Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
804
116.613.535
 
Người của một thời
Hồ Tĩnh Tâm

Tùng, Quân cùng mấy người dân Vân Kiều dừng lại đầu cánh rừng le. Ngày ấy Tùng một mình đào huyệt, gởi Dũng nằm lại nơi này, nhưng cụ thể ở đâu thì anh không nhớ. Bấy giờ nơi đây chỉ bầm bầm một màu đất đỏ. Tiến lên nữa về bên phải hay bên trái đây. Rừng le bạt ngàn, biết nơi nào mà cắm lưỡi xẻng đào xuống. Anh lấy di động gọi về cho ông Quyết. Giọng ông Quyết khàn khàn: “Đốt một điếu thuốc rồi đi chếch lên về bên trái. Tàn hết điếu thuốc thì dừng lại, nhìn thấy cây săng máu, nhắm mắt lại, đi đúng mười bước sẽ gặp tảng đá. Mở mắt ra, đào cách tảng đá hai mét bên phải sẽ gặp”.

 

Làm theo lời dặn của ông Quyết, quả nhiên Tùng thấy cây săng máu mồ côi, tảng đá mồ côi. Anh đặt ba lô xuống, lôi ra mấy quả trứng luộc, nải chuối, nén hương và gói thuốc. Khói hương bốc lên rồi sà ngay xuống, tỏa là là trên mặt đất thành một vũng trắng đục. Mấy người Vân Kiều bắt đầu dùng xẻng đào bới ngay vũng khói ấy. Hết lớp đất chằng chịt rễ cây, tới lớp đất thịt, dẻo và mịn. Cả tùng và Quân đều căng mắt chờ đợi, mồ hôi rịn ra, chảy giọt giọt nóng bỏng.

 

Một người Vân Kiều dùng tay moi lên được cái lưỡi lê ba cạnh, bị gãy ở chỗ gắn vào nòng súng. Tùng khóc nấc lên thổn thức. Vậy là đúng mày rồi Dũng ơi. Mày tha thứ cho sự chậm trễ của tao. Vậy là từ nay mày thôi lạnh lẽo một mình giữa rừng le quạnh vắng. Dưới kia, dòng Đắc Krông vẫn ào ào cuộn chảy. Dưới kia, thị trấn Khe Sanh vẫn tưng bừng nhộn nhịp. Gió Lào vẫn thổi từ bấy đến giờ. Tha thứ cho tao, Dũng ơi!

 

2.

Tiểu đoàn chốt chặn trên ngọn đồi A6 tới ngay thứ năm, quân số chỉ còn lại gần trung đội. Lệnh của trung đoàn: phải giữ cho bằng được cao điểm. Pháo nả xuống dồn dập. Hết pháo tới bom. Ngọn đồi rung chuyển rần rần như động đất. Dũng bị hơi bom rách cả hai màng nhỉ, gương mặt ngơ ngác như thằng ngốc. Lâu lâu anh ta lại gào lên: Còn ai không? Tùng cũng không biết nữa. Chỉ nghe tiếng AK, tiếng RPĐ mà đoán là vẫn còn.

 

Tới chiều ngày thứ bảy, trận địa đang rền rền tiếng súng, bỗng im bặt. Có thể tụi nó tập trung quân, chuẩn bị cho trận quyết tử vào sáng mai. Sự im lặng trên chiến trường cũng như con mắt bão. Tùng biết phải tranh thủ lúc này, bò đi tìm đồng đội, tìm thêm súng và đạn; nhất là phải tìm gom thêm nước uống. Cả ngày nay, anh và Dũng chỉ chia nhau nửa bi đông nước, cổ họng khô rát, mồm miệng đắng nghét.

 

Công sự đầu tiên mà anh gặp, người lính vô tuyến điện ngồi dựa lưng vào thành đất, tay phải vẫn cầm cái tổ hợp máy PRC25, đầu gục xuống, tóc tai rũ rượi, ngực áo ươt đẫm máu. Cầm tổ hợp lên, bóp mạnh vào phím nhấn, Tùng nghe tiếng gọi: “Sông Hương gọi Hồng Hà, nghe rõ trả lời!”. Tùng áp sát tổ hợp vào miệng, nói hào hển: “Hồng Hà đây! Tôi là Trần Mạnh Tùng C6. Đinh Văn Thiết thông tin hy sinh rồi. A lô, sông Hương nghe rõ không?” “Sông Hương nghe rõ. Lệnh cho Hồng Hà rời trận địa. Tập kết ở N. sông Hương gọi Hồng Hà, nghe rõ trả lời!”. “Sông Hương, sông Hương, Hồng Hà nhận lệnh”. Tiếng nói trong tổ hợp tắt phụt.

 

Tùng leo lên khỏi công sự, tiếp tục trườn về phía trước. Tất cả chỉ còn lại tám người. Một người bị thương ở đầu, băng che kín nửa mặt. Hai người bị thương ở tay trái. Một người bị thuơng phần mềm ở bắp đùi chân phải. Dũng là C trưởng, hai tai đã điếc đặc, Tùng chỉ là B trưởng, nhưng phải đứng ra chỉ huy cả tiểu đoàn nát vụn sau mấy ngày bám trụ trên cao điểm.

Khoảng chín giờ tối, tám người lần lượt rút xuống phía tây sườn đồi. Lặng lẽ đến cay nghiệt. Khó mà tin được thươngvong lại lớn như vậy. Hơn hai trăm tay súng, sau mấy ngày, chỉ còn lại một dúm người xơ xác vì đói và khát. Họ băng qua suối, xuyên sâu vào một cánh rừng, dừng lại chăm sóc cho những người bị thương, gần như đã lả ra vì kiệt sức.

 

Hừng đông, từng đàn phản lực chúi xuống cắt bom xăng lên cao điểm. Lửa bốc bùng bùng. Như vậy là tụi chủ lực Sài Gòn đã bỏ cao điểm. Cần phải rút nhanh về N. Cả đoàn người lại lên đường. Gần trưa, họ tới được cánh rừng le loang lỗ hố bom hố pháo. Đang đi, Tùng chợt nhận ra mùi thuốc bastos. Vậy là đụng biệt kích, anh ra hiệu cho tất cả nằm xuống, ém nhẹm để quan sát. Đúng lúc ấy, người lính bị thương ở đầu bỗng la lên chói lói: Bắn! Bắn! Vậy là tiếng súng lập tức rộ lên. Cuộc tao ngộ chiến không hề cân sức. Cả một đại đội lính rằn ri thi nhau xả súng vào đội hình tiểu đoàn chỉ còn có tám người. Trong tình huống ấy, phương án tác chiến tốt nhất là vừa đánh vừa rút.

 

Tùng và Dũng trườn sát bên nhau, dìu theo người lính quấn băng trắng trên đầu. Không hiểu sao lúc này anh ta rất tỉnh, hai mắt rực lên như có lửa. Khi đã thoát ra khỏi vùng đạn, cả ba chạy lúp xúp thành hàng ngang. Đang chạy, người thương binh vấp phải một gốc cây, ngã lăn quay. Không biết từ đâu, một thằng lính gù gù như con gấu, nhảy xồ ra, bổ nhào vào người lính. Hắn không bắn mà rút phắt dao găm từ thắt lưng. Chỉ có lính chiến mới táo gan như vậy. Tùng nhìn thấy Dũng tuốt lê xông tới, nhảy bổ vào thằng lính. Ánh thép lóe lên, lạnh như sao băng. Thằng lính nhanh hơn, nó nghiêng mình về bên trái. Dũng mất đà, lao chúi xuống đất. Lưỡi lê đâm trúng một phiến đá, gãy nghe băng một tiếng khô khốc. Một tiếng nổ vang lên đanh chát. Dũng bị hất văng lên, rồi đổ sập xuống. Tùng quạt gần nửa băng đạn vào thằng lính. Nó lăn lộn dưới đất, toàn thân giật giật như cá bị đập đầu.

 

Nhưng đổi lại, chỉ một cú vấp ngã, mà không hiểu vì sao, người thương binh lại nhắm mắt từ giã cả cánh rừng đang rộ tiếng súng tao ngộ. Còn Dũng thì dùng cả hai tay ôm bụng, máu phún ra ướt rượt, đen bầm cả vạt áo. Viên đạn chỉ xuyên qua phần mềm vùng bụng, vậy mà máu lại túa ra quá nhiều. Không còn băng cá nhân, Tùng phải xé áo lót băng cho Dũng, rồi tiếp tục dìu anh chạy bươn về phía trước.

 

Càng chạy Dũng càng lả ra. Lối thoát duy nhất lúc này là án binh bất động, nằm im nghe ngóng chờ cơ hội. Biết Dũng khát nước vì mất máu, Tùng mò đi tìm được một dây chạc chìu to như bắp tay, chặt khúc, hứng được gần nửa bi đông nước. Đưa bi đông cho Dũng xong, Tùng lại bươn bả đi tìm quả rừng làm thức ăn cho bạn. Anh lò dò đi một cách thận trọng. Cánh rừng đã im ắng trở lại. Loanh quanh một lúc, Tùng chợt nhận ra mình bị lạc đường, khi anh nhìn thấy người đồng đội nằm chết gần xác tên lính to lớn. Anh lượm lại cái lưỡi lê của Dũng, dùng nó moi một hỏm đất, vùi người đồng đội xuống, cùng với khẩu súng của anh ta.

 

Khi Tùng tìm được Dũng, Dũng đã ngồi dựa vào gốc cây mà ngủ. Máu đã ngưng chảy, nhưng mặt Dũng thì bợt ra vì kiệt sức. Kiểu này thì Dũng không thể đi được nữa. N còn xa lắm. Muốn đưa Dũng về tới nơi, cần phải dừng lại tìm cách hồi phục sức khỏe cho anh.

 

3.

Mãi cuối năm 1975 Tùng mới được ra quân, sau khi đã có trong tay tấm giấy chứng nhận thương binh hạng năm. Anh trở về làm bảo vệ nhà máy điện Yên Phụ. Không ai còn nhận ra Tùng là người lính ở chiến trường Quảng Trị. Anh gầy vêu vao và già khọm đi trông thấy. Người yêu đã hy sinh trong trong trận đánh đêm 19 tháng 12 năm 72, trên trận địa làng Bưởi. Anh và cô ta từng yêu nhau như thế, bây giờ cô ta không còn, Tùng thấy mình đã mất tất cả. Vậy thì còn cần gì nữa. Lương bảo vệ, cọc cạch tem phiếu cũng đủ ăn. Sức khỏe không còn, lấy vợ chỉ làm khổ cho người ta.

 

Thời gian bò qua đời anh một cách nặng nhọc và chậm chạp. Cơ quan cấp cho cái phiếu mua cung cấp chiếc xe đạp thống nhất. Với con ngựa sắt này, thỉnh thoảng Tùng vẫn đạp đi thăm thú bạn bè. Uống với nhau chén rượu, vại bia. Lâu lâu hùn nhau kéo lên đê sông Hồng làm bữa thịt chó. Chiến tranh chìm dần trong đầu anh, trở thành dĩ vãng nặng nề về sự mất mát quá lớn của con người.

 

Tùng sống thu mình một cách lặng lẽ. Mọi người trong cơ quan nhìn anh như nhìn một người kém năng lực. Họ làm việc cùng anh, nhưng cứ từng ngày, họ quên dần mất rằng, anh đang sống cùng với họ. Chỉ khi nào gặp lại đồng đội cũ, anh mới nhận ra, cuộc đời vẫn tuôn chảy đầy ý nghĩa. “Mày dở hơi vừa thôi! Kiếm con mái nào mà bù khú, mà hưởng lạc với nó. Sống khắc kỉ như vậy, rồi chết héo”. Có con mái nào để ý đến Tùng đâu. Giống đực mà ốm nhom như anh, ai người ta thèm để mắt.

 

Vào một chiều mùa đông, Tùng cùng bạn bè lên đê sông Hồng uống rượu thịt chó. Không biết ai đó dẫn đến một cô gái hăm sáu tuổi, người tròn, mặt tròn, ngực và mông cũng tròn. Cô ta cười với tất cả mọi người, uống với tất cả mọi người. Tan tiệc thì cô ta say khướt. Bạn bè giao cho Tùng đèo cô ta về nhà. Mới ngồi lên xe, cô ta đã vòng tay ông bụng Tùng, rồi gục đầu vào lưng anh mà ngủ. Lúc đó Tùng mới hoảng hồn. Chở cô ta về đâu cơ chứ. Có ai nói số nhà của cô ta đâu. Anh dừng xe lại, vỗ vai cô gái, hỏi: “Em ơi! Em về đâu?”. Cô gái chỉ ú ớ gục gặc đầu.

 

Màn đêm đã buông sậm sịt. Heo may thổi buốt như như kim châm. Đành phải chở cô ta về căn phòng mười hai mét vuông của mình. Chỉ có cái giường một. Tùng dìu cô nằm lên đó, lấy tấm chăn bông  hai cân đắp cho cô. Còn anh lấy tấm ni lông trải xuống nền nhà, lót mấy tờ báo lên, rồi cuộn mình trong tấm bông xô của lính dù. Hơi đất phả lên thon thót. Giá lạnh luồn vào thon thót. Lạnh tới đánh đàn răng cầm cập, không tài nào nhắm được mắt. Nhưng rồi say quá, cuối cùng Tùng cũng chìm được vào giấc ngủ nặng nề, thảng thốt. Anh mơ thấy mình cùng tiểu đoàn vượt sông Thạch Hãn, đánh tốc vào thành Cổ. Toàn thân ướt mèm như chuột lột. Xung quanh khói lửa rừng rực, thế mà quần áo vẫn không khô được, cứ dính bết vào da thịt, lạnh tới thót ruột, tới cóng tay, không xiết nổi cò súng. Thấy người đồng đội nằm gục bên cạnh, Tùng nghĩ đằng nào anh ta cũng đã hy sinh, liền cởi phăng áo của anh ta mặc thêm vào người. Vẫn cứ rét, cứ lạnh tới thắt ruột. Tùng nhớ chuyện “Không gia đình” của Héc To Ma Lô, liền kéo anh ta lại, ôm ghì vào lòng. Quả là có ấm lên thật. Càng lúc càng ấm. Bàn tay đã mềm trở lại, đã có cảm giác đang sờ trên báng súng. Bây giờ thì tha hồ mà nả đạn. Nả hàng loạt mới sướng. Cánh quân lực chu đáo không tưởng được. Đạn tiếp tế nườm nượp. Cứ tha hồ mà bắn. Bắn cho chúng mày chết. Ông là lính chủ lực. Ông bắn cho chúng mày chết. Tùng xiết chặt tay vào cò súng.

Trời ạ!

 

Cô gái đang nằm trong vòng tay của anh. Anh xiết tới mức cô gái ngạt thở thức dậy. Cả hai chìm trong tấm chăn bông. Tùng hoảng hốt ngồi bật dậy. “Sao cô lại tụt xuống đây?”. “Em sợ anh chết rét. Trời lạnh tới tám độ. Em định đưa anh lên giường, nhưng say quá bồng không nổi”. “Mấy giờ rồi?”. “Chắc cũng gần năm giờ sáng”. “Nhà cô ở đâu? Nếu xa thì tôi chở cô về”. “Việc gì phải khổ thế nhỉ. Hay là để em nấu nồi cháo. Trong rỗ của anh còn mấy quả trứng gà đấy thôi”.

Vậy là họ thức với nhau.

 

3.

Ba ngày sau cô gái lại đến, cùng với một cân thịt bò và nửa cân hoa thiên lí, một chai làng Vân. Tùng há hốc miệng, ngạc nhiên tới đớ cả lưỡi. “Anh cứ coi em như em gái được không. Tiền thưởng đấy”. “Cô không biết tôi còn độc thân à?”. “Biết chứ. Nhưng hôm nay em mượn con bạn chiếc xe đạp, anh đừng sợ phải chở em về nhà”.

 

Ba ngày sau nữa cô gái lại đến. Lần này không phải thịt bò, hoa thiên lí, mà là thịt chó, dồi chó, với ngọn bí ngô và quốc lủi. “Anh tin không? Em lại có tiền thưởng nữa đấy. Bọn em móc cả đoạn cống dài gần cây số. Ngâm nước mùa đông nên được thưởng. Nhưng em nói thật nhé! Cũng phải bù thêm một ít”. “Vậy ra cô làm ở công ty vệ sinh à?”. “Vâng, đêm nào chúng em chẳng quét rác trên đường. Gớm, Hà Nội mình đang nghèo xác ra, vậy mà rác ở đâu nhiều thế không biết. Chúng em nhặt nhạnh được ối thứ bán ra tiền”.

 

Và ba ngày sau nữa. Ba ngày sau nữa. Tới lần thứ bảy thì cô giái đã trở nên bạo dạn, bắt đầu tò mò lục lọi đọc mấy cuốn sách của Tùng. Bất ngờ tấm ảnh của Dũng rơi ra. Cô gái nhặt lên, lật mặt sau đọc tên, rồi quay lại hỏi Tùng: “Anh này giống con bác Lâm bộ trưởng quá. Lại cùng họ tên nữa”. “Cô mà cũng quen bộ trưởng à?”. “Chứ sao! Bác ấy còn chụp ảnh kỷ niệm với chúng em”. “Có bà con gì không?”. “Cả nhà em truyền đời quét rác, bà con sao được. Là bác ấy đi tập thể dục buổi sáng, thấy chúng em đẩy xe rác thì tới bắt chuyện, mời tới nhà chơi. Mới đầu công an họ không chịu cho vào. May mà bác ấy đứng trên lầu nhìn thấy. Anh biết không? Nhà bác ấy nhiều đồ đẹp và quý lắm. Khách nước ngoài tới thăm, biếu làm quà đấy”. Cô gái đang nói, bỗng ngừng lại, nhìn kỹ tấm ảnh một lúc rồi nói: “Em đoảng quá. Đúng anh này là con bác Lâm rồi. Nhà bác Lâm có ảnh anh ấy treo trên tường, lúc mới nhập ngũ. Bác Lâm cũng nói với chúng em là bác ấy có người con trai tên Dũng, hy sinh không tìm tấy xác ở chiến trường Quảng Trị. Hay là anh cho em mượn tấm ảnh, em đem đến cho bác ấy xem”.

 

Mấy ngày sau, Tùng đi làm về, đang lạch xạch mở khóa của, có đứa bé hàng xóm chạy tới nói: “Chú Tùng có khách. Bác gì ấy già lắm, đang ngồi uống nước chè ngoài quán bà Thủy. Bác ấy dặn cháu, bao giờ chú về thì nhắn giúp để gặp”.

Tùng không tin một ông bộ trưởng nổi tiếng cả nước, lại đạp xe đến nhà mình. Nhưng điều khiến anh phải tin, chính Dũng là con trai duy nhất của ông bộ trưởng, lại nhập ngũ ngay khi cha mình còn đang chức.

 

Sau cuộc gặp ấy mấy ngày, có người đưa xe hơi đến tận cơ quan, xin phép cơ quan cho Tùng đến nhà riêng ông bộ trưởng đã hưu trí. Khi nghe Tùng kể đến đọan Dũng trút hơi thở cuối cùng, vợ ông bộ trưởng ôm chầm lấy Tùng, khóc nấc lên: “Con ơi!”. Rồi bà đứng dậy, thắp hương cho con trai. “Dũng ơi! Con sống khôn chết thiêng, trời đất run rủi cho anh Tùng đến nhà ta”.

 

Khi mấy cây hương đã ngún khói, mẹ Dũng bình tâm trở lại, ngồi xuống nói với Tùng: “Tùng ơi, mẹ muốn nhận con làm con trai, con có đồng ý không?”. Ông bộ trưởng mở tủ lấy ra một chai rượu ngoại, rót ra ba cái cốc nhỏ có chân, nói với Tùng: “Cháu là bạn thằng Dũng, nhà bác chỉ có mình nó là con trai, cháu đừng làm bác gái buồn”.

 

Cô gái tròn như trái mít, quanh năm quét rác trên đường, nhưng lại biết đủ thứ chuyện trên đời. Chính cô đã dẫn Tùng đến gặp ông quyết. Nhờ vậy anh mới tìm được Dũng giữa cánh rừng le ngút ngát.

 

5.

Tùng bị nắng chiếu vào mắt. Thức dậy, thấy mặt trời đã chênh chếch gần đứng bóng. Dũng đã thức từ lúc nào. Anh ngồi tựa gốc cây, lơ đãng nhìn đi đâu đó. Thấy Tùng ngồi dậy, Dũng nói: “Nhà mày ở gầm cầu tàu hỏa phải không? Hồi nhỏ có đá bóng ở sân Long Biên không? Tao hay trốn nhà đến đó chơi. Có hôm cay cú vì thua, bọn tao lao vào đánh nhau. Có thằng đấm tao tới chảy máu mũi, có khi là mày cũng nên”. Trầm ngâm một lúc, Dũng lại nói: “Tao không tiếc gì hết. Chỉ thương ông bà già. Nhà chỉ có tao với hai đứa em gái. Bây giờ chắc chúng nó đã vào đại học cả rồi”. Ôm ngực ho mấy tiếng, Dũng lại nói: “Mày có người yêu chưa? Tao thì chưa bao giờ. Hôm bị sập hầm trên cao điểm, tao ngất đi cả tiếng phải không? Mày biết vì sao tao qua được, sống dậy không? Lúc đó, tự nhiên tao mơ thấy con Hoài Thu, bạn học cùng lớp. Nó đến rủ tao đi xem phim. Bấy  giờ Hà Nội đang chiếu phim “Chú bé Di Gan”. Tao với nó đi bộ từ khu Ba Đình đến rạp Tràng Tiền. Trời rét kinh khủng”.

 

Nói đến đó, Dũng duỗi chân, thả người nằm tựa hẳn vào gốc cây cụt ngọn, cháy xém tro bụi. “Mày đi lính 68 à? Tao đi từ năm 66. Lúc đó bạn bè chết vì sốt rét nhiều lắm. Tao cũng mấy lần thập tử nhất sinh. Có hôm ngủ dậy, gọi thằng bạn, không nghe nó ơi hỡi, tao cuốn tấm tăng lên, thò tay vào võng, thấy nó đã chết cóng. Lúc đó sợ tới rùng mình. Chỉ muốn có địch để bắn nhau thí mạng, chết mẹ nó cho rồi. Chết trên chiến trường còn quang vinh, chứ chết vì sốt rét, sợ lắm”. Thấy Dũng lại ôm ngực ho nấc lên, Tùng nói: “Anh ngồi đây, để em đi kiếm thứ gì ăn được. Bên kia đồi, biết đâu có người Vân Kiều hay người Pa Kô.

 

Tùng đi đến xế chiều mới về tới nơi. “Em không gặp dân, nhưng gặp rẫy sắn của dân. Vác có hai ống quần sắn mà mệt muốn ná thở”. Trong khi Tùng nhóm lửa nướng sắn, Dũng lại ngất đi. Chờ Dũng tỉnh dậy, Tùng đưa cho anh mấy củ sắn đã bóc sạch lớp vỏ cháy đen. Thấy Dũng ăn bị nghẹn, Tùng nghĩ, đêm nay phải tìm cách bắt mấy con tắc kè, may ra Dũng mới khỏe lại được. Vết thương của Dũng đã bắt đầu có mùi. Thế này thì khó mà dìu anh ta về tới N. Cách tốt nhất là Tùng phải một mình đến N, gọi người vào cáng Dũng về cứ. Nhưng để Tùng ở lại một mình, lỡ có bề nào thì sao. Biết đâu số anh em thoát được trận tao ngộ chiến, sẽ báo cho trung đoàn đưa người vào tìm kiếm thương binh tử sĩ.

Rừng khuya im ắng đến kỳ lạ. Nghe có tiếng tắc kè ném lưỡi vào đêm, nhưng không có đèn, làm sao mà tìm thấy. Đành phải để đến sáng mai tìm cách khác.

 

Sáng hôm sau, Dũng thiếp đi đến tận trưa không thức dậy nổi. Tùng lang thang trong cánh rừng loang lỗ những vạt đất bị cày lên, đỏ bầm như máu vì bom và đạn  pháo. Anh tìm được một cái mũ sắt, liền đem về lấy sắn nướng cho vào đó, nghiền ra, rồi đổ thêm nước vào. Vậy mà Dũng ăn vẫn bị nghẹn.

 

“Tùng này. Sức tao đã kiệt lắm rồi, đằng nào cũng chết. Thôi, mày cứ một mình về trung đoàn. Sau đó có điều kiện thì trở lại. Tao muốn được chôn xuống đất”. Quả là Dũng đã quá yếu. Vết thương càng lúc càng bốc  mùi khắm lặm. Phải liều mạng xuống suối lấy nước rửa cho anh ta, nếu không, giòi bọ sẽ đục đến tận xương. Nhưng xuống suối là điều không thể. Suối quá xa, lại phải đi ngược về phía cao điểm. Đành phải đái vào cái mũ sắt, lấy nước tiểu mà rửa. Rửa xong, lau cho thật sạch, chắc cũng không đến nỗi nào.

 

Nhờ làm cách đó mà Dũng có vẻ tươi tắn được phần nào. Anh ta nghiến răng chịu đau đến chảy nước mắt, ngồi yên cho Tùng lau chùi vết thương. Lúc Tùng băng lại xong xuôi, Dũng nắm tay anh, thều thào: “Tự nhiên tao thèm ăn một quả xoài quá đi”. Nói xong, Dũng hơi rướn người ngồi dậy, mặt đờ ra ngây dại. Tùng biết, mình có nói thì Dũng cũng không nghe được. Nhưng Dũng chỉ có một ước muốn ấy. Mình đã gặp rẫy sắn của đồng bào, nhất định sẽ gặp buôn làng của họ, nhất định sẽ có xoài, sẽ có người dân vào giúp.

 

Mới mờ sáng, Tùng đã cắt rừng đi về phía rẫy sắn. Anh tìm được mấy ngôi nhà sàn xệch xạc, trống huơ thống hoác, mốc meo mùi bỏ hoang. Không có một thứ gì khả dĩ có thể đựng được nước. Nhưng may mắn là anh đã tìm được mấy quả xoài xanh.

 

Tùng về tới nơi lúc trời chiều bầm đỏ. Dũng nằm mê man. Tùng lay gọi hàng chục lần anh mới tỉnh. Nhìn thấy quả xoài, mắt Dũng vụt sáng, miệng nở nụ cười méo xệch. Anh cầm qủa xoài lên, ấp nó vào ngực, rồi hôn nó mấy cái, sau đó mới cắn một miếng lớn, nhai rau ráu ngon lành.

Ăn hết quả xoài, Dũng cầm tay Tùng áp lên ngực mình, nở nụ cười yếu ớt: “Tao đi đây! Chúng nó đang gọi”. Đầu Dũng gật sang một bên, lả xuống. Bàn tay vẫn còn nắm bàn tay của Tùng.

 

6.

Sư đoàn theo tiếng súng tiến về phía trước, nhưng Tùng thì tụt lại. Một mảnh pháo đâm lủng lá phổi bên trái của anh. Một mảnh pháo khác cắt ngắn ruột non của anh một khúc. Một mảnh bom rạch ngực anh thành  đường rảnh sâu hoắm. Hai viên bi chui vào ngủ trong bụng dưới. Đẹp nhất là viên AR15 xuyên thủng hai má thành lúm đồng tiền, lúc anh vọt lên khỏi công sự, há miệng hô xung phong. Tất cả họp nhau, xui khiến Tùng trốn tránh những nơi ồn ào, hội hè, và nhiều phụ nữ.

 

“Con ơi- mẹ của Dũng nói- ngày mai có chuyến hàng quần áo gởi tặng bà con các tỉnh miền Trung, bố mẹ muốn theo chuyến hàng ấy vào Quảng Trị, con sắp xếp đi luôn được không?”.

Anh Quân, cán bộ Sở Lao động thương binh tỉnh, lật hồ sơ, tìm được tên Dũng, nhưng anh không xác định được Dũng nằm xuống ở nơi nào, giữa trùng trùng đồi núi huyện Lao Bảo. Tất cả là nhờ vào sự liên lạc từ xa với ông Quyết. Khi tìm được ngọn đồi từng là cao điểm A6, ông bà Lâm tuổi cao sức yếu, đành phải ở lại nhà khách huyện ủy.

Buổi sáng, hai ông bà chỉ uống cốc sữa. Buổi trưa, hai ông bà không nuốt nổi hột cơm. Họ dìu nhau ra ngồi bên gốc bồ đề sum suê cạnh đường 9. Cả hai lặng lẽ tựa vào nhau, nhìn vọng về phía ngọn đồi A6.

 

Rất lâu. Rất lâu. Chợt bà Lâm nắm tay chồng, khóc nấc lên: Ông ơi, thằng Dũng nó về tới rồi này!

Nhìn ra, chỉ thấy đường 9 uốn vút một đường cong mềm mại.

Hồ Tĩnh Tâm
Số lần đọc: 2979
Ngày đăng: 24.05.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nàng Đae Chang Kim - Nguyễn Hồ
Người tốt - La Thị Ánh Hường
Vợ dại - Vinh Huỳnh
Hà Nội, mùa nước cạn - Cổ Ngư
Di sản - Lê Tư
Chuyện đời như kịch - Nguyễn Văn Ninh
Linh giác - Tiến Đạt
Đêm xóm chùa - Đoàn Lê
Ma giấu - Tâm Đào
Cam Lồ sa mạc - Hư Thân
Cùng một tác giả
Ngũ long công chúa (truyện ngắn)
Nàng (thơ)
Thầy Thi (truyện ngắn)
Có một mùa mưa (truyện ngắn)
Bến thần Kê (truyện ngắn)
Cu Đồ cháy mấn (truyện ngắn)
Chết giữa dòng sông (truyện ngắn)
Đêm Noen (truyện ngắn)
Vi rút rừng xuân (truyện ngắn)
Huynh đệ thần kê (truyện ngắn)
Gà đẻ gà cục tác (truyện ngắn)
Công an xã (truyện ngắn)
Hoành (truyện ngắn)
Bập bùng giai điệu (truyện ngắn)
Dòng sông tuổi thơ (truyện ngắn)
Cõi hoang thăm thẳm (truyện ngắn)
Mùa xuân dìu dịu (truyện ngắn)
Chuyện ở Làng Gao (truyện ngắn)
Chú Bảy (truyện ngắn)
Dấu ấn cuộc đời (truyện ngắn)
Một thời (truyện ngắn)
Thằng bé chết (truyện ngắn)
Tư Sẹo (truyện ngắn)
Nhỡ xe (truyện ngắn)
Con cà con kê (tạp văn)
Xóm phố (truyện ngắn)
Vòng quay của ngựa (truyện ngắn)
Con ngựa (truyện ngắn)
Giai điệu (truyện ngắn)
Bên hồ sen trắng (truyện ngắn)
Út Hường (truyện ngắn)
Bông điên điển (truyện ngắn)
Anh Dần (truyện ngắn)
Bạn cùng làng (truyện ngắn)