ ở đây là ân sủng đầy tràn của Thiên Chúa, thì lời chào “Mừng vui lên” đã được đẩy lên tầm cao tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.

 

Lạ lùng lắm sứ thần Gabriel sử dụng từ “kêcharitômênê - đầy ân sủng” áp dụng cho người trần, nên càng hiểu hơn nữa tâm tình phản tỉnh của Đức Maria. Trong tiếng Việt, có thể phân tích bằng ba chữ “đ” = “đã được đầy”. 1/ đã: Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương ban ơn và Ngài còn luôn ban ơn cho đến ngàn sau (chiều dài); 2/ được: Những ơn sủng Đức Maria có đều là nhận được từ Thiên Chúa tình thương (chiều cao); 3/ đầy: Tràn lan, chứa chan, trọn vẹn mỗi ơn và toàn vẹn mọi ơn (chiều rộng). Như thế, từ “kêcharitômênê” khi biến thành danh xưng gọi Đức Maria phải được giải thích là “Đấng đã được ban đầy tràn ân sủng”. Quả là một danh xưng ngoại thường, được xướng lên trong một khung cảnh trang trọng của buổi truyền tin, nhất là lại có sự xuất hiện của nhân vật từ trời, thử hỏi người nghe có thể bình tĩnh được chăng? Thảo nào, Phúc Âm kể: Đức Maria rất bối rối.

 

Bối rối thứ hai: Sứ mạng Chúa trao quá lớn, sức mình lại yếu ớt. Có lẽ chẳng cần dài lời lý giải, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của Đức Maria năm xưa, cũng đủ hình dung tâm tình của Mẹ trước câu nói của sứ thần. “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.

 

Quả là bối rối trước hàng loạt nghịch lý của sứ mạng đề ra: trinh nữ mà lại sinh con; con người mà lại sinh ra Con Đấng Tối Cao; nhà hai lúa mà lại được ban cho ngai vàng Đavít. Với đầu óc thiếu nữ thực dụng ngày nay, có thể đây là cơ hội ngàn vàng kiểu “ăn mày gặp xôi gấc”, phải chộp lấy ngay kẻo dịp may không quay trở lại, chẳng phải đắn đo lo nghĩ làm gì cho già người đi. Thế nhưng với Đức Maria thì khác. Ngài nghĩ: Chúa trao sứ mạng quá lớn, mà ngài thì sức yếu vai mềm làm sao gánh vác nổi. Phận cỏ mình rơm của một thiếu nữ miền quê Nagiarét làm sao dám mơ với lên lá ngọc cành vàng của Đức Chúa là Thiên Chúa.

 

Vì thế, đã bối rối về hồng ân cao cả lãnh nhận, lại càng bối rối hơn về sứ mạng lớn lao được trao, nhất là trong tình huống cụ thể của một gia đình tương lai mà Đức Maria chưa tưởng tượng hết được, ở đó việc đặt tên tuỳ thuộc phần lớn ở người đàn ông như trường hợp gia đình Giacaria chẳng hạn, còn ở đây, theo lời sứ thần, Mẹ sẽ phải cáng đáng nhiệm vụ ấy để nhận tên trước cho con trẻ là Giêsu, với ý nghĩa cao quý ở đỉnh cao lòng mong chờ của toàn dân: Giêsu = Giavê là Đấng Cứu Độ.

 

2. Đến câu hỏi “thế nào?”

 

Bối rối trước hồng ân và bối rối trước sứ mạng, dẫu thật là thế, cũng chỉ là những cảm nhận trong tâm tưởng của Đức Maria khi đối chiếu mình với lời nói của sứ thần Gabriel; nhưng chính khi buột miệng thốt ra lời đầu tiên, Đức Maria mới để lộ cho thấy điều ngài quan tâm hơn cả không phải là một tương lai dòng dõi hoàng vương, cũng không phải là một vị thế gia phong huy hoàng choáng ngợp nằm mơ cũng không thấy; mà là một điều liên hệ trực tiếp đến chính bản thân ngài vốn là một trinh nữ  làm sao có thể đi vào nhịp cầu sinh nở, hay nhạy cảm hơn, làm sao có thể đón nhận mối quan hệ nam nữ như cửa ngõ duy nhất của việc sinh con, làm sao có thể dung hoà giữa hai bậc sống khác biệt đồng trinh và gia đình, và làm sao một cuộc đời đã thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn lại có thể chia sẻ ra để thuộc về người khác. Nghĩ sao nói vậy, Đức Maria thưa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.

 

Về lời đáp của Đức Maria dành cho sứ thần, cũng là một câu hỏi can dự đến lựa chọn bậc sống của ngài, trong tiếng Việt, có một cách dịch nghe ra không thuận lắm vì có thể làm suy giảm tâm tình cởi mở của Mẹ trước đề nghị của Thiên Chúa, đó là lời dịch “Việc đó xảy đến thế nào được”. Đã đành có bối rối, nhưng không thể để xuất hiện một lời mang hàm ý từ chối, trong khi lời dịch “Việc đó được xảy đến thế nào” lại bộc lộ một thái độ tiếp nhận dù còn chờ giải thích rõ hơn. Tiếng Việt hay lắm. Chỉ đảo vị trí chữ “được” thôi cũng thay đổi hẳn cả ý nghĩa, ấy là chưa nói đến cách bỏ dấu: “thế nào được!” sẽ đi với dấu chấm than, trong khi “được thế nào?” sẽ gọi theo dấu chấm hỏi.

 

Trong lời của Đức Maria, nếu phần đầu là một nỗi băn khoăn dấu hiệu của tâm tình bối rối: “việc đó được xảy đến thế nào?”, thì phần sau lại là một lý do hàm chứa một khẳng định quan trọng: “tôi không biết đến việc vợ chồng”. Lời này cho thấy:

 

Trực tiếp là việc Mẹ đưa ra lý do “không biết đến việc vợ chồng”. Mà đúng thật. Trong ngôn ngữ Do Thái, động từ “biết” là một động từ đặc biệt, nó không nhằm thái độ tri thức của một chủ thể đối với một khách thể cho bằng muốn diễn tả mối liên hệ cận thân xoắn xuýt của những thể ấy với nhau đến nỗi dẫu trong thực tế vẫn phân biệt chủ khách, nhưng trong thực thể không còn phân chia khách chủ nữa. Nói đúng hơn, chủ khách đã “nên một”. Chẳng phải nói dài lời, chỉ cần lần giở mục từ “biết” trong cuốn Điển ngữ Thần học Thánh Kinh hoặc trong một vài điểm chú giải của những bộ Thánh Kinh, người ta cũng có thể hình dung được ý nghĩa đặc trưng này, cách riêng trong mối quan hệ vợ chồng.

 

Khi Thánh Kinh nói “Adam biết Eva” thì không chỉ hiểu là họ nhận ra nhau trong tình thân vô tư theo kiểu bài hát sinh hoạt “Gần nhau trong cho nhau yêu thương tình loài người”, mà còn phải hiểu là họ đã gần nhau nên một xương một thịt, đã gần nhau qua việc chia sẻ sự sống cho nhau và đã gần nhau để ăn đời ở kiếp với nhau. Vì thế, khi Đức Maria nói không biết đến việc vợ chồng thì chắc chắn ngài đã sử dụng động từ “biết” của ngôn ngữ Do Thái trong ý nghĩa hiện thực nhất, tức là không liên hệ thân xác với người khác phái, cho dẫu đã đính hôn với một người phái nam theo quy định của luật pháp đường hoàng.

 

Nhưng gián tiếp, Đức Maria lại khẳng định “tôi biết mình là một trinh nữ”, một người nữ đã chọn cho mình bậc sống đồng trinh, một người nữ đã hiến dâng đời mình để trọn vẹn thuộc về Chúa. Trong trình thuật Phúc Âm liên hệ, thánh Luca đã sử dụng từ “trinh nữ” 2 lần. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nagiarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27).

 

Tại sao tác giả Phúc Âm không dùng chữ “thiếu nữ” hay “thiếu phụ”? Thưa chỉ vì muốn cho độc giả nhớ lại lời các tiên tri đã từng khẳng định Thiên Chúa sẽ được trinh nữ Israel đón nhận. Nếu trong bao thế kỷ, Thiên Chúa đã phải gánh chịu những tội bất tín bất trung của dân mình nhưng đã tha thứ hết cho họ, thì khi xuống thế làm người, Người lại muốn được dân mình đón nhận với lòng trung trinh, với đức tin hoàn hảo, nghĩa là, với một cuộc đời tựa đoá hoa ẩn kín chưa hề bị chiếm hữu, và muốn biến cả đời mình thành tặng phẩm hoàn toàn hiến dâng.

 

Chắc hẳn khi nêu lên lý do “không biết đến việc vợ chồng”, Đức Maria đã ý thức, đã biết rất rõ về nhân thân đồng trinh của mình; nếu không, không thể hiểu được tại sao Mẹ phải bối rối trước mặt thiên sứ, tại sao Mẹ phải bối rối khi nghe những lời ngọt ngào chào kính “bà đầy ân sủng” và “bà đẹp lòng Thiên Chúa”, và tại sao Mẹ phải phản tỉnh suy tư tự hỏi mình chán rồi mới bật ra thành lời, mà lời ấy lại là một câu hỏi thăm dò tìm hiểu xin soi sáng khởi đi trong tâm là “sự biết mình”, nhưng ngoài miệng là “sự không biết đến việc vợ chồng”.

 

3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi

 

Những ghi nhận nêu trên cho thấy trong lời đầu của Đức Maria đã hàm chứa cả một nghịch lý mang màu biện chứng giữa biết và không biết cả trên bình diện tri thức lẫn bình diện hiện thực, tương tự như biện chứng của thánh Phanxicô Khó Khăn giữa quên mình và gặp lại mình.

 

Nếu châm ngôn “Không nên nói hết những gì mình biết, mà nên biết hết những gì mình nói” là lời phổ cập cho hết mọi người, thì xem ra càng đúng hơn với trường hợp của Đức Maria với câu nói đầu tiên này: Mẹ biết hết những gì Mẹ nói. Đây không chỉ là phong cách đời sống mà xem ra đã là cốt cách của Mẹ trong cả cuộc đời dấn thân đón lấy hồng ân Chúa gửi và nhận lấy sứ mạng Chúa trao.

 

Nói “không biết đến việc vợ chồng, vì Mẹ biết mình là một trinh nữ” hay nói “biết mình là một trinh nữ, nên Mẹ không biết đến việc vợ chồng”, cách nào cũng không thay đổi ý nghĩa. Nghĩa minh nhiên hàm chứa nghĩa mặc nhiên, và nghĩa mặc nhiên làm điều kiện cho nghĩa minh nhiên. Biện chứng là thế và nghịch lý cũng là thế. Vừa là trinh nữ, vừa là mẹ; là trinh nữ mà vẫn sinh con; là mẹ mà vẫn ngàn đời trinh khiết.

 

Luôn luôn các biến cố đời Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu đều được xây dựng trên nền của cái thế đong đưa biện chứng giữa biết và không biết ấy. Chả thế mà trong trình thuật đời thơ ấu của Chúa Giêsu với những biến cố dồn dập, bao giờ cũng thế, thánh sử cẩn thận ghi lại tư thế của Đức Maria là: “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Tại sao vậy? Phải chăng vì Mẹ ít nói hay nói ít, cả Phúc Âm chỉ ghi lại bảy lời? Phải chăng vì Mẹ thích suy tư phản tỉnh trước mọi tình huống, hay vì Mẹ trầm tĩnh đắm mình trong biện chứng đong đưa giữa sự kiện và mầu nhiệm, giữa những gì rõ mười mươi trước mắt và những gì còn ẩn khuất bên trong, nói tóm lại, giữa biết và không biết? Ghi nhớ những việc xảy ra, vì Mẹ biết rõ mồn một; và suy niệm trong lòng vì Mẹ chưa biết hết ý nghĩa của từng việc, nhất là khi kết nối những việc ấy lại trong nhãn giới cứu độ. Ghi nhớ vì đã là kinh nghiệm thuộc về quá khứ; và suy niệm trong lòng vì việc đó còn là kinh nguyện cho tương lai. Ghi nhớ là kho tàng chất chứa những gì đã biết, còn suy niệm trong lòng là kho tàng để dành những gì hôm nay chưa biết hết nhưng sẽ được khám phá dần dần vào những ngày sắp đến tiếp theo.

 

Lấy ví dụ biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, người ta sẽ hiểu hơn về lối sống trong tinh thần biết mình của Đức Maria. Khi biết mình phải chu toàn lễ thanh tẩy vì mới sinh con và phải thánh hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa theo quy định của lề luật, Đức Maria đâu có ngờ gặp cụ ông Simêon và nghe ông cụ móm mém hát bài ca an bình ra đi. Nghe mừng mừng tủi tủi. Tính biện chứng giữa biết và không biết của biến cố cũng được trải ra thật rõ ở đây. Đức Maria biết mình phải dâng con phút đầu đời, nhưng không biết con mình cũng nên quà tặng cho những người phút cuối đời nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu đang được ẵm bế trong vòng tay mình, nhưng không biết trẻ ấy còn được trao cho những vòng tay khác nữa; Đức Maria biết trGiêsu Hoàng Tử hoà bình, nhưng lại không biết trẻ thánh còn nên duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên; Đức Maria biết mình đang ôm ấp trẻ Giêsu hạnh phúc, nhưng không biết trẻ ấy sẽ còn thành dấu hiệu cho người đời chống báng; Đức Maria đã biết nhiệm vụ nuôi nấng chăm sóc trẻ Giêsu, nhưng làm sao biết được mầu nhiệm của lưỡi gươm sẽ đâu thấu tâm hồn.

 

Tóm lại, tìm hiểu lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm theo kiểu chẻ sợi tóc ra làm tư sẽ dẫn ta đến một nhận thức: biết mình là một bước quan trọng trong hành trình đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa.

 

Biết mình là bước đầu thật cơ bản làm tiền đề cho những bước tiếp theo. Nếu bước đầu biết đắn đo, những bước sau sẽ không phải lo nghĩ nhiều. Đầu xuôi đuôi lọt mà. Nhưng nếu bước đầu đã buông trôi, chẳng mong gì những bước sau sẽ vững chãi. Biết mình cũng là cả một hành trình biện chứng giữa biết và không biết. Nếu biết là chính đề thì không biết là phản đề, và hợp đề là những kinh nghiệm rồi quyết tâm đilên theo một bước biện chứng mới. Nơi Đức Maria, biết mình còn là một lối sống luôn luôn rộng mở để ghi nhớ và suy niệm trong lòng, để lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong bộ sách nổi tiếng “Từ đỉnh cao Thập giá”, đã khéo nối kết lời đầu của Chúa Giêsu trên Thánh giá với lời đầu của Đức Maria trong Phúc Âm để nêu cao nhận định về nét tích cực trong việc không biết. Chúa Giêsu xin Cha mở lòng tha thứ cho lý hình vì họ không biết việc họ làm; Đức Maria mở lòng cho ý định của Thiên Chúa vì Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Cả trong lời của Chúa Giêsu và lời của Đức Mẹ, sự không biết đã bật mở ra những câhn trời mới của hồng ân. Càng biết mình bao nhiêu, càng biết Chúa bấy nhiêu; và ngược lại, càng biết Chúa bao nhiêu, càng biết mình bấy nhiêu.

 

II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH

 

Nhìn vào Đức Maria qua lời đầu tiên của Mẹ, ta đã thấy sáng lên không chỉ một phản ứng cấp thời, mà còn cả một chiều dài của lối sống đức tin. Ánh sáng ấy đã dẫn Đức Mẹ tiến bước theo Chúa Giêsu trên đường cứu độ. Chậm mà chắc. Nhưng ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi điều gì trên đời sống của linh mục hôm nay?

 

1. Biết mình

 

Ngay từ những năm đầu của Đại chủng viện, qua ban Triết học, mỗi đại chủng sinh đã được làm quen với một phương pháp quan sát suy tư thuộc loại hàng đầu nếu muốn bước sâu tiến xa vào lầu đài triết học, đó là phương pháp nội quan: mình quan sát mình, mình nhìn vào mình để có những phản tỉnh và nhận thức về chính mình. Nhớ lại hồi ấy, khi cha giáo nêu ra dẫn chứng là câu “Connais-toi, toi-même” (Hãy biết mình) được ghi trên cổng đền thờ hy lạp nào đó, thú thật chủng sinh chẳng hiểu gì nhiều, cứ như lời cảnh báo xa gần của cha giám luật về hạnh kiểm cuối năm hoặc như lời giảng giải xét mình của cha linh hướng mỗi lần cử hành bí tích hoà giải. Thế nhưng, nghe riết rồi thấm; làm riết rồi quen, để khi lãnh chức linh mục đã thấy hình thành trong mình tự thuở nào một phương pháp suy tư phản tỉnh.

 

Rồi khi thi hành nhiệm vụ linh mục, ngày từng ngày, những lúc xét mình, những khi sám hối, những phút hồi tâm, những giờ linh hướng đã tích luỹ nơi mỗi linh mục một thứ hành trang không thể thiếu được, dẫu chẳng phơi bày, đó là việc biết mình. Cũng như nơi Đức Maria, biết mình nơi từng linh mục ảnh hưởng lên lối sống và nhất là hình thành nơi người mục tử một bản lĩnh đức tin.

 

Một linh mục đã nghỉ hưu nhưng còn khoẻ khoắn lắm, vẫn thường có mặt trong mọi sinh hoạt của Giáo Phận có lần đã chia sẻ kinh nhgiệm với các linh mục trẻ rằng: Nếu mỗi ngày sống trọn vẹn những phút hồi tâm sáng trưa chiều tối, đời sống linh mục sẽ khoẻ lắm. Nghe trong lời chia sẻ chân thành ấy, người ta hiểu xét mình chính là một cách biết mình không thể thay thế, để tiến triển trên đường nên thánh.

 

Nhưng linh mục biết mình đâu chỉ là biết một mình theo kiểu “một mình mình biết một mình mình hay” mà còn là biết mình trong tương quan với người khác qua việc đối nhân xử thế. Nếu cụm từ “chỉ biết mình” mang một nghĩa xấu diễn tả tính ích kỷ bo bo một mình, thì cụm từ “biết mình biết người” lại bộc lộ tính khôn khéo của kẻ thành công được lòng mọi người, vừa khôn trong tính toán, vừa khéo trong tương giao. Linh mục được sai đến một giáo xứ để phục vụ, dẫu làm việc hết mình, chẳng ai cầu toàn rằng mình được hết mọi người quý mến, nhưng thiết tưởng với châm ngôn “biết mình biết người” hướng dẫn cách cư xử, linh mục sẽ tìm được sức mạnh nâng đ để nếu gặp khó khăn cũng dễ vượt lên, gặp truân chuyên cũng dễ khắc phục và nếu có gặp sung túc cũng dễ chia sẻ giúp đỡ người khác. Ngày nào còn biết mình, ngày ấy còn hy vọng để tâm hồn thăng hoa; nhưng chng may một khi không còn biết mình đầy đủ nữa, linh mục sẽ vô tình dẫn vào đời mình một cách sống xa lạ với chính mình, một lối sống xa rời xã hội và ngại hơn nữa là một đời sống xa lìa lý tưởng hiến dâng và phục vụ. Trong ngôn ngữ hiện nay, người ta gọi đó là “đánh mất mình”.

 

Một linh mục trẻ vừa được thuyên chuyển chỉ vì quá mê vi tính, tối ngày khép mình không tiếp xúc với ai, quên cả ngủ ngáy, quên cả lễ lạy, không còn biết mình là linh mục được sai đi để phục vụ nữa. Khổ.

 

Biết mình sẽ giúp linh mục định vị được mình giữa mớ bòng bong đa chiều của những phận vụ đạo đời. Cha phụ tá nào được sai đến giúp một cha sở ở một giáo xứ nhất định và biết mình trong vị trí đó, ắt hẳn sẽ có những cư xử đúng mực. Phụ tá không phải phụ tá cho một giáo xứ mà cho một cha sở vốn là “chủ chăn riêng của một nơi” theo Giáo luật, nên không nóng vội coi mình bằng vai phải lứa với cha sở, để lên mặt cho mình gần gũi với giáo dân hơn cha sở hoặc lên máu hăng say qua mặt ngài trong mọi việc. Nhiều vị phụ tá nghĩ đơn giản rằng mình với cha sở đều là linh mục cả, nên đâu phải giữ khoảng cách làm gì. Nghe có vẻ thuận lý và thường được một số giáo dân tâng bốc đồng tình, nhưng như thế là không biết rõ về vị trí của mình. Xin nhớ cho rằng phần lớn những thất bại của các cha phụ tá là ở điểm này.

 

Cha sở nào có cha phụ tá và biết mình trong vị trí cha sở, ắt cũng có những cách chăm sóc thắm tình dành cho cha phụ tá của mình. Những tháng năm làm phụ tá cho những cha sở như thế sẽ trở thành kỷ niệm khó quên. Đước Giáo Hoàng Piô X luôn coi những năm làm phụ tá cho cha sở Costantini ở Tombolo là những năm hạnh phúc trong đời linh mục của ngài. Nơi cha sở, ngài nhìn được gương sáng đạo đức, ngài gặp được tấm lòng nhân hậu và ngài còn được chỉ dẫn tận tình về những công việc mục vụ. Phần đông các cha sở hôm nay đều hân hoan đón nhận cha phụ tá vàhết lòng nâng đỡ các ngài trong mọi việc để nên gương sáng cho giáo dân. Nhiều giáo dân rất ngưỡng phục mẫu gương ấy khi thấy đi đâu cha phụ tá cũng đèo cha sở mình trên chiếc Honda. Nhưng đó đây vẫn còn một số vị chưa coi các cha phụ tá như người cộng sự, như người hợp tác làm việc trên cùng cánh đồng dân Chúa, thậm chí có vị còn coi cha phụ tá của mình như một gánh nặng chẳng đặng đừng.

 

Một cha sở hiền hoà ở một giáo xứ lớn vừa được giám mục gỡ đi cha phụ tá đã tâm sự rằng: ở một mình làm việc vất vả nhưng vui vẻ; có cha phụ tá việc nhẹ nhàng hơn nhưng cuộc sống không vui. Chỉ vì cha phụ tá không biết vị trí của mình. Một cha phụ tá trẻ trung ở một giáo xứ lớn khác thường bị anh em cùng khoá chọc ghẹo là “linh mục ôsin” lại than thở rằng: cuộc sống ở xứ như ở đợ, cha sở bắt làm lễ nợ, cả năm cho ăn chứ không cho bổng lễ. chuyện khó tin nhưng có thật. Chỉ vì cha sở không biết vị trí của mình.

 

Những mảng sáng tối trong đời sống được nêu lên chỉ muốn khẳng định rằng: từng người biết mình, cuộc sống sẽ bình an ổn định; từng linh mục biết mình, cuộc đời sẽ bản lĩnh và hạnh phúc. Giống như trong thân thể từng bộ phận chu toàn phận vụ của mình, chủ nhân của thân thể ấy sẽ có sức khoẻ tốt làm điều kiện cho một đời sống hài hoà. Kinh nghiệm thường thức cũng xác nhận điều này: người táo bón thường hay cau có, kẻ mập mạp thường khó đi nhanh.

 

2. Linh mục và lời “tôi biết”

 

Biết mình trong tương quan với chính mình hoặc trong tương quan với người khác đã là những cách tích cực, nhưng linh mục trong nhịp sống thiêng liêng, chỉ có thể biết mình rõ nét khi đặt mình trong tương quan với Chúa. Chính ở đây, câu hỏi “linh mục là ai?” được nêu lên và mong ước trong tinh thần biết mình mỗi người sẽ đưa ra những câu trả lời xác định.

 

Linh mục trước hết là người thuộc về Chúa Kitô. Thực ra, theo định nghĩa cơ bản, là kitô hữu, ai mà chả thuộc về Chúa Kitô. Nhưng linh mục thì khác, biết mình thuộc về Chúa Kitô là Đầu, được chọn gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và cũng để làm việc trong tư cách của Chúa Kitô, in personna Christi Capitis. Lời khẳng định này linh mục nào mà chả biết. Thế nhưng từ biết chung chung trong học thuyết đến biết thuần nhị cá nhân để có thể khẳng định “tôi biết” lại là một khoảng cách không nhỏ. Thật vậy, biết mình thuộc về Chúa Kitô không dừng lại trong nhận thức mà còn trải ra thực hành, từ thực hành nhỏ đến thực hành lớn, từ thực hành một ngày đến thực hành một đời.

 

Qua những nỗ lực không ngơi nghỉ hướng về Chúa Kitô, linh mục quy chiếu mọi khoảnh khắc và công việc trong phận vụ mình vào đời sống Chúa Kitô để có sự hoà điệu thánh thiêng cần thiết mà diễn tả tính khả tín cũng như khả ái của sứ vụ được trao. Nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô mà đời sống không quy hướng về Chúa Kitô để dựng xây thì e rằng đã làm giảm thiểu tính khả tín trong sứ vụ; ngược lại những ý mình nghĩ những lời mình nói những việc mình làm biết quy hướng về Chúa Kitô sẽ cho thấy một khuôn mặt khả ái của linh mục ở giữa cộng đoàn. Giáo dân hôm nay xem ra rất bén nhạy về khía cạnh này. Ở đây tâm tình của thánh Phaolô cũng phải là tâm tình của mỗi linh mục: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nữa, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

 

Và rồi, như ngựa chạy đường dài sẽ có ngày thấm mệt, linh mục trong đời cũng có những lúc đàn lỡ nhịp hoặc chùng dây không còn tấu lên điệu khúc dâng hiến như mộng ước ban đầu, những lúc ấy nhận thức mình thuộc về Chúa Kitô lại là một sức mạnh đem lại hy vọng để vươn lên tìm về với Chúa Kitô mà nhận lại sự sống. Như vậy, thuộc về Chúa Kitô là những nét cơ bản giúp linh mục soi bóng để biết mình.

 

Nhưng linh mục dầu thiện chí đến đâu cũng không tự mình có thể dấn thân vào đường sứ vụ. Sứ vụ phải được trao và được nhận, vì thế cùng với ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, linh mục cũng biết mình thuộc về Giáo Hội. Giáo Hội phổ quát là cả một kho tàng mênh mông ơn thánh, nhưng Giáo Hội địa phương nơi mình được sai đến mới là trọn vẹn tấm lòng gửi trao và cuộc đời thể hiện. Nếu trong đời sống dân sự, không thể có một công dân không quốc tịch, thì trong đời sống tôn giáo, cũng không thể có một linh mục trên không chằng dưới không rễ lông bông lang thang khắp nơi mà chẳng chịu nhập tịch vào Giáo Phận nào. Linh mục mà không thuộc về Giáo Hội địa phương nào thì không còn là linh mục đúng nghĩa nữa. Vì thế khi trả lời cho câu hỏi “linh mục là ai?” thì cũng là lúc khẳng định mình thuộc về Giáo Hội nào, nếu không sẽ có nguy cơ sống kiểu bèo giạt mây trôi vừa đánh mất mình vừa không nêu gương sáng cho người khác. Linh mục thuộc về Chúa Kitô nên cũng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô để nhận lấy trách vụ làm việc cho Chúa Kitô. Như Đức Maria, linh mục biết mình là người của hồng ân và sứ mạng, nên luôn ghi tâm khắc cốt: hồng ân Chúa ban, dấn thân theo đuổi, dong duổi một đời.

 

3. Linh mục và lời “tôi không biết”

 

Những khẳng định mình biết sẽ dẫn tới những lãnh vực mình khong biết nơi đời linh mục, va như một thái cực ngược lại để đối chiếu, vừa như một liệt kê tương phản để nỗ lực vượt qua.

 

Trước hết là lãnh vực tình cảm. Người ta bảo khác với đàn bà, trái tim đàn ông có nhiều ngăn lắm, mỗi ngăn dành cho một đối tượng theo thứ tự ưu tiêu. Không biết có đúng không? Khổ nỗi linh mục cũng là đàn ông, nên xin mượn hình ảnh ấy để minh hoạ. Trái tim linh mục cũng có nhiều ngăn: ngăn dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội; ngăn dành cho gia đình ruột thịt mẹ cha, rồi đến ngăn bao la dành cho già trẻ lớn bé bạn bè cộng sự. Lý ra những ngăn ấy được xếp theo thứ tự ưu tiên, nhưng nhiều khi lu bu tình Chúa tình người hoặc cả nể yêu người như mình ta vậy, những ngăn đó cứ bị đảo tung lên, sự việc đổ bể khiến mình bị thương tứ bề. Bị thương theo cả hai nghĩa: bị thương mến kiềm toả bủa vây và bị thương tổn danh dự khó vớt vát được.

 

Về tình yêu nam nữ, theo lý thuyết linh mục chẳng yêu riêng ai và cũng chẳng có ai làm của riêng cho mình, nhưng trên thực tế hành trình của động từ yêu nơi đời linh mục rối rắm khó lý giải lắm. Con tim có lý lẽ của nó. Có khi mới đầu chỉ là tình bạn giúp đỡ hỗ trợ một việc già đó, rồi dần dà thân thiết mọc cánh yêu thương; vẫn biết nam nữ thọ thọ bất thân, mà làm sao lại cứ cọ có rất thân không dứt ra được. Khổ. Có khi lúc đầu chỉ là tình cha con đỡ nâng dắt dìu dạy dỗ, rồi lâu ngày cô bé lớn lên bỗng muốn được dặt dìu tay đỡ tay nâng dạy ít dỗ nhiều, nên linh mục cũng khó tránh khỏi lưới giăng.

 

Kể ra thì nhiều lắm, vả lại cũng không cần thiết. Có điều là trong lãnh vực này, mỗi linh mục quyết tâm khảng khái như Đức Maria: “Tôi không biết đến việc vợ chồng”.

 

Một lãnh vực khác cũng cần linh mục nói lời “tôi không biết”, đó là lãnh vực tiền bạc. Tất nhiên, tiền bạc ai mà không cần. Có tiền mới có thể trang trải chi phí cho đời sống được, có tiền mới làm việc bác ái được, có tiền mới xây dựng mở mang cơ sở vật chất được. Nhưng cần tiền thì khác, còn dính bén đến tiền bạc thì khác.

Nhiều linh mục ở những giáo xứ rất giàu, nhưng cuộc sống riêng tư lại rất đạm bạc, chẳng màng chi của cải. Tiền bạc đi đâu? Thưa ngài dùng tiền chung để góp phần phát triển đời sống xứ đạo và giúp đỡ giáo dân cũng như những người nghèo khó. Giáo dân ở đó rất quý rất trọng ngài như người cha có trái tim người mẹ. Ngược lại, có một vài linh mục có những biểu hiện khác thường đối với tiền bạc, chẳng những quý tiền lại còn mê làm tiền nữa. Xây thì ít cất thì nhiều, khiến đời sống xứ đạo mỗi ngày mỗi tẻ nhạt. Trong câu chuyện sau lưng, giáo dân thường bảo cha chỉ thích những nhà mặt tiền thôi. Gặp ai cha cũng than thở mình túng thiếu, nhưng đến khi bị mất trộm, người ta mới biết cha bị mất cả bạc tỷ kìa. Một vài linh mục khác nữa lại rơi vào vòng luẩn quẩn tiền tình, cho cô này mượn một ít, cho cô kia giữ một ít, đến lúc có việc chung muốn lấy lại không được. Bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không?

Cuối cùng là lãnh vực quyền bính vốn là lãnh vực ít nhiều các linh mục phải hành xử trong sinh hoạt mục vụ điều hành giáo xứ. Ngoài những quyền thuộc diện quản trị điều khiển điều phối được quy định trong giáo luật và theo hướng dẫn của giáo phận mà linh mục nào cũng phải biết và biết chắc, còn có một số thẩm quyền được xem xét và hành xử tuỳ theo nhãn quan của mỗi mục tử trong những tình huống cụ thể nhằm lợi ích cho các linh hồn. Nhưng chính đó lại là những kẽ hở nhiều khi mở cho tính khí tác động làm nhạt nhoà đi mục đích cứu rỗi để chỉ còn là một biện pháp chế tài gây buồn lòng cho người trong cuộc và gây buồn cười cho khách bàng quan.

 

Chẳng hạn như một cha sở nọ quy định chỉ xức dầu cho các bậnh nhân vào chiều ngày thứ sáu đầu tháng, nên nhà nào có người đau yếu muốn nhận bí tích này phải báo trước cho ngài biết để ngài sắp xếp đến tận nhà. Ai không giữ quy định này thì đừng mong ngài phục vụ. Rủi có một người đau bất thình lình xin ngài ban bí tích sau hết bị từ chối và đêm ấy người ta mất, thế là cả nhà người ta ca thán giận hờn. Không bào chữa được. Có một cha sở khác chỉ vì mong muốn cho giáo xứ thăng tiến về mặt đạo đức, đã dùng bí tích giải tội như một biện pháp chề tài một giáo dân có gương xấu trong giáo xứ. Ngài công khai cấm ông ta sáu tháng không được xưng tội rước lễ, ông ta tức khí đứng lên bảo cho cha một năm luôn cho chẵn. Dở khóc dở cười. Mong rằng mỗi linh mục chúng ta biết nói không với những loại thẩm quyền mong manh ấy.

 

Tóm lại, lời đầu tiên của Đức Maria là một lời khẳng khái biết mình “không biết việc vợ chồng”, để trở nên lối sống gương mẫu vượt lên những nghịch lý biện chứng giữa biết và không biết trong đời của Mẹ, đồng thời cũng là lời dọi sáng trên đời sống của mỗi linh mục trong dịp tĩnh tâm. Mong rằng những gì linh mục biết về căn tính của mình sẽ nên nguồn lực giúp linh mục từ chối không biết đến những lãnh vực xa lạ với căn tính ấy, để đừng như bài hát “vì tôi là linh mục” vớ vẩn vẩn vơ vô vọng, mà sẽ trở thành lời kinh xác tín như thánh Phanxicô Khó Khăn “chính c quên mình là lúc gặp lại bản thân” hay như bài báo của một GMVN “xứng đáng là biết mình bất xứng”.

 

VÂNG PHỤC

Nầy tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời,

tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38)

 

khi được trao mũ đỏ, Đức Hồng Y Yves Congar, OP đã vào tuổi về hưu và đang lâm bệnh, không còn tỉnh táo nhiều nữa. Một dịp ghé thăm các chị em Tiểu muội ở Paris, tình cờ gặp cảnh mấy người đang giúp ngài dùng bữa. Người thì lo trải khăn lên ngực đề phòng thức ăn vương vãi, người thì lo bưng chén cháo sẵn sàng phục vụ, và còn người nữa có mặt chỉ với nhiệm vụ ngọt ngào dỗ dành, mong sao ĐHY ăn được chút gì để sống. Lắng nghe điệp khúc dỗ dành như nói với trẻ thơ mà thấy buồn cười: “ĐHY ngoan nào, há miệng lớn nhé, ầm”. Và thế là một muỗng cháo đã được rót gọn vào miệng. Tiếp theo là những lời tưởng thưởng. “ĐHY hôm nay ngoan ghê, có các cha Việt Nam đến thăm nè”. Thấy bữa ăn cứ tiếp tục theo nhịp 4/4: lời dỗ dành; muỗng cháo; lời tưởng thưởng; lau miệng, người ta không khỏi không mủi lòng. Có biết đâu trước mặt mình là một nhân vật nổi tiếng anh hùng.

 

Thật vậy, thuở Công Đồng Vatican 2 khai mạc, Yves Congar đã là một nhà thần học danh tiếng về Giáo Hội học, đồng thời cũng là một chuyên gia trổi trang về vấn đề đại kết. Nhưng chỉ vì tư tưởng của ngài quá mới nếu không muốn nói là táo bạo ở thời điểm đó để có thể được Giáo Hội công nhận. Chính vì thế, lời yêu cầu thôi dạy học và thôi khai triển tư tưởng đã được gửi đến ngài. Cũng giống như trường hợp các thần học gia khác bị Rôma lưu ý, cha Congar đã trăn trở nhiều: hoặc là tiếp tục dấn thân trong tư tưởng dù phải mang thương tích; hoặc là chấp nhận phán quyết của Toà Thánh để thấy sự nghiệp mình sụp đổ trước mắt. Cuối cùng, ngài bày tỏ niềm vâng phục Giáo Hội một cách tuyệt đối để rút lui vào thinh lặng, thinh lặng cho đến 30 năm sau, khi được trả lại vinh dự bằng chiếc mũ đỏ, ngài chẳng còn tỉnh táo để đội nữa.

 

Đó là một trong những chuyện đầy kịch tính và cũng thật hào hùng của sự vâng phục. Hôm nay, chúng ta cũng đối diện với sự vâng phục trong lời thứ hai của Đức Maria qua tiếng “xin vâng”. Lời đó có tầm vóc thế nào và dọi sáng ra sao trên đời sống linh mục chúng ta?

 

I. LỜI XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA

 

Lời Đức Maria được ghi trong Phúc Âm Luca là lời đầy đủ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”; nhưng lời được đọc trong Kinh truyền tin lại là lời bình dân dễ đọc dễ nhớ và dễ hiểu hơn: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.

 

1. “Này tôi”

Một chủ thể hiện diện. Là chủ từ ngôi thứ nhất số ít, đại danh từ “tôi” xác định một chủ thể là ai khi thực thi một hành vi nào đó một cách cá vị không thể lẫn với người khác. Khi thánh Maximilien Kolbê nói lên lời “tôi là linh mục công giáo” thì ngài khẳng định căn tính của mình khác với căn tính của các tù nhân Đức quốc xã kia đang xếp hàng chờ lệnh vào lò sát sinh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã có bài giảng thấm thía cho các linh mục khi cắt nghĩa chữ “tôi là” này vừa như một lời xác định vừa như một tiếng công bố. Khi cô gái là nhân vật chính trong phim truyện “đơn giản tôi là Maria” dàn trải đời mình qua các tình huống mạch chuyện, người ta hiểu rằng cô gái ấy đang khẳng định đời mình, một cuộc đời khác hẳn với những nhân vật cùng xuất hiện trong phim. “Tôi là” chính là lời bộc lộ một căn tính.

 

Nhưng “Này tôi” còn là một công thức thường dùng để xác định một sự hiện diện trong ý nghĩa hiện thực nhất. Trong nghi thức giới thiệu ứng viên chức linh mục, mỗi người đều phải khẳng định sự có mặt khi nghe xướng tên của mình qua công thức “Có mặt”. Trong nghi thức khấn dòng nữ trước đây cũng có lời xác định sự có mặt qua công thức “Dạ có con”, nhưng vì bị cật vấn theo kiểu nôm na “Bụng dạ đã có con rồi thì khấn với hứa nỗi gì?”, nên sau này người ta đã đổi sang một công thức khác nghe thanh hơn và cũng có cơ sở Thánh Kinh hơn “Lạy Chúa, này con đây”.

 

Một chủ thể tự do. Không chỉ xác định một hiện diện lời “Này tôi” của Đức Maria còn là xác quyết của một chủ thể tự do trước hành vi sắp thực hiện, không bị thúc bách bởi bất cứ sức ép nào. Danh xưng Gabriel có nghĩa là sức mạnh củ Thiên Chúa, nhưng tuyệt nhiên không có một ẩn ý nào tác động lên sự tự do của Đức Maria, mà ngược lại còn làm gia tăng bầu khí tinh thần để sự tự do kia được phát huy và nâng đỡ. Lời chào của sứ thần với ba yếu tố “Mừng vui lên, hỡi Đấng được sủng ái, Thiên Chúa ở cùng bà”, gợi lại những sấm ngôn xa xưa của Xôphônia (3,14) hoặc Dacaria (9,9) như thu tóm lại toàn thể chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa trên dân, cũng không làm suy giảm sự tự do của Mẹ, mà ngược lại còn củng cố khích lệ. Và rồi sứ điệp tiếp theo của sứ thần như dồn dập với ba động từ “sẽ thụ thai, sẽ sinh hạ một con trai và sẽ đặt tên con trẻ” vọng lại sấm ngôn Isaia (7,14) về Đấng Mêsia tưởng có thể áp đảo, nhưng xem ra lại làm cho sự tự do của Đức Maria được minh bạch hơn nữa, khi đối chiếu sứ điệp ấy với tình trạng không có khả năng chu toàn nhiệm vụ được ký thác: “không biết đến người nam”. Chính vì tôn trọng sự tự do của Đức Maria mà Thiên Chúa mới cử sứ thần đến đối thoại và cuộc truyền tin đã diễn ra như một cuộc điều đình, để chỉ khi nhận được sự ưng thuận tự do của Đức Maria, sứ thần mới cáo biệt ra đi. Xem như thế, khi trả lời “Này tôi”, Đức Maria đã bộc lộ cho thấy mình là một chủ thể tự do hoàn toàn.

 

Một chủ thể sẵn sàng. Nhưng trên hết, qua lời “Này tôi” của Đức Maria, người ta thấy sáng lên một tâm tình sẵn sàng và ứng trực. Sẵn sàng mở lòng mình ra đón nhận tình thương Thiên Chúa và ứng trực hiến dâng đời mình để quyền năng Thiên Chúa hoạt động. Thiếu đi tâm tình sẵn sàng này, chắc sẽ không bao giờ có lời Fiat và vắng bóng tâm tình ứng trực này chắc mầu nhiệm nhập thể sẽ không giống như Phúc Âm mô tả và đúng như Hội Thánh tin hôm nay. Chả thế mà khi giảng giải về lời thứ hai này, các thánh ngày xưa đã không ngừng diễn tả lòng biết ơn về sự sẵn sàng đón nhận của Đức Maria đối với lời thiên thần truyền và coi sự ứng trực của Mẹ như chìa khoá mở toang cánh cửa trần gian làm địa chỉ để Con Thiên Chúa giáng trần. Thánh Augustinô diễn ý: trước khi cưu mang Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria đã cưu mang lời Thiên Chúa. Bởi vì lòng đã sẵn sàng đón nhận lời Chúa, nên thể xác cũng ứng trực để nên lều cho Thiên Chúa cư ngụ.

 

2. “là tôi tá Đức Chúa Trời”

 

Nếu khẳng định sự hiện diện, Đức Maria xuất hiện như một chủ thể tự do, thì khi xác định mình là tôi tá, Mẹ cho thấy ý thức rõ nét của Mẹ về thân phận mình trong tương quan với Thiên Chúa. Trong một xã hội không xa lạ gì với hình ảnh của những ôsin càng được đánh giá là giàu sang, đồng thời cũng vì thế mà được trọng vọng vị nể, thì nhận mình là nữ tỳ là gì nếu không phải là khẳng định vị thế của mình trong tương quan với vị làm chủ đời mình.

 

Khi Đức Maria nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa, Mẹ chân thành lặp lại một lòng tin truyền thống là mọi người mọi vật đều là của Chúa và thuộc quyền sở hữu của Ngài, đều là dân Chúa thuộc đàn chiên Ngài dẫn dắt, đều là thọ tạo do tay Chúa tác thành và ngày ngày đều được hưởng ơn mưa móc của Chúa để vui sống. Đó là tương quan sở hữu trong một niềm tin phổ quát. Và còn hơn thế nữ, khi Đức Maria đặt mình vào phận tôi tá của Chúa, Mẹ còn đảm lĩnh một tương quan rất tự nhiên không tách rời tương quan sở hữu, đó là tương quan tuỳ thuộc. Tôi tá tuỳ thuộc vào chủ. Tôi tá phục vụ ý muốn của chủ một cách đắc lực, hết mình và hết tình, mới là tôi tớ trung tín. Chính vì thế, tương quan tuỳ thuộc cũng chính là tương quan quy phục. Trước khi nói lời quy phục, Đức Maria xác định mình trong tương quan sở hữu và tuỳ thuộc: “Này tôi là tôi tá Chúa”.

 

Không cần nhiều lời, chỉ là một khẳng định về phận tôi tá của Chúa, nhưng đã bộc lộ một sự khiêm nhường từ trong ý thức, mà khiêm nhường đúng nghĩa chính là chân lý và công bình, nghĩa là nhìn thật về mình và đón nhận vinh quang tương ứng, nên Thiên Chúa cũng muốn bộc lộ mình qua dáng dấp của một vị Chúa cao cả mà gần gũi yêu thương, siêu việt mà không ngừng quan tâm thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Đức Maria nhận mình là tôi trung của Thiên Chúa; Thiên Chúa biểu lộ Ngài là Chúa của các tôi trung. Thực vậy, qua nội dung sứ điệp truyền cho Đức Maria, từ đầu đến cuối qua ba lời thoại của Gabriel, người ta thấy hiển hiện dung mạo của một vì Chúa thật đẹp.

 

Lời thoại một là hiển hiện hình ảnh của Thiên Chúa tình thương quan tâm hết mực đến phận số từng cá nhân: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”. Ở rải rác đó đây trong Thánh Kinh, người ta có thể bắt gặp những phẩm tính riêng lẻ của Thiên Chúa được nhắc đến, nhưng được tập hợp lại như trong lời thoại một quả là trọng đại và bao la: Thiên Chúa là Đấng gieo niềm vui, là Đấng ban ơn sủng và là Đấng luôn hiện diện cho từng người mà Đức Maria là đại biểu.

 

Lời thoại hai là chân dung của Thiên Chúa cứu độ đã đón nhận phận số con người trong lịch sử của dân thánh để giải cứu muôn dân. Trong lời sấm Cựu Ước, tất cả vẫn chỉ là niềm mong chờ, tất cả còn trong thì tương lai không thể tính toán được; còn ở đây trong lời thọai hai trực tiếp với Đức Maria, tất cả đã hiển hiện, rõ mồn một, Thiên Chúa không là Đấng không màng chi tới đời sống trần thế, trái lại, Ngài là Đấng can dự để thực thi ơn cứu độ; để cứu thế, Thiên Chúa đã nhập thể, để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.

 

Lời thoại ba xem ra muốn giới thiệu lại khuôn nhan của Thiên Chúa toàn năng “không gì không làm được”, nhưng đã mở ra nhãn giới hoàn toàn mới: Thiên Chúa không chỉ là duy nhất, mà còn là Ba Ngôi. Với sự xuất hiện của Thánh Thần ngự xuống và rợp bóng trên Đức Trinh Nữ, tất cả được dìu vào vận hành mới đậm mầu cứu rỗi và nơi Đức Maria, Thiên Chúa hoạt động trong tư cách là Ba Ngôi.

 

Đến đây, ta có thể nói: nếu Đức Maria đã thốt lên lời “Này tôi là tôi tớ Chúa” bằng một phong thái khiêm nhường, thì bởi vì trước đó, qua lời của sứ thần, Thiên Chúa đã cúi xuống với Mẹ để gợi lên trong lòng ý nghĩ “Này Ta là Chúa của các tôi trung”.

 

3. “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”

 

Tất cả những lắt léo suy tư trên rốt cuộc cũng để dẫn đến đích điểm là chữ “Fiat - xin vâng” vốn là trọng tâm lời thứ hai của Đức Maria. Nếu được phép chẩn đoán, chúng ta sẽ chẩn đoán thế này.

 

Trước hết, đó là lời xin vâng trong niềm vui với ý chí tự do và trách nhiệm cao độ. Vẫn biết trong ý thức, Đức Maria chỉ dám nhận mình là nữ tỳ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa đã không chọn giải pháp đơn giản như thế để mau chóng đạt được ý muốn của mình, mà xem ra lại hạ mình hết mức để một mặt từ từ dẫn giải như phương pháp giáo dục tiệm tiến muôn thuở của Ngài dành cho các tôi tớ tuyển chọn, và mặt khác tôn trọng sự tự do đáp ứng của thụ tạo như quà tặng độc sáng Ngài ban cho họ từ thuở tạo thành.

 

Bằng quyền năng, Ngài có thể có được sự ưng thuận của Đức Maria dễ dàng như trở bàn tay, nhưng bằng tình yêu, Ngài đã chinh phục nữ tỳ của Ngài từng bước. Xem ra trong cuộc trao đổi lạ lùng này, Thiên Chúa đã cho thấy ý định “làm người” của Ngài một cách quyết liệt. Ngài chờ đợi sự ưng thuận của người biết mình chỉ là tôi tá, để sẵn sàng nâng người tôi tá ấy lên phẩm chức là Mẹ của Thiên Chúa giáng trần.

 

Quả là kỳ diệu và lạ lùng đường lối của Thiên Chúa, thế nên khi nghe lời xin vâng của Đức Maria đối với sứ điệp truyền tin, người ta cũng nghe vang vọng lại niềm vui của lời chào phút đầu gặp gỡ. Có điều là ở đây, không chỉ Đức Maria đắm đuối trong niềm vui sâu lắng, mà chừng như chính Thiên Chúa cũng mừng vui không kém khi đạt được ý nguyện của mình, làm tiền đề vững chắc cho công cuộc nhập thể cứu đời. Những sách dẫn giải về đường thiêng liêng còn đi xa hơn nữa để bảo rằng thiên đàng cũng rộn vui và trần thế bỗng bật tung lên nhảy mừng. Đất với trời hợp lời giao duyên. Thiên Chúa xuống với gian trần và gian trần tìm lại được gốc gác nguyên thuỷ của mình. Đúng với Thiên Chúa đã sáng tạo cách lạ lùng và Ngài còn tái tạo cách lạ lùng hơn nữa, theo ngôn từ của Thánh Augustinô.

 

Tiếp theo, đó cũng là lời xin vâng trong tinh thần dấn thân trọn vẹn và suốt đời, không gì có thể làm đảo ngược được. Lời Fiat - xin vâng xem ra ngắn ngủi, nhưng âm vang một khi dâng lên là không ngừng lại nữa. Đức Maria từ lời thứ hai này sẽ đảm lãnh trọn vẹn lời ấy trong suốt quá trình cuộc sống bên cạnh Đấng Cứu Thế cũng là con của Mẹ, từ những lúc vui mừng nhất của đêm Giáng Sinh với tiếng hát vinh danh của ca đoàn thiên sứ tới những phút thê lương nhất của chiều tử nạn đứng đó chôn chân như tượng đài hiệp công cứu chuộc; từ những ngày tuổi thơ êm đềm của trẻ Giêsu bên cạnh cha mẹ tại quê hương Nagiarét đến những tháng năm đời công khai của Ngài dong duổi khắp đất nước mà rao giảng Tin Mừng cho mọi kẻ thành tâm. Trong niềm vui, lời xin vâng có thể không có gì đáng quan ngại, nhưng trong nước mắt nỗi sầu, lời xin vâng quả là một đỉnh cao phải lao đao chinh phục với khó khăn trăm bề. Trong hạnh phúc, ai cũng dễ dàng nói tiếng xin vâng, nhưng trong bất hạnh, tiếng xin vâng xem ra chỉ thuộc về những tâm hồn cao thượng. Như ông Gióp biết dâng lời tạ ơn khi giàu sang phú túc cũng như khi khổ cực bần hàn; như cha thánh Lê Bảo Tịnh biết “xin tạ ơn Chúa muôn đời” khi có được bầu khí tự do thi hành đạo giáo cũng như khi phải xích xiềng tù tội.

 

Tiếng xin vâng cất lên một lần xem ra không khó, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng ân cần nhắc lại như một điệp khúc hiến dâng tưởng không dễ lắm đâu. Xin vâng là tiếng đầy kịch tính.

 

Sau nữa, đó còn là lời xin vâng trong hào hùng dân hiến. Xin ghi nhận một chi tiết rất nhỏ, nhưng xem ra lại không kém phần quan trọng, đó là phần kết thúc lời nói thứ hai của Đức Maria: “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Đã đành, vâng lời là vâng lời Thiên Chúa, nhưng trong thực tế của phần lớn lịch sử Giáo Hội Công giáo bây giờ, Thiên Chúa đâu có nói chuyện trực tiếp diện đối diện với con người như giữa cuộc thần hiển nữa, mà xem ra Ngài lại thích truyện trò với con người qua trung gian của những người đại diện. Không phải vì Ngài bận trăm công ngàn việc không có giờ dành cho con người, cũng không phải vì khả năng ngôn ngữ Ngài giới hạn hoặc không còn kiên nhẫn nữa, mà chỉ vì muốn cho con người khi vâng lời Ngài cũng biết chứng minh bằng sự hào hùng.

 

Buổi truyền tin, Chúa nói với Đức Maria qua trung gian của sứ thần, nên lời xin vâng của Mẹ như tái xác nhận sự tôn trọng của Mẹ đối với vị trung gian này. Thực ra, nếu Đức Maria chỉ thưa “tôi xin vâng ý Chúa” cũng đã trọn nghĩa lắm rồi, vì Mẹ nhìn nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” mà. Nhưng một khi phải đi đường vòng để dài dòng bằng câu “tôi xin vâng như lời thiên thiên truyền”, thì về mặt đối thoại, Đức Maria đã để lại một tương quan đẹp với sứ thần, và nhất là về mặt sư phạm, Mẹ đã nêu lên mẫu gương vâng phục Chúa qua trung gian của vị đại diện.

 

Chính với hình ảnh vâng phục tuyệt đẹp tuyệt sáng này, người ta luôn trình bày Mẹ với phong thái hiến dâng: dâng trọn ý muốn, dâng trót cả cuộc đời, dâng không bằng lời mà còn dâng mãi dâng hoài bằng từng nhịp bước của hành trình theo Chúa và thực thi lời Chúa. Sau lời Fiat - xin vâng, sứ thần ra đi, nhưng Thiên Chúa từ đây cư ngụ vĩnh viễn trong tâm hồn và đời sống của người đã sẵn sàng thưa lời xin vâng với mình.

 

II. SỰ VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI LINH MỤC

 

Cuộc đời Đức Maria là tiếng xin vâng kéo dài. Không thể nói đến Mẹ mà không nói đến tiếng xin vâng diệu kỳ này, cũng như đừng mơ đến mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc được trình bày như trong tín lý hiện nay nếu không có tiếng xin vâng lạ lùng ấy. Suy tư để dẫn sang thực hành, vì thế chúng ta thử xem lời xin vâng ấy sẽ có những âm vang nào trong đời sống linh mục.

 

1. Vâng phục là thành phần cuộc đời linh mục

 

Khởi đầu nghi thức bí tích truyền chức, mỗi ứng viên linh mục được mời gọi trả lời tích cực cho những câu thẩm vấn công khai trước cộng đoàn phụng vụ. Tổng hợp những câu trả lời này được coi như bản tuyên bố trước mặt dân chúng quyết tâm của ứng viên về nhiệm vụ sắp lãnh nhận. Sách nghi thức gọi đó là “lời hứa của các ứng viên”. Trong số các câu hỏi ấy, đặc biệt có một câu mà từng ứng viên phải quỳ với đôi tay chắp lại đặt trong tay giám mục để thưa. Đó cũng chính là câu mà ứng viên phải nói bằng lời “thưa con hứa” khác với những câu thẩm vấn trước là “thưa con muốn”. Câu đó thế này: “con có hứa kính trọng và vâng phục cha cùng các đấng kế vị cha không?”. Chỉ nguyên việc này thôi cũng đủ để cho thấy sự vâng phục không phải chỉ là hiệu quả đến sau bí tích truyền chức để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa, mà chính là tiền đề để thánh chức được trao ban và là điều quan trọng không thể thiếu được để là một linh mục đích thực.

 

Đã đành đây chỉ là một lời hứa đúng với chữ nghĩa vốn khác với lời khấn vâng phục của các tu sĩ về cấp độ, nhưng về bản chất, hứa hay khấn cũng chẳng cách xa nhau bao nhiêu, nếu không muốn nói là tương đồng. Thành ra, có thể khẳng định: ngay trong nghi thức bí tích truyền chức, vâng phục đã trở nên thành phần của đời linh mục. Ngôn từ “thưa con hứa” và hành vi “tay trong tay” tự nó đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa và nét đẹp của sự vâng phục nơi người linh mục. Không biết các cha thế nào chứ bản thân tôi khi lãnh chức linh mục, với câu hỏi này tôi đã ngước mặt lên và bắt gặp ánh mắt âu yếu của vị chủ phong đang nhìn vào mắt mình, bất giác tôi cảm động và đã nói lời “thưa con hứa” với cả tâm tình.

Nhưng tại sao lại phải gài lời hứa vâng phục giám mục vào trong nghi thức truyền chức? Thưa chắc không phải vô tình đâu, mà có lẽ là một hữu ý, một mặt cho thấy người ta không htể cứ muốn làm linh mục là tự nhiên thành, mà phải được kêu gọi; và mặt khác cũng nhắc nhở rằng khi thi hành nhiệm vụ, linh mục không thể cứ muốn làm gì thì tự ý làm, mà phải tuỳ thuộc vào giám mục của mình.

 

Kinh nghiệm cho biết trong linh mục đoàn mỗi giáo phận cũng có vài người cá tính khá độc lập tự do cho mình cái quyền muốn làm gì thì làm, chẳng hỏi ai và cũng chẳng phải trả lời ai. Làm như đã là linh mục người ta nghiễm nhiên trở thành “cha toàn năng” làm được và được làm mọi sự không kể chi đến phẩm trật quyền bính. Như một cha xứ nọ có máu kinh doanh, thấy khuôn viên nhà thờ còn rộng nên nảy ra sáng kiến xây một dãy nhà ở đó để cho thuê mở câu lạc bộ thể hình, vừa được tiếng là tích cực tham gia phong trào khoẻ tại địa phương, vừa tháng tháng có chút đỉnh chi tiêu. Giáo dân ngứa mắt vì ngày ngày đi lễ đều thấy những hình thể lồ lộ không cầm trí được, nên phản ảnh về Toà Giám mục. Giải pháp đưa ra là đề nghị cha dẹp ngay cái câu lạc bộ “trên hở ngực dưới hở đùi, khi đi thiếu vải khi ngồi thừa da” kia đi. Nhưng có lẽ vì tiếc của, vị linh mục này không nghe. Sự việc xập xình mãi cho đến lúc phải thuyên chuyển linh mục đi, người ta mới dẹp được cái bộ lạc câu khách kia.

 

Vâng phục là một phần trong nghi lễ phong chức. Linh mục luôn ý thức. Nhưng từ ý thức đến thực hành lại là một khoảng cách. Chính khi xem sự vâng phục như một phần kỷ luật đời sống, linh mục mới thể hiện mình một cách cụ thể và tròn đầy. Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã nêu rõ tính tông đồ, tính cộng đoàn và tính mục vụ trong sự tuân phục của linh mục. Chỉ nam Linh mục cũng không ngần ngại đưa ra những hướng dẫn cụ thể để linh mục có thể chu toàn sự tuân phục trong đời sống phục vụ của mình. Nhưng tuân phục không phải là một đức tính riêng lẻ, mà đúng ra là thành phần trong một toàn bộ lớn chính là đời sống hiếng dâng. Linh mục đã hiến dâng đời mình cho Chúa thì dâng cho trót và đã hiến dâng cho Giáo Hội thì dâng cho trọn. Đừng giữ lại phần ý riêng cho mình, dẫu đâu đó người ta xem mình là có cá tính, hay đôi khi người ta tâng bốc mình là có bản lãnh. Đã đành, linh mục theo kiểu nói ngày xưa là “thầy cả”, nhưng nếu vịn vào đó để không thích vâng phục quyền bính Giáo Hội nữa thì e rằng mình đang đi đường ngược chiều, có thể bị thổi còi bởi cảnh sát giao thông bất cứ lúc nào. Trong ý nghĩa này, câu nói “Giáo Hội có kỷ cương” của những cha trọng tuổi đã xem ra rất ám hạp để nói về sự tuân phục trong đời sống của các mục tử chúng ta. Để vâng phục bề trên, người ta cần phải xoá mình, và càng biết xoá mình bao nhiêu người ta càng dễ buông mình theo quy định chung bấy nhiêu.

Ở một giáo xứ lớn nội thành (Tp. HCM), đầu tháng nào giáo dân cũng rủ nhau đi lễ rất đông, tưởng là cha sở có sáng kiến mục vụ đặc biệt như mời cha khách giảng tuần đại phúc hay có thêm những sinh hoạt sùng kính bình dân khác như suy tôn lòng thương xót của Chúa hoặc đặt tay xin Chúa chữa lành. Nhưng không phải, người đến đó đi lễ rỉ tai nhau: “sướng lắm, chả phải xưng tội xưng lỗi gì cả, trước thánh lễ cha đều giải tội tập thể, thế là cứ đi lễ rước lễ thoải mái. Vô tư”. Quả là vô tư thật: giáo dân vô tư rước lễ, cha sở vô tư ban phép xá giải. Nhưng giáo phận, vì kỷ cương Hội Thánh, không thể vô tư được, nên đã xin cha sở bản phúc trình và cuối cùng phải dùng biện pháp hành chánh để ngưng cái tối kiến mục vụ kia đi. Thi hành biện pháp theo phương thức cuốn chiếu. Cuối cùng, cha sở ấy cũng chịu tuân phục. May quá. Nhiều khi tôi cứ nghĩ lẩn thẩn: giá mà những thiện chí mục vụ được thấm nhuần trong sự vâng phục ngay từ đầu, việc làm của người mục tử sẽ để lại những kết quả tốt đẹp hơn và nhất là để lại một tấm gương khó quên trong đời sống tín hữu.

 

2. Vâng và phục

 

Tiếng Việt mình đôi lúc nôm na, nhưng đôi lúc cũng sâu sắc lắm. Trường hợp chữ vâng phục là một ví dụ về sự sâu sắc ấy. Trong khi tiếng pháp phải cắt nghĩa dài dòng, tuy cũng tìm được cặp từ ý nhị, thì tiếng Việt chỉ cần một từ kép “vâng phục”. Vâng là vâng theo lệnh theo luật theo quy định: chữ vâng thuộc về bên lý trí nhiều hơn; trong khi phục là phục người ban lệnh hoặc phục người thi hành lệnh ấy: chữ phục lại thuộc về bên tâm tình nhiều hơn. Tuy nhiên nghiêng về bên nào là cả một sự cân nhắc đã trở thành nghệ thuật của cách thế ban lệnh và cách thế chấp hành lệnh ban. Chả thế mà người xưa đã có châm ngôn: qui ne sait pas obéir, ne sait pas commander. Biết vâng lệnh mới biết cách ra lệnh.

 

Trong khoá bồi dưỡng dành cho các giám mục trẻ mới chịu chức trong vòng năm năm, bộ Truyền giáo cũng có một buồi thuyết trình về đề tài vâng phục này. Bằng tiếng pháp, người ta phân tích cho thấy vâng là obéir effectivement và phục là obéir affectivement. Chỉ vâng thôi mà không phục thường là do lệnh ban khô cứng, người ban lệnh có chút ngả nghiêng và người chấp lệnh còn có điều khuất tất. Một lệnh ban sắt thép thường mau có hiệu quả vãn hồi trật tự, nhưng lại có hậu quả làm tan nát lòng người; trong khi chịu khó tỉ mỉ bọc nhung những chi tiết sắt thép lại, lệnh ban sẽ có hiệu quả kép là vừa vãn hồi trật tự vừa nhẹ nhàng xoa dịu lòng người.

Lý thuyết là thế, còn trong thực tế phải thú nhận là rất khó. Các cha dư kinh nghiệm. Lý và tình là hai phạm trù cùng tồn tại, khi thì đối nghịch loài trừ, khi thì tương tác phong phú. Cứ sức người thật khó phân định. Nhưng như trường hợp Đức Maria, với bóp rợp của Chúa Thánh Thần, đã thưa lên lời Fiat tuyệt vời, mỗi linh mục cũng được mời gọi gắn bó với Chúa Thánh Thần để đảm lĩnh sự vâng phục trong tác vụ đời mình.

 

Một cha trẻ ở Tp. HCM mới ra trường về làm phụ tá trong một giáo xứ lớn, không biết vì việc gì thường đi vắng cả ngày, cứ sáng làm lễ xong là mất dạng cho đến tối mới trở về. Nghe đâu cha đi học ngoại ngữ để chuẩn bị đi tu nghiệp bên Mỹ. Cha sở lấy làm lạ nên xin xác minh từ Toà giám mục và nhận được câu trả lời là chưa có chủ trương ấy. Cha sở tìm hiểu và biết được cha phụ tá của mình vắng nhà vì một lý do khác: học thiết kế kỹ thuật và mỹ thuật trên vi tính để chuẩn bị cho những cong trình xây dựng tương lai. Cha sở nhẹ nhàng khuyên bảo bằng cách khôi hài phân tích giữa tu trì và tu hành: “tu trì” là có mặt tại xứ còn “tu hành” là đi lang thang cả ngày. Đồng thời ngài cũng xin cha phụ tá thiết kế mẫu mã cho nhà thờ họ lẻ sắp xây. Cha phụ tá nghe ra và cảm thấy mình có ích, nên đã chuyển máy móc về nhà xứ làm việc. Anh em đuề huề. Vâng và phục song đôi, đến nỗi cha phụ tá ấy sau này đi phục vụ tại nơi khác vẫn giữ tình gắn bó với cha sở đầu tiên của mình. Trộm nghĩ trong trường hợp này, cha phụ tá đã biết vâng phục thật tốt, nhưng cha sở cũng là người góp phần không nhỏ vào thái độ vâng phục đẹp này.

 

Còn một khía cạnh khác liên quan đến sự vâng phục mà không nói sẽ không tránh khỏi thiếu sót, mà nói đến lại không tránh hết va chạm, đó là những nhân vật trung gian giữa Đấng bản quyền và các linh mục. Dĩ nhiên, kiểu nói của thánh Phêrô “phải vâng lời Chúa hơn vâng lời người ta” luôn luôn có giá trị, nhưng Chúa thì đâu có mặt đối mặt nữa mà thường chỉ ban lệnh qua những vị đại diện làm trung gian, nên nhiều khi lệnh ban cũng không tránh khỏi bị khúc xạ. Rất nhiều trường hợp bị nhiễu sóng để lại dư vị chua chát, như có lần nào trong một bài báo, một linh mục đã thốt lên: “tôi không sợ Phêrô, nhưng lại sợ những thư ký của Phêrô”. Có thể diễn ý: không sợ Đức Giáo Hoàng, nhưng sợ các thánh bộ; không sợ giám mục, nhưng sợ cha bí thư phòng bộ; không sợ cha sở mà sợ ông trùm; không sợ cha phụ tá mà sợ mấy huynh trưởng thiếu nhi.

 

Nói cho cùng, chỉ có Chúa Giêsu mới được diện đối diện nhận lệnh từ Chúa Cha thôi, mà nào có nhẹ nhàng gì, phải vâng phục với mồ hôi loáng máu, chứ kỳ dư nơi loài người trần thế, bất luận trong cương vị nào cũng đều nhận lệnh qua trung gian của người đại diện. Đức Maria nhận thực mình là nữ tỳ Chúa, nhưng lại nhận lệnh Chúa qua trung gian của sứ thần, nên đã khiêm nhường thốt lên “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Đó là đường đi của lệnh ban và cũng là đường nét hào hùng của vâng phục.

 

Một cha sở nọ mới lâm trọng bệnh được giám mục bảo nên đi nghỉ hưu. Cha không vui đưa ra nhiều lý do trì hoãn trong đó có lý do lớn là công trình xây dựng còn dang dở. N hưng bệnh tật có nể nang ai, cha lại đột quỵ, và lần này giám mục nhờ cha quả hạt tác động đến để có được kết quả mong muốn, kẻo làm thiệt hại đến đời sống thiêng liêng của dân Chúa. Khổ nỗi cha quản hạt nhà mình lại sốt sắng quá, nhân dịp cha sở ấy nhập viện, ngài xử lý công việc tận tình với một tờ sớ liệt kê được 47 chủ nợ lớn bé của cha sở ấy đang bức xúc muốn nhận lại tiền. Thế là áp lực bệnh tật tái phát cộng thêm áp lực nợ nần được công khai hoá, cha sở kia phải chấp nhận giải pháp rút lui. Cũng là vâng lời bề trên đấy, nhưng xem ra không vui trọn vẹn, nếu không muốn nói là thiếu vắng một lòng kính phục. Vị trung gian kia cũng làm tròn sứ mạng đấy, nhưng giá mà có cách xử lý uyển chuyển hơn, có lẽ yếu tố kịch tính sẽ dịu bớt hơn. Tất nhiên, bệnh tật phải lo chữa chạy và nợ nần phải lo liệu trả, nhưng xem ra trong tình huống cụ thể này, phải có ơn Chúa Thánh Thần nữa mới giải quyết thấu tình đạt lý được.

 

3. Vài lãnh vực đang cần đến sự vâng phục

 

Những dẫn chứng cụ thể về sự vâng phục trong đời sống linh mục có thể chỉ là những trường hợp cá biệt, không khái quát hết hiện trạng kèm theo những trăn trở mà có thể chỉ người trong cuộoc tại hiện trường mới biết hết, hay người trải rồi, thấm mệt rồi mới thấy thấm thía. Như một kinh nghiệm. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Nhưng trong công việc mục vụ chung của giáo phận, cũng có một vài lãnh vực linh mục cần nêu cao sự vâng phục để vừa dễ dàng cho việc điều hành chung vừa nêu gương sáng cho giáo dân.

 

Trước hết là lãnh vực phụng vụ. Thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo chỉ có một, nên đâu cũng như đâu, đều dựa theo Sách lễ Rôma, không khác đi được. Vì thế mới gọi là Lễ Quy. Điều này các linh mục ai cũng biết rõ, ngay từ khi cử hành Thánh Lễ đầu đời. Nhưng không biết có phải vì linh hồn thiêng liêng sáng láng qúa, nên cứ thích sáng chế ra những chi tiết diễn ý đi ra ngoài quy định chung của Giáo Hội. Những chi tiết ấy có thể làm vừa lòng một số giáo dân, nhưng phần đông giáo hữu còn lại chẳng vui lòng gì. Đây là lãnh vực để lại nhiều điều ong tiếng ve khiến giám mục phải đau đầu.

 

Chẳng hạn như một linh mục thích nói nhiều trong Thánh lễ, nói đầu lễ và bài giảng thì chẳng phải kêu ca làm gì; nhưng nói giữa lễ đan xen trong phần kinh nguyện Thánh Thể, như cứ nghĩ gì nói nấy mà chẳng quan tâm đến sự tập trung tôn thờ cao độ của cộng đoàn. Tay lúc nào cũng khư khư giữ cái micro sans fil kê sát miệng, thấy mà ngán.

 

Chẳng hạn như một linh mục khác thuộc thời @, hi-tec đi đâu cũng kè kè cái điện thoại di động, thậm chí khi lên bàn thờ, cha chẳng những không khoá máy, mà lại còn để ngay bên chén lễ. Có lần đang lễ có cuộc gọi đến và máy reo một đoạn tình ca, cha bốc máy trả lời tỉnh queo trước mặt cộng đoàn, thấy mà ngại. Mong rằng vì tình hiệp thông vâng phục Giáo Hội, xin chớ để linh mục chúng ta sa chước cám dỗ dễ dãi này.

 

Ngoài ra là lãnh vực sổ sách giáo xứ. Hết rồi cái thời khó khăn “tay trái làm không cho tay phải biết”, bây giờ việc sổ sách giáo xứ đã dễ dàng và vì thế cũng cần được hệ thống hoá và ghi chép minh bạch hơn, từ sổ lễ cá nhân đến sổ sách bí tích Rửa tội, Thêm sức và Hôn phối. Giáo luật đã quy định và Giáo phận đã hướng dẫn. Ngày xưa các giám mục mỗi lần đi kinh lý đều được trình xem những sổ sách này. Ngày nay có khác. Hình như giám mục chỉ còn ký sổ bí tích Thêm sức thôi. Nhưng trong những lần ký hiếm hoi ấy, thấy nhiều nơi xem ra còn luộm thuộm lắm. Bản thân tôi có lần được xin ký khống ở cuối trang, còn chi tiết cha sở sẽ điền vào sau, vì ngài chưa làm kịp. Thấy mà buồn cười. Đây chỉ là trường hợp vô cùng ngoại lệ. Mong rằng linh mục đoàn giáo phận sẽ thể hiện sự vâng phục một cách cụ thể qua việc sổ sách này.

 

Và cuối cùng là lãnh vực thuyên chuyển, một lãnh vực khá nhạy cảm, cũng là lãnh vực thử thách sự vâng phục của linh mục sát sườn nhất. Có nhiều linh mục thánh thiện luôn sống tinh thần ứng trực, được giám mục gợi ý đi đâu cũng chấp hành mau mắn. Giống như Đức Maria trong Phúc Âm thưa tiếng Fiat vậy. Được như thế chắc chắn giám mục hài lòng lắm và nhịp sống giáo phận cũng suông sẻ, tuy nhiên cũng có một hai linh mục khi nhận được lệnh thuyên chuyển chẳng những đã không vâng lệnh bề trên lại còn vận động đó đây xin giữ mình lại, khiến việc điều hành giáo phận cứ rối tung lên. Giống như quân cờ domino bị kẹt lại làm tắc nghẽn mọi thế chuyển dịch. Thuyên chuyển giáo xứ là một sinh hoạt bình thường, không thuyên chuyển mới là bất thường. Thành thử, mỗi linh mục khi được gọi, hãy đáp lời xin vâng với cả tâm tình hào hùng của người lên đường truyền giáo.

 

Tóm lại, lời thứ hai của Đức Maria là lời phản ảnh một tâm hồn nghèo khó, một trái tim đơn sơ và là điểm đến của một thái độ sẵn sàng và ứng trực. Lời Fiat ấy đã biến đổi Đức Maria từ người nữ tỳ sang Mẹ Thiên Chúa. Xin cho lời Fiat ấy trở nên khuôn mẫu cho mọi linh mục, trong tư duy cũng như trong thực hành, để như ý nguyện của bài hát “Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng”, đời sống linh mục sẽ được biến đổi nên mới hơn.

 

Người ta kể: một hãng xe hơi đã cử người đến hỏi Đức Giáo Hoàng xem phải mất gì để được nêu tên hãng xe mình trong thánh lễ, như tên Fiat trong kinh Lạy Cha. Đức Giáo Hoàng không trả lời. Ngài nghĩ: phải mất mạng. Như Chúa Giêsu đã phải chết để trọn lời “Fiat voluntas tua”, như Đức Maria đã hiến mình để thưa lời Fiat, và như mỗi linh mục chúng ta hôm nay đang còn phải nỗ lực hiến dâng đời mình để học sống lời Fiat của Đức Maria.

 

BẰNG HỮU

Đức Maria vào nhà ông Dacaria

và chào hỏi bà Elizabeth (Lc 1,40)

 

Cách đây ít năm, tại một giáo xứ nhỏ thuộc Giáo Phận Tp.HCM có hai cha già về hưu chung sống với nhau và làm việc mục vụ bên nhau rất hài hòa hạnh phúc, một cha mắt đã lòa hoàn toàn và một cha thì chân yếu, có điều cả hai đều còn minh mẫn và còn giảng giải tốt. Nghe đâu các ngài thân thiết với nhau từ lâu, thuở còn sinh hoạt Hướng Đạo có bằng rừng nhiều người còn nhớ. Một lần đến giáo xứ ban bí tích Thêm sức, thấy tình cảm của hai vị mà cảm động và cảm phục. Cảm động vì lần đầu tiên gặp thấy hai linh mục nương tựa vào nhau mà làm việc và cảm phục vì được đối diện với một tình bạn bền bỉ bất kể những hạn chế về sức khỏe và tuổi tác.

 

Được biết thêm: ngày nào cũng thế, trong khi cha mắt sáng dâng lễ thì cha mắt lòa dự lễ, và vì cha mắt sáng có thể cử hành các nghi thức nên cha mắt lòa mà tai lại thính trở thành chuyên gia ngồi tòa giải tội. Giáo dân rất yêu kính hai cha và đặc biệt rất thích đến xưng tội với cha mắt lòa. Đơn giản vì ngài chẳng nhìn thấy ai nên họ không sợ và vì ngài cũng chẳng cần xem đồng hồ để giữ giờ giấc, mà cứ ngồi tòa cho đến khi hết hối nhân mới có người đến dẫn ngài vào nên họ không ngại đến với ngài bất cứ lúc nào. Đối với cha mắt sáng, có người trách nhiệm thường trực ở tòa giải tội là một sự trợ giúp không gì thay thế được; còn đối với cha mắt lòa, ngồi tòa giải tội lại là cơ hội ít oi để ngài nhận thấy mình còn có ích cho người khác và còn hạnh phúc để phục vụ Giáo Hội. Hồi đầu, khi biết hai vị cùng về sống trong một nhà xứ, người ta đã tỏ vẻ quan ngại: các cha già về hưu thường khác tính, khó sống với nhau lắm, không biết được bao lâu. Nhưng sau vài năm hoàn toàn bình ổn, người ta lại không ngớt lời thán phục coi đó như một mẫu gương về tình bằng hữu trong đời linh mục. Ngày nay hai cha già ấy không còn ở giáo xứ nữa, nhưng giáo dân ở đó vẫn coi lòng đạo đức và tình thân của hai cha không chỉ như kỷ niệm đáng nhớ mà còn như tài sản tinh thần còn được phát triển trong tương lai.

 

Lời thứ ba của Đức Maria chúng ta cùng suy niệm giờ này là một lời liên quan đến tình bác ái yêu thương giữa huynh đệ hoặc giữa tỷ muội với nhau, cũng là một mẫu gương đằm thắm của tình bằng hữu. Vì thế, trước hết là phân tích và ghi nhận tình bằng hữu đó trong những nét tiêu biểu, và sau đó là cố gắng đặt tình bằng hữu linhg mục dưới ánh sáng tình yêu của Đức Maria.

 

I. TÌNH BẰNG HỮU CỦA ĐỨC MARIA

 

Lời thứ ba tuy không được ghi lại bằng lối văn trực tiếp như những lời khác để có thể viết ra, nhưng lại ngồn ngộn các sự kiện như được mô tả trong trình thuật thăm viếng. Cách ghi nhận của thánh sử Luca dẫu vắn gọn: “Bà (Maria) vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên”, nhưng nối kết với những chi tiết khác của chuyến viếng thăm lịch sử này, đặc biệt về địa lý miền núi, về tâm lý Đức Maria và về những lời bà Êlisabét lớn tiếng nói lên trong Thánh Thần, người ta có thể phác vẽ lên cả một tình bằng hữu thật ý nghĩa trong những nét tươi tắn và cụ thể nhất.

 

1. Vội vã lên đường

 

“Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”. Chỉ một câu ngắn mang tính nhập đề, nhưng cũng chỉ chừng đó thôi cũng đủ để hình dung phong thái của Đức Maria trong sáng kiến viếng thăm người thân gia đình mình.

 

Về mặt tâm lý. Rõ ràng, Đức Maria không biết trực tiếp tin vui bà Êlisabét sắp sinh con. Phúc Âm có nói gì đâu. Vả lại ở tuổi già có ai còn dám nghĩ đến chuyện ấy. Hoặc giả có nghĩ cũng chẳm dám mơ, và có mơ quay quắt đi nữa cũng chẳng mong thấy. Bà Sara trong Cựu Ước cũng còn cười “không dám đâu” cơ mà. Chuyện phụ nữ đã có gia đình mà hiếm muộn trong Thánh Kinh là một nỗi nhục “nước mắt nuốt vào trng”. Chả phải nói đâu xa, ở Việt Nam xưa cũng vậy qua lời dè bỉu: cây độc không sinh trái. Mẹ chỉ được thông tin gián tiếp qua lời thiên sứ, mà có phải là thông tin chính thức đâu. Chỉ như một bằng chứng bảo đảm rằng Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, kể cả những sự trước mắt con người là không thể. Thông tin ấy đúng ra là để kêu gọi lòng tin nơi Đức Maria. Nếu bà Êlisabét có thốt lên “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” thì cũng là một xác nhận thông tin kia chỉ là gián tiếp. Nhưng mặc kệ. Mẹ không chần chừ chuẩn bị hành trang và mau mắn lên đường.

 

Không biết rõ họ hàng trực hệ bàng hệ của Đức Maria và bà Êlisabét ra sao, nhưng chỉ nhìn vào sự vội vã lên đường này cũng chẩn đoán được họ thân thiết với nhau chừng nào. Lẽ thường tình như trong văn hóa Việt Nam, xa mặt thì cũng cách lòng. Chuyện đương nhiên. Mặt mình mà lâu không nhìn lại có khi cũng thấy khác nữa là mặt người thân. Cũng lẽ thường tình nữa đối với một người thân thích anh chị em họ gần mà ở xa, tuy trong lòng vẫn nhớ nhung quý mến, nhưng lâu ngày không gặp, một cách nào đó đã không còn thân thích hơn người hàng xóm tuy không họ hàng mà lại gần gũi. “Bán anh em xa mua láng giềng gần” chẳng phải là giải pháp được chấp nhận đó sao? Hiểu như thế mới thấy việc Đức Maria vội vã lên đường có một tầm vóc quan trọng thế nào trong tình thân hữu.

 

Chỉ nghe biết thông tin gián tiếp về việc bà Êlisabét có thai được sáu tháng mà đã trực chỉ lên đường thăm viếng bà ấy ngay, bất kể chuyện riêng đời Mẹ còn ngổng ngang chưa biết sắp xếp ra sao, nhất là còn đó chuyện giải trình sự việc mình bỗng dưng có bầu cho người mình đã đính hôn nhưng chưa về chung sống. Mặc kệ. Nghĩa công nặng hơn tình riêng. Bà Êlisabét được Thiên Chúa yêu thương cho đậu thai và Mẹ Thiên Chúa yêu thương chọn gọi mang thai Con Thiên Chúa làm người đã là động lực thúc đẩy Mẹ phải lên đường nay để niềm vui nóng hổi được chia sẻ và được cộng hưởng trong tình yêu đậm đà của Thiên Chúa. Thế mới biết tình thân hữu đích thực phải là tình được dẫn dắt bằng tình yêu trên cao.

 

Về mặt địa lý. Người ta bảo trong một cuộc hành trình, điều quan trọng ảnh hưởng đến kết quả cuối đường không phải là địa hình, mà chính là bước khởi hành, như trong các cuộc chạy đua, chỉ cần một phần tư giây chậm trễ, đích điểm sẽ như xa thêm một đỗi đường. Đức Maria đã lên đường mau mắn. Mẹ đã có lợi thế. Nhưng đường đi như mô tả của Phúc Âm xem ra ngắn xịt: “đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cứ như chỉ vài bước chân; trong khi trên thực địa lại xa xôi và chẳng nhẹ nhàng gì. Ai đã quen với địa lý Thánh Kinh ắt có thể mường tượng được độ dài của cuộc hành trình từ một thành miền đồng bằng Galilê đến một thành miền núi Giuđê. Không chỉ là cuộc hành trình mà xem ra còn là cuộc hành hình nữa, vì đường đi đã gập ghềnh sỏi đá sao gợn khô cằn, người đi lại còn phải leo trèo chống đỡ lắc lư lên dốc đổ đèo. Trong dịp hành hương Thánh Địa cách đây 10 năm, khi dừng lại trên một ngọn núi để xe và người nghỉ mệt, mấy anh em linh mục chúng tôi có dịp nhìn xuống Galilê và nhìn lên Giuđê, bất giác lượng giá đường đi của Đức Maria, từ Nazarét đến Ain Karim cách xa 150 km (95 miles), rồi từ hỏi làm sao mà Mẹ có thể đi được ở một thời chỉ có cách đi bộ hoặc ngồi trên lưng lừa? Phải mất 5 ngày hoặc một tuần lễ!

 

Kinh nghiệm của Nguyễn Thái Học qua câu nói nổi tiếng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, có lẽ được vận dụng ở đây để hiểu hơn lựa chọn của Đức Maria. Đường xa, Mẹ quá rõ; đường khó, Mẹ đã tường; nhưng Mẹ vẫn vội vã ra đi như không còn chờ được nữa, chính vì niềm vui trong lòng đã cho Mẹ sức mạnh, và Đấng Cứu Độ trong lòng đã giải thoát Mẹ khỏi mọi âu lo để an dạ cất bước ra đi. Núi non có cách trở, nhưng sự nôn nao còn cao hơn núi khiến Mẹ đã chẳng quản ngại thân gái dặm trường, chỉ với ước nguyện được gặp gỡ người bà con chị em trong tình yêu thắm thiết. Tình thân hữu được nâng đỡ bằng tình yêu của Đấng Cứu Thế.

 

2. Vui vẻ gặp gỡ

 

Đường đi càng nhọc mệt bao nhiêu, gặp gỡ càng thắm thiết bấy nhiêu. Như quên hết đường dài, Đức Maria bộc lộ niềm vui qua lời chào gửi đến người chị họ cách mặt mà chẳng cách lòng. Niềm vui ắp đầy sắp sửa trào ra, nhưng hãy khoan. Tiếng chào cao hơn mâm cỗ mà. Đức Maria là người mở lời để hôm nay ta mới có lời thứ ba của Mẹ mà suy niệm. Có điều lạ là lời này nội dung đầy ứ mà lời thoại chẳng được tỏ ra, vì thế Phúc Âm muốn ghi cũng không được, và chúng ta hôm nay cũng đành câm lặng trong suy tư chẩn đoán. Có người nghĩ rằng Đức Maria đã chào bà Êlisabét bằng một trong những công thức cửa miệng theo truyền thống mỗi khi người Do Thái gặp nhau: shalôm, chào bình an, như khi Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ của mình. Có người khác lại nghĩ rằng trên đường đi chắc Mẹ vốn là chuyên gia “ghi nhớ và suy niệm trong lòng” đã không ngừng suy về lời chào của sứ thần dành cho mình, nên vừa gặp được người thân, đã tự nhiên bật miệng thành lời chào “hãy vui lên”. Cách nghĩ nào cũng có thể đúng. Xác xuất 50, 50.

 

Mà thôi, hãy nhường những ý nghĩ ấy cho các nhà chú giải nhiều tưởng tượng, còn chúng ta chỉ biết đối diện bằng thái độ đón nhận. Nếu trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ngôn ngữ không chỉ biểu lộ bằng âm thanh, mà còn bằng những hình thái cụ thể như cử điệu tay chân mắt miệng, ấy là chưa kể đến cảm xúc của trái tim, thì ở đây có lẽ chỉ cần một vòng tay ôm chặt giữa Đức Maria với bà Êlisabét thiết tưởng cũng là một cách chào còn tâm tình hơn cả lời nói nữa.

 

Biểu tỏ lời chào của Đức Maria dẫu không được ghi nhận nhưng đáp lại lời chào ấy nơi bà Êlisabét lại đầy dẫy âm thanh với những ý nghĩa thật phong phú dồi dào. Chính qua lời đáp này người ta thấy toát lên một niềm vui vỡ bờ hạnh phúc. Bảo là niềm vui chia sẻ cũng được và bảo là niềm vui hội tụ cũng đúng. Niềm vui của Đức Maria từ ngày truyền tin đến giờ chưa được chia sẻ cùng ai, nên gặp người chị họ là tuôn ra ào ạt; niềm vui của bà Êlisabét cũng thế, biết tìm được ai đồng điệu mà ngỏ, thế nên gặp được người em họ “được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” từ xa đến là lớn tiếng tuôn trào. Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai? Có lẽ Đức Maria đã canh cánh bên lòng câu hỏi ấy; và bà Êlisabét chắc chắn đêm ngày cũng ôm ấp băn khoăn ấy, để chẳng cần chi nhiều lời, đôi bên qua việc chào đã như hiểu rõ nhau từ lâu. Đức Maria đã biết bà Êlisabét có thai lạ qua thiên sứ, nhưng bà Êlisabét làm sao bỗng dưng lại biết Đức Maria mang thai Con Thiên Chúa? Không rõ, vì Phúc Âm không nói đến. Nhưng chắc chắn rằng bà Êlisabét mới chỉ biết thai lạ nơi Đức Maria khi nghe lời Mẹ chào thôi. Do đâu? Thưa do Thánh Thần. Thế là niềm vui gặp gỡ niềm vui trong cùng một Thánh Thần, đã trở thành điểm hội tụ lời kinh hạnh phúc.

 

Thảo nào, Giáo Hội sau này đã rât tự nhiên nối kết lời sứ thần chào Đức Maria trong buổi truyền tin “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà” và lời bà Êlisabét đáp lời chào của Đức Maria trong ngày thăm viếng “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Gie6su Con lòng bà gồm phúc lạ”, mà dệt nên Kinh Kính Mừng ngân vang hạnh phúc.

 

Rồng đến nhà tôm. Quý hóa quá. “Bởi đâu tôi được mẹ của Chúa tôi đến với tôi thế này?” bà Êlisabét đã xuýt xoa như thế với tất cả lòng thành. Không biết bình thường bà Êlisabét có nói hay đến thế không, chỉ biết rằng qua câu nói này, bà cho thấy mình đã xác tín những điều quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể. Cũng là điều lạ lùng do Chúa Thánh Thần thực hiện đấy.

 

Xác tín thứ nhất là Chúa của bà (Con Thiên Chúa) sẽ sinh bởi Đức Maria. Người ta không thể đòi hỏi một bà già phát biểu chính xác hơn nữa. Ngôn ngữ thần học ngày nay, với những phát triển qua nhiều thời đại có thể có cách diễn đạt trừu tượng tách bạch và sâu sắc hơn, nhưng suy cho cùng, cũng chỉ khai triển điều bà già lạ lùng này đột xuất nói ra khi gặp gỡ em họ mình. Đúng hơn, bà tuyên xưng đức tin.

Xác tín thứ hai là Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tất nhiên, sinh ra con trẻ nào thì được quyền để người khác nhìn nhận mình là mẹ của con trẻ nấy, và trường hợp Đức Maria, vì sinh ra Con Thiên Chúa làm người do phép mầu của Thánh Thần, nên đã được xưng tụng là Mẹ Thiên Chúa. Mặc kệ thần học phải cắt nghĩa dài dòng với những tam đoạn luận xa xôi chằng chịt chồng chéo nghe mà rối cả tâm trí, trong khi chỉ bằng câu nói ngắn gọn tự nhiên pha chút đon đả của người hiếu khách, bà Êlisabét đã tuyên xưng đức tin của mình cũng đầy đủ như ai.

 

Như vậy niềm vui gặp gỡ không chỉ là xã giao bên ngoài, cũng không dừng lại trong cử chỉ tay bắt mặt mừng, mà đã có một chiều sâu đức tin cần thiết để lời chào của Đức Maria trở thành lời thể hiện tình bằng hữu thiêng liêng: đem Chúa đến với gia đình Dacaria.

 

3. Vồn vã giúp đỡ

 

Nói gì thì nói, lời thứ ba của Đức Maria là lời của một bà bầu trẻ (U16) nói với một bà bầu khác trọng tuổi hơn mình (U61) nhưng cùng chia sẻ với nhau trong một tình thân, một sứ mạng. Thế nên không chỉ las2 chuyện của ngôn từ mà thực ra là chuyện của động thái. Nếu lời chào này không được ghi lại theo kiểu nói trực tiếp mà chỉ được ghi nhận theo mạch chuyện kể, thì đó là dấu chỉ cho thấy giá trị của những hành vi liên quan đến việc chào hỏi này.

 

Bên ngoài là việc chào hỏi và viếng thăm giúp đỡ. Không phải vô tình mà biến cố này trong đời Đức Maria được đặt tên là cuộc thăm viếng, và cũng chẳng phải tình cờ mà phụng vụ sau này có một lễ kỷ niệm cách riêng biến cố này, ấy là chưa kể có vô số dòng nữ tây có ta có đã gợi hứng linh đạo từ việc Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét, mà có lẽ muốn nêu cao tinh thần bác ái và tình bằng hữu trong đời Đức Maria. Thật vậy, chẳng cần ai thúc giục, cũng không nhờ đến ai sắp xếp, khi hay tin lành, Đức Maria tự mình có sáng kiến và nhận lấy trách nhiệm lên đường thăm viếng người chị họ này một cách đặc biệt trong những tháng ngày nặng nhọc cưu mang và khó nhọc sinh nở. “Người ta đi biển có đôi, còn tôi vượt cạn lẻ loi một mình”, có lẽ Đức Maria đã nghĩ đến lúc lẻ loi vượt cạn ấy nơi bà chị già, nên đã vội vã ra đi mong đem sự lanh lợi của tuổi trẻ mà dấn thân giúp đỡ. Mẹ trẻ ẵm con thơ còn vất vả huống chi cảnh mẹ già ôm con mọn, biết cậy nhờ ai. Lý do rất cụ thể, nhưng cũng rất khát quát nhân bản để việc chào hỏi viếng thăm cho tới lúc Mẹ chào từ giã trở về, thời gian là ba tháng, một khoảng thời gian đủ để giúp đỡ người chị em vuông tròn sinh nở và cũng đủ để nhìn thấy sự lớn lên của thai nhi nơi lòng dạ mình.

 

Bên ngoài là thế, nhưng bên trong chính là việc hai thai nhi tiếp cận gặp gỡ nhau. Trong trình thuật thăm viếng có một chi tiết được ghi nhận hai lần, một lần qua kiểu nói gián tiếp và lần khác là trực tiếp trong lời bà Êlisabét, đó là chi tiết “vừa nghe tiếng chào của Đức Maria thì đứa con trong bụng bà Êlisabét nhảy lên vui mừng”. Có thể giải thích một cách tự nhiên động thái này là do tác động tâm sinh lý: bà Êlisabét nghe tiếng chào vui mừng của Đức Maria; tiếng chào ấy đem đến cho bà một cảm xúc mừng vui chưa từng thấy đi liền với một cảm thức đức tin về người mẹ và người con được chúc phúc đang hiện diện trong nhà mình; và từ đó tác động lây lan qua thai nhi ở tháng thứ sáu thành chuyển động reo vui nhảy mừng. Nhưng tất cả diễn tiến ấy chỉ có thể giải thích đầy đủ dưới tác động của Thánh Thần, như thánh Luca đã hữu ý tường thuật. Nói khác đi, Thánh Thần chính là đạo diễn sắp xếp để việc gặp gỡ bên ngoài của hai bà bầu trở thành cuộc gặp gỡ bên trong của hai thai nhi: một thai nhi là Lời muôn thuở và một thai nhi là tiếng hô vang. Tiếng cho âm thanh, nhưng chính Lời mới đem đến cho âm thanh một nội dung; tiếng làm cho âm thanh vang lên, nhưng Lời làm cho ý nghĩa được loan truyền. Thảo nào, thai nhi Gioan đã nhảy lên mừng húm vì gặp được đích đến của đời mình. Sau này lớn lên bước vào nhiệm vụ dọn đường cho “Đấng đến sau nhưng hằng có trước”, Gioan đã không bao giờ lãng quên vị trí của mình trong sứ mạng tiền hô để mãi mãi quy chiếu vào điệu nhảy đầu đời hôm nay mà sống, và đến cuối đường, lại phải hy sinh mạng sống vì một điệu nhảy khác của người đời.

 

II. TÌNH BẰNG HỮU TRONG ĐỜI LINH MỤC

 

Việc thăm viếng của Đức Maria với lời thứ ba như vừa chia sẻ, đã cho thấy một tình bằng hữu cao đẹp, cụ thể đấy nhưng cũng rất đỗi linh thiêng, vượt cao đấy nhưng cũng rất mực gần gũi với hết mọi người. Vội vã lên đường, Mẹ cho thấy bằng hữu là một niềm vui sẵn sàng chia sẻ, bất kể những vất vả trên đường, miễn sao đến được với người thân; vui vẻ gặp gỡ, đó là cơ hội để niềm vui được nhân tăng cộng hưởng, người ngày góp phần với người khác kiểu góp gạo thổi cơm chung, Mẹ đem Chúa đến cho người thân, để người thân cùng với Mẹ chung lời ca tụng Chúa; vồn vã giúp đỡ trong ba tháng, Mẹ thể hiện lòng bác ái tận lực tận tình, đem khả năng mình có để phục vụ hạnh phúc của bằng hữu, lấy hạnh phúc của bằng hữu làm hạnh phúc của mình, và lạ lùng làm sao, hạnh phúc được thăng hoa làm tiền đề để gặp gỡ hạnh phúc của Thiên Chúa. Dưới ánh sáng mẫu gương của Đức Maria, ta thử nhìn lại tình bằng hữu trong đời sống của linh mục.

 

1. Từ tình bằng hữu đời thường

 

Tự bản chất, không ai là một ốc đảo nguyên tuyền xanh sạch đẹp có thể tự đủ cho cá nhân mình, từ tự sản tự tiêu đến tự túc tự cường mà không cần nhờ đến người khác. Cần đến người khác là chuyện bình thường trong khi không cần đến người khác mới là chuyện bất thường. Ngựa chạy có bày, chim bay có bạn. Bằng hữu là cả một kho tàng không ngại góp thêm và cũng là nguồn dự trữ đợi chờ khai thác. Bạn theo kiểu “khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai” thì chắc không cần, thứ đó nên đóng bè lại mà thả trôi sông; trái lại, bạn kiểu “chung vui khi thành công, cảm thông khi thất bại, đi lại những khi cần và luôn gần ngay cả khi trắng tay chẳng còn gì nữa” mới là bạn thực người ta cần tìm, loại này nên kết bè lại để giúp nhau vượt thác ghềnh. Friend in need, friend indeed.

 

Như bất cứ ai, linh mục cũng cần đến tình bằng hữu. Hết rồi cái thuở của các thánh tu rừng, mỗi vị một hang tối ngày kết hợp với Chúa chẳng liên hệ với ai; ngày nay linh mục vì công việc mục vụ nặng nề cần đến sự hỗ trợ của nhiều giới, trong đó bằng hữu là một tuyến luôn được vận dụng để góp sức chu toàn. Đông tay thì vỗ nên kêu. Có nhiều linh mục đã thể hiện tình bằng hữu một cách hiệu quả. Mời các bạn cùng lớp chủng viện ngày xưa mà nay đang là những người thành đạt đến chung tay góp sức vào một công trình nào đó như giúp dạy giáo lý hôn phối là một ví dụ, hay ra ứng cử làm chánh trương trùm trưởng là một ví dụ khác.

 

Nhưng điều muốn nói hơn cả là tình bằng hữu tự nhiên của linh mục quý lắm và cũng đẹp lắm, để giúp đỡ nhau và cũng để nâng đỡ nhau. Như trường hợp một cha nọ rất đáng phục khi đón một hai linh mục đang gặp khó khăn không còn ở giáo xứ được nữa, đến cư trú tại nhà xứ của mình, chỉ để tạo điều kiện nghỉ ngơi qua cơn sóng gió, đến nỗi các cha cứ bảo nhà xứ ấy là refugium peccatorum. Hay như trường hợp một cha khác đã bỏ ra cả 50 ngàn USD một lúc để cứu một cha bạn khỏi cảnh lao lung khi bị tố tụng trước tòa đời.

 

Linh mục có bạn, đời sẽ vui hơn; nhưng khi linh mục không bạn bè với ai, dẫu có được xem là ông thánh đi nữa, cũng là một ông thánh buồn và đáng buồn. Chắc các cha nhiều kinh nghiệm? Hồi tôi giúp một giáo xứ ở Paris bốn năm, thứ hai nào, ngày off của các cha coi xứ, cũng thấy một cha cùng lớp với cha xứ đến thăm và ở lại dùng cơm trưa tại nhà xứ. Xem chừng họ thân thiết với nhau lắm qua những câu chuyện trao đổi pha lẫn những tràng cười giòn giã, nhất là khi chia nhau chiếc bánh ngọt tarte aux pommes mà cha khác kia bao giờ cũng mang đến. Những tình thân thiết tự nhiên ấy trong đời linh mục luôn để lại những hiệu quả tốt trên đường phục vụ và để lại những dấu ấn đẹp trong mắt nhìn của thế hệ đến sau.

 

Một linh mục trọng tuổi chia sẻ kinh nghiệm: linh mục trẻ còn chịu khó tìm đến gặp gỡ anh em, đó là dấu hiệu của một đời hạnh phúc; nhưng khi linh mục trẻ mà lặn biệt tăm không cần đến anh em bạn hữu nữa thì đó lại là dấu cho thấy đời sống có trục trặc chi đó ít nhiều cần được hóa giải nâng đỡ. Gặp nhau dù chỉ để đánh cờ giải trí hoặc đánh chén giải khát cũng là những cuộc gặp góp phần đánh tan những cơn sầu cấp tính hay những căng thẳng mãn tính nào đó trong đời. Ngày nay, người ta nói nhiều đến loại bệnh của các linh mục, đó là bệnh cô đơn và cách chữa hiệu quả chính là tình bằng hữu. Chạy qua chạy lại thăm hỏi anh em sẽ giúp giải tỏa, chứ nằm hoài ở nhà sẽ có nguy cơ tăng thêm, vì cô đơn không đến một mình mà xem ra lại đến với cả gia đình các cô, từ cô đơn cô độc đến coca cola, rồi cognac và cuối cùng đi khám bệnh thấy cholestérol trong máu đã dâng cao từ bao giờ.

 

2. Đến tình bằng hữu linh mục đoàn

 

Là người như bất cứ ai, linh mục cần đến tình bằng hữu; nhưng là người khác mọi người vì dấu ấn bí tích truyền chức, linh mục cũng cần thể hiện tình bằng hữu với những dấu ấn không thể lẫn vào đâu được.

 

Xét về mặt nguồn gốc. Từ ngày thụ phong mỗi linh mục được sáp nhập vào “một đơn vị có thể định nghĩa như một gia đình thực sự, trong đó mối liên hệ không do máu thịt nhưng do ân sủng của thánh chức” (PDV 74). Hiện nay ta gọi là linh mục đoàn. Thật vậy, khởi đi từ cùng một nguồn gốc là ơn gọi phát xuất từ Chúa Kitô và được sai đi bởi cùng một Thánh Thần trong bí tích truyền chức thánh để góp phần làm việc cho công trình Nước Trời, mọi linh mục trở thành huynh đệ với nhau. Đây là nền tảng của tình bằng hữu trong đời sống và chức vụ linh mục, khởi đi từ đó chúng ta thân thiết với nhau.

 

Mỗi lần trong giáo phận có lễ truyền chức linh mục, người ta thấy các linh mục đến đồng tế rất đông, bất kể là triều hay dòng. Cá biệt có lần trong lễ truyền chức, nghi thức các linh mục lên đặt tay cho vị tân chức kéo dài cả 15 phút khiến mọi người kinh ngạc thú vị. Đó là dấu hiệu tích cực diễn tả niềm vui chung trong Hội Thánh địa phương, đồng thời cũng cho thấy vị tân chức ngay khi nhận bí tích truyền chức đã được kết nạp vào linh mục đoàn. Thế hệ cha anh đón tiếp con em của mình, và cũng kể từ đó, có thể nói quy chiếu về gốc nguồn này, tất cả đều ngang hàng với nhau trong ân sủng để coi nhau như bằng hữu. Vì ngày xưa Chúa Giêsu đã không coi môn đệ mình như tôi tớ mà ngược lại như bạn hữu, nên ngày nay các linh mục theo chân và theo gương Ngài, cũng coi nhau như bằng hữu của cùng một Thầy, bất kể tuổi tác, trình độ, khả năng, thâm niên, kinh nghiệm, nhiệm vụ và nhiệm sở. Nói có vẻ cào bằng, nhưng thực sự là thế. Nếu có lãnh vực nào các linh mục luôn luôn được đặt trên cùng một bình diện, thì đó chính là lãnh vực bằng hữu do thánh chức. Già nhận trẻ là bạn bè và trẻ cũng đón già là bằng hữu. Không còn cách biệt e dè chút nào nữa. Không còn xa lạ với nhau nữa.

 

Biểu hiện rõ rệt nhất của tình bằng hữu này chính là thánh lễ truyền dầu ngày thứ năm tuần thánh, ở đó các linh mục giáo phận kết thành một thể duy nhất với lời hứa đời linh mục được lặp lạt và với sức sống mới từ bí tích thánh thể được khơi lên.

 

Xét về mặt công trình. Cùng được sai đi làm việc trong vườn nho của Chúa, cùng thực hiện trách nhiệm mục tử theo sự phân bổ của giám mục giáo phận, các linh mục lại còn được gắn bó với một chương trình trong đó việc thi hành thừa tác vụ sẽ liên kết mọi người vào một tình bằng hữu cụ thể. Chính ở đây mới thấy sự khác biệt rõ ràng giữa linh mục này với lkinh mục khác về mọi mặt, và cũng mới thấy tình bằng hữu đời linh mục cas62n thiết thế nào để người này làm phong phú cho người kia trong cùng một ước vọng xây dựng Giáo Hội tại địa phương mình. Bằng hữu ở đây trải ra trong sự nối kết và phối kết mục vụ, mong sao việc giảng dạy, thánh hóa và cai quản được thể hiện trong bác ái yêu thương và việc phục vụ dân Chúa gặt hái được kết quả tốt đẹp. Trong ngôn ngữ thường ngày, người ta quen dùng kiểu nói “đồng tình” để diễn tả sự nhất quán trong tư tưởng, sự nhât trí trong hành động và sự nhất tâm trong nỗ lực chung xây. Với mạch ý này, trộm nghĩ, tình bằng hữu linh mục tỷ lệ thuận với kết quả mục vụ. Càng gắn kết với linh mục đoàn, càng gặt hái được thành công và ngược lại, càng xa rời linh mục đoàn, càng mau chóng chuốc lấy thất bại.

 

Biểu hiện khá đầy đủ về tình bằng hữu này là dịp các linh mục giáo phận tĩnh tâm chung với những chữ “cùng” thắm tình bằng hữu: cùng ở một nơi, cùng ăn một chỗ, cùng hồi tâm lắng đọng, cùng chia sẻ một cảm nghĩ, cùng gắn bó một nỗi niềm, và trên hết cùng tìm về một suối nguồn là cử hành bí tích Thánh Thể chung. Kết quả sâu lắng của tĩnh tâm sẽ ra sao chỉ có cá nhân linh mục và Chúa Thánh Thần biết, nhưng kết quả nhãn tiền ai cũng thấy được chính là việc bồi dưỡng tình bằng hữu, mà vì một lý do nào đó, một linh mục không hiện diện sẽ cảm thấy bứt rứt nuối tiếc hoặc hụt hẫng mòng chờ. Một cha sở tuổi trung niên bị bệnh đột xuất phải nằm viện vào dịp tĩnh tâm thường niên giáo phận đã chia sẻ rằng: một phần ngài cảm thấy như có lỗi vì không chu toàn bổn phận linh mục; nhưng một phần khác lớn hơn ngài tâm sự: không tĩnh tâm chung được thì có thể tĩnh tâm riêng bù lại, còn không gặp gỡ anh em linh mục dịp quy tụ đông đảo sẽ không có dịp nào khác ngoài việc đợi chờ đến năm sau.

 

Như vậy, tình bằng hữu linh mục chỉ có một, nhưng lại được quy chiếu vào những tiêu điểm khác nhau, nên đôi khi có những giao thoa lẫn lộn đem đến những cảm nhận khác nhau. Quy chiếu vào bí tích truyền chức, linh mục sẽ thấy mình chỉ là người được chọn gọi, thế nên lòng mình sẵn sàng mở ra đón nhận sự hiện diện và đồng hành của mọi linh mục khác thuộc mọi độ tuổi và khả năng cũng là những người được chia sẻ một ơn gọi như mình. Quy chiếu vào công trình mục vụ, linh mục trong điều kiện sống cụ thể tại một giáo xứ, với tư cách là “chủ chăn riêng của một nơi”, dẫu độc lập tự do hạnh phúc, vẫn không thể một mình một cõi ăn cơm chúa múa tối ngày. Nhưng phân biệt quy chiếu chỉ để dễ định hình suy tư và định vị con người, còn trên thực tế, cả hai điểm quy chiếu nêu trên của tình bằng hữu đều tương tại vào nhau. Quy chiếu bí tích để nối kết xây dựng yêu thương và quy chiếu mục vụ để biết phối kết tôn trọng những sự khác biệt. Chính đây là chìa khóa bảo vệ cho tình bằng hữu trong đời linh mục.

 

3. Vấn đề thực tế

 

Tình bằng hữu đời linh mục trên lý thuyết tách bạch là thế và trong lý tưởng cao đẹp là thế; nhưng trong thực tế nhiều khi người ta gặp thấy những khoảng cách không vui. Vẫn biết các linh mục khác nhau nhiều, tự nhiên thôi vì nhiều nguyên do hoàn toàn được chấp nhận và chấp nhận được, nhưng từ “khác nhau” đến “khắc nhau” đường đi lắm lúc không dài như mình nghĩ. Và kịch tính của tình bằng hữu chính là đây. Trong ký ức mỗi giáo phận, những hình ảnh đẹp của tình bằng hữu linh mục không thiếu, như một trong những trường hợp được sử dụng để dẫn vào bài suy niệm hôm nay. Các cha có thể kiểm chứng. Nhưng cùng với những ký ức tươi sáng vui mừng cũng chen vào một vài mảng tăm tối xót xa được xem là kinh nghiệm đổ vỡ của tình bằng hữu.

 

Có khi thuần túy chỉ là không vượt qua nổi sự khác biệt vốn có của tuổi tác thói quen, của kinh nghiệm chức vụ, của sở thích tính tình. Trong thời gian năm năm đồng hành cùng các linh mục trẻ mới ra trường đi làm mục vụ, tôi gặp thấy những rạn nứt tình bằng hữu hầu như đều thuộc khía cạnh không vượt qua nổi này. Theo thói quen, những linh mục trung niên có kinh nghiệm thường được bổ nhiệm làm cha sở một giáo xứ lớn và vì công việc của giáo xứ, cha sở này lại được cung cấp cho một cha phụ tá. Chuyện vẫn thế tại các giáo phận. Nhưng chung sống và làm việc với nhau trên cùng một cánh đồng, thời gian đã để lộ ra những điều khó xử. Cha sở tuổi lớn kinh nghiệm nhiều biết rõ lòng dân nên thường cân nhắc kỹ những sáng kiến mục vụ giáo xứ. Còn cha phụ tá mới ra trường hăng tiết vịt thích đưa ra những sáng kiến lạ, tốt thôi, nhưng chưa được đáp ứng ngay đã âm thầm bực dọc coi mình như đang bị ém tài. Khác biệt kiểu này có thể vượt qua, nhưng khổ nỗi để lâu ngày làm nhụt chí nam nhi, nhất là có nhân tố thứ ba nói ra nói vào bảo mình bị cản đường tiến bước và thế là vỡ thành xung khắc. Bỏ cơm, bỏ hội đoàn. Cho biết tay. Và biết tay thật. Cha phụ tá đã được giám mục đổi đi xứ khác để bảo toàn nhiệt huyết.

 

Quý cha phụ tá coi cha sở như cha mình về tuổi tác để tôn kính, như thầy mình về kinh nghiệm mục vụ để tôn quý học tập và như bằng hữu vong niên để tôn trọng cộng tác chung xây là một truyền thống tốt đẹp torng đời dâng hiến. Quý cha sở biết nhìn cha phụ tá của mình như con em bằng hữu quả là một gương sáng truyền thống làm phát sinh thêm những ơn gọi linh mục tại địa phương.

 

Cũng có khi vì quá chú trọng đến công trình mục vụ mà quên quy chiếu vào chức thánh để chỉ thấy trong tương quan linh mục khía cạnh thế lực hoặc lợi lộc, khiến tình bằng hữu không có đất sống và hạt giống bất hạnh cứ thế mà nảy sinh. Không biết có đúng, nhưng như một sự kiện để suy ngẫm. Trong giáo phận nọ, khi một giáo xứ lớn cả về mặt nhân sự lẫn tài chánh, được đưa vào danh sách chuyển đổi cha sở là y như rằng sẽ có những chẩn đoán xầm xì theo sau. Nào là cha này được chỉ định vì quen biết thế lực, nào là cha kia được sắp xếp vì lợi lộc biết điều trên dưới. Chuyện không công khai nên thả cửa được thêm thắt mắm muối. Các cha nghe rát cả tai và giám mục cứ mãi đau đầu.

 

Xin lỗi quý cha, các linh mục trong giáo phận là người cùng một nhà được phân bổ vì lợi ích mục vụ chung của dân Chúa và cũng không loại trừ khả năng vì lợi ích thiêng liêng của cá nhân người được phân bổ, những yếu tố thế lực hoặc lợi lộc không bao giờ trở thành tiêu chuẩn ảnh hưởng đến quyết định, có chăng chỉ là sự trùng hợp bất khả kháng, nên những chẩn đoán thuộc loại điều ong tiếng ve ấy, xin đừng bao giờ khai thác kẻo trở thành những di chứng làm sói mòn tình bằng hữu, gây khó xử cho cả người phân bổ và người được phân bổ, ấy là chưa muốn nói đến khía cạnh tạo điều kiện thuận lợi Chúa sự ganh tỵ lẻn vào khiến giáo dân cứ tròn mắt lắc đầu kinh ngạc. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.

 

Nhưng bi kịch hơn cả trong tình bằng hữu linh mục là chẳng quy chiếu vào đâu cả, không vào chức thánh mà cũng chẳng vào thừa tác vụ, mà chỉ đối xử với nhau theo tình tư dục. Xa gần xin được thưa về những yếu tố làm biến tướng tình bằng hữu như đầu óc cục bộ đâu đó vẫn còn ẩn hiện. Óc cục bộ vừa là nguyên nhân làm thui chột tình bằng hữu và cũng là hậu quả của một tình bằng hữu từ lâu đã vắng bóng. Là nguyên nhân, óc cục bộ tập hợp nơi mình những kháng thể chống lại tình bằng hữu, rồi thể hiện tương giao với phần còn lại bằng những phương thế đời hơn cả đời. Là hậu quả, óc cục bộ để lộ một tình trạng trong đó tình bằng hữu đã không còn hiện diện nữa, hay nếu có chỉ như một mẫu trang phục tự chọn rẻ tiền. Đối thủ của giới luật yêu thương chính là đây và kẻ thù của tình bằng hữu linh mục cũng chính là đây. Nhóm họp với nhau để làm việc chung là hình ảnh đẹp của tình bằng hữu mang lại hiệu quả, nhưng nhóm họp với nhau như một thế lực đối kháng giữa lòng Giáo Hội địa phương lại là kiểu sống xa lạ với đời mục tử yêu thương.

 

Tóm lại, nhìn vào Đức Maria qua cuộc thăm viếng bà Êlisabét với lời chào xởi lởi mở ra tình bằng hữu tươi tắn tự nhiên và linh thiêng bác ái, để rồi nhìn lại tình bằng hữu trong đời linh mục với đan xen giữa ánh sáng và bóng tối, mong rằng đã cùng với quý cha rảo qua đời mình một cách chân thành, để theo gương bằng hữu của Đức Maria, ta sẽ quyết tâm xua đi bóng tối và kiên tâm thắp sáng lên những điểm sáng tích cực. Được như thế, đời linh mục sẽ là một lời giới thiệu Đức Kitô cách cụ thể nhất.

Xem phần 2

Vũ Duy Thống
Số lần đọc: 2173
Ngày đăng: 18.01.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Không gian văn học Miền đông nam bộ và hiện thực đời sống hay tâm trạng đời sống. - Nguyễn Một *
Đi tìm ứng viên giải Nobel cho văn chương Việt Nam - Đông La
Viết về công nhân thời kỳ mới : không ngại cũng không vội ! - Khôi Vũ
Ðường vào triết học-1 - Nguyễn Ước
Ðường vào triết học-2 - Nguyễn Ước
Nguyễn Bính - một áng thơ Say - Vũ Ngọc Tiến
Lịch sử tính dục : Phần 3.- Khoái cảm trong hôn nhân - Khổng Ðức
Lịch sử tính dục : Phần 2 ( trong chương năm - tiếp theo ) Vấn đề độc chiếm - Khổng Ðức
Thơ & Thơ Huế : đôi điều về dòng thơ mặc thị - Trần Hạ Tháp
Hòa bình vĩnh cửu - Nguyễn Hữu An