Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
762
115.994.307
 
Lê Sa Đà hòa âm cung bậc thân yêu
Tâm Nhiên

 

 

Ơi dòng Hương hỡi dòng Hương

Hiển linh mong chỉ hộ đường giúp ta

Phải chăng thị hiện đó mà

Mười phương là một – Một là mười phương

 

Lê Sa Đà đã nói như thế, về quê hương mình. Sông Hương, núi Ngự là nơi chốn thi sỹ sinh ra đời, từ năm 1946. Suốt một thời thanh xuân rực rỡ, thở nồng nàn, mát rượi, dưới mái trường Quốc Học, chàng thi sỹ mơ màng, lãng đãng chạy theo những tà áo trắng như đàn bướm của các nàng nữ sinh Đồng Khánh bay lượn trong nắng vàng, lấp lánh long lanh…

 

Từ cái đẹp sơ nguyên, thanh thoát đó, vô tình đã xui khiến chàng tuổi trẻ sớm cưu mang, hàm dưỡng và tựu thành một hồn thơ say đắm, đầy nhạy cảm giữa mười phương trời lữ thứ...

 

Sự cảm xúc, rung động thuở đầu đời, có một sức mạnh lạ thường, khiến bừng cháy lên ngọn lửa rực ngời sáng tạo, qua cung bậc lung linh tình mộng, tình thơ, tình đời, tình đạo... Ngọn lửa sáng tạo thi ca ấy, cháy mãi đến tận bây giờ, trên Lầu Gió, ở thị trấn Cư Jút, thuộc tỉnh Đăk Nông xa ngút phương này :

 

Lầu ơi, gió lặng đêm nay

Nghe lời tự hoạ mà say ai nằm

Bao năm rồi có tịnh không

Tịnh không – không tịnh – cũng chừng đó thôi

 

“Cũng chừng đó thôi” là một nhận định tỉnh táo, dễ dãi, sao cũng được. Thôi kệ ! Mặc kệ ! Hỏi cho có hỏi, chứ thực ra thi nhân đã cảm nhận rõ có không, tịnh động, mộng thực, đúng sai, phải trái… cũng chỉ là hai khái niệm của một thực tại bản tâm mình. Cho nên, chàng có một thái độ sống nhập cuộc, chấp nhận tất cả, đến nỗi sẵn sàng tự nguyện vào nơi chốn khốn cùng, ngục tù của trần gian u tối, lao lung :

 

Ta muốn vào địa ngục

Sao người lại không cho ?

Sống đây chừ ẩn ức

Đến bao giờ thăng hoa !

 

Địa ngục trần gian đang vây khổn bốn bề đến ngột thở ra đó, chàng thi sỹ đang ở trong sự khổn vây, lùng bùng, ẩn ức, bực bội đó rồi. Tuy biết thế, nhưng cũng cường điệu nói một cách hùng hồn, khí phách cho vui rứa thôi. Dù chưa thăng hoa trên cảnh giới tự tại, giải thoát, thi nhân vẫn tự tri, biết rõ chính mình, sau khi băng qua Một Mùa Địa Ngục như thi sỹ kỳ dị Rimbaud, kẻ lữ hành cô độc bên kia chân trời xa xăm Pháp quốc.

 

Thật không ngờ được, vượt qua đằng đẵng suốt 70 năm trời đầm đìa máu lệ, Lê Sa Đà, nhà thơ cô đơn của chúng ta, đã chạy qua nhiều sa mạc cát bỏng, hư vô, khô cằn trên mặt đất, đã giáp mặt, cận kề với sinh tử, từng thấm thía, quằn quại, thế nào là khổ đế, từng ôm trọn vò rượu điêu linh mà nốc cạn chén đắng tồn sinh cay xé, uống hết nỗi sầu vạn đại thế nhân…Thế mà tâm hồn vẫn lâng lâng, cảm xúc, rung ngân, rạt rào, tuôn chảy suối nguồn thi ca tràn lan, lai láng, miên man :

 

Trà sớm uống nhà bạn

Trăng khuya ngắm một mình

Hơn nửa đời lận đận

Trăn trở chuyện Tử Sinh

 

Sinh tử là việc lớn, chưa giải quyết được. Thành thử, ở đây, chúng ta hãy thong dong xem lại những chuyện nhỏ của người thi sỹ “hơn nửa đời lận đận” như thế nào ?

 

Đầu năm 1966, vừa đúng 20 tuổi, chàng tuổi trẻ bắt đầu bỏ xứ ra đi, dấn thân vào cuộc lữ. Từ Huế vào Sài Gòn để tiếp tục con đường học vấn ở mấy Đại học Sài Gòn. Rộn ràng, gian nan, vất vả qua các nhà trọ sinh viên. Chứng kiến biết bao nhiêu chuyện nhân tình thế thái, đương đầu với tồn sinh bức bách, cùng cực… nhưng lòng vẫn đầy hào khí của kẻ lên đường, dang tay đón nhận bất cứ cơn gió chướng nào từ biển đời thổi tới.

 

Thời kỳ này, nhà thơ được tiếp xúc với nhiều tư tưởng lớn như Krishnamurti, Hedegger, Nietzsche, Henry Miller, Hermann Hesse, Suzuki, Nikos Kazantzakis, Bùi Giáng, Nhất Hạnh, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ… Vì thế, nên tinh thần cũng phấn chấn, hào hứng, bừng dậy bao ý tình hân hoan, sảng khoái, phóng dật, chất ngất hồn bay lãng đãng ngát mênh mông…

 

Sống giữa thời buổi loạn ly, chiến tranh xảy ra dồn dập, bủa vây tứ phía, đành phải xa lìa bút nghiên, vì lệnh tổng động viên, đi lính tráng nửa chừng. Cũng may, không phải ra chiến trường mà được giữ lại giảng dạy, huấn luyện ở các trường quân sự bộ binh, nên có thời gian nhiều nghiên cứu sách vở, đọc hết Đông tây kim cổ... cho đến năm 1975.

 

Rồi đến giữa năm 1978, sau khi bị đi cải tạo về, nhà thơ đưa cả gia đình từ Huế lên núi rừng Đăk Lăk, dừng chân ở thị trấn Cư Jút, sớm chiều nghi ngút khói sương mù, định cư từ đó cho đến ngày hôm nay.

 

Ngày sinh nhật, nhân dịp 64 tuổi, thi nhân nhìn lại cuộc hành trình lưu linh lạc địa của mình, sau hơn 60 năm, một cách thâm trầm :

 

Năm nay tớ đã sáu mươi tư

Rằng đúng rằng sai tớ cũng ừ

Oán cũ nguyện lòng xin dứt sạch

Ân xưa thề giữ mãi tâm tư

Ngày ngày sinh sống bằng nô yes

Tối tối tâm tình với cổ thư

Bạn bè tâm đắc nay thưa thớt

Gió lạnh ngoài hiên vẫn như như…

 

Tự trào như thế, nghe ra cũng vừa tiêu sái vừa ngậm ngùi, vừa phong lưu vừa hàn sỹ, vừa ấm áp tình bằng hữu vừa lạnh lẽo, một mình một bóng, hiu hắt, cô liêu :

 

Chiều nay chiều nay… Ta không uống rượu

Mà sao ! Ta lại ngật ngừ say

Chao ơi ! Trống vắng ơi bằng hữu

Nốc cạn dùm ta cảnh giới này

 

Cảnh giới này là cảnh giới tự tâm trầm lặng, cô đơn rờn lạnh, cô quạnh cóng buốt. Nỗi sầu sâu hun hút, buồn tênh giữa tuế nguyệt man thiên đến rũ rượi hồn say. May mắn thay ! Giữa trận sầu vạn đại, tê tái đó, một hôm giữa trời khuya sương phủ nhạt nhòa, nhà thơ bỗng nghe tiếng gầm sấm sét của thiền sư Không Lộ, từ trên tuyệt đỉnh cô phong vọng vang về. Làm bùng vỡ khối âm u, mù mịt, đang bủa giăng nặng nề trong tâm thức chập chờn :

 

Đêm nay tuyệt đỉnh cô đơn

Gọi nhau... thì ngại dỗi hờn... rằng khuya

Hú lên...ngút tận sao thưa

Cả trời đất lạnh – Ai vừa lắng nghe ?

 

Thi nhân đang nghe tiếng gầm, tiếng hú... đến bàng hoàng, thảng thốt, nên sững sờ, tự hỏi : Ai vừa lắng nghe ? Chứng tỏ một tâm trạng đang hoang mang, bối rối như nằm mộng giữa ban ngày…

 

Ngày tháng lặng lẽ dần trôi qua, sớm chiều khuây khỏa, nhờ đám học trò bé dại, thơ ngây. Dạy học Anh văn tại nhà, thỉnh thoảng dạo rong đây đó, quanh vùng thượng du cùng với thi sỹ Dzạ Lữ Kiều. Nhiều khi lang thang lên buôn làng, thôn bản, đùa rỡn, chọc ghẹo mấy cô em mọi nhỏ và tất nhiên là mần thơ. Chỉ còn có thi ca là niềm vui duy nhất, là linh dược mầu nhiệm đưa thi nhân thoát chết, vượt qua tử thần trong những trận mê đồ, gần như cùng đường, tuyệt lộ giữa ngày tháng mang mang :

 

Ta những tưởng mãi đắm mình trong Tuyệt tình cốc

Rồi tháng ngày chăm sóc cội hoàng mai

Em hiện đến một sớm nào thoáng chốc

Tạo men đời cho bến mộng xôn xao

 

Chao ơi ! Nàng thơ diễm tuyệt hiện đến, “tạo men đời cho bến mộng xôn xao” khiến cho thi nhân xuất thần, chuếnh choáng, bay bổng, phiêu diêu trong Cơn Mê Chiều :

 

Em phố Hội thẹn thùng hoàng hôn xuống

Đau thời gian vương vấn ánh trăng rằm

Dẫu vẫn biết Tử Sinh là chuyện lớn

Dù một giây không ân hận trăm năm

 

Em phố Hội chiều nghiêng nghiêng lịch sử

Thương mùa xuân mà an phận mùa đông

Thèm một chút níu thuyền tình tâm sự

Ôi trần gian tha thiết ai ôm nồng

 

Em phố Hội chừ dáng gầy màu nhớ

Nợ và duyên ai biết đến khôn cùng

 

Em phố Hội cơn mơ chiều đầm thấm

Người xa ơi lạnh ấm ngọt bùi

 

Em phố Hội em phố Hội

Cơn mê chiều dâng núi

Cao nguyên xa… Xa ngút xa ngàn

 

Nàng thơ bên bến sông Hoài, nơi phố cổ Hội An huyền mộng ấy đã hiện về trong giấc chiêm bao của thi sỹ vào một chiều bữa nọ, gây chấn động dị thường, nên đã hình thành thi phẩm Cơn Mê Chiều, phiêu nhiên hồn ngây ngất giữa thực và mơ...

 

Mở đàu tập thơ, Lê Sa Đà bộc bạch đôi lời : “Hơn mười năm rong chơi trong cuộc lữ, là để thể nghiệm một Năng Lượng Căn Bản của nhân sinh. Mà Cơn Mê Chiều là một khía cạnh hiện thực...” Năng lượng căn bản của nhân sinh là gì ? Thi nhân không nói, để tự mỗi người khám phá ra, qua những vần thơ gợi mở, khơi vơi, dặt dìu, phiêu hốt :

 

Em hiện đến trên bàn tay năm ngón

Tiếng mèo kêu tha thiết ngoài hiên

Chút cực lạc ảo hư dữ dội

Rồi ba nghìn thế giới đảo điên

 

Chút cực lạc gì mà dữ dội, khủng khiếp thế ? Làm cho đảo điên khắp cả ba nghìn thế giới ? Phải chăng, đó chính là tình yêu, tính dục ?  Nguồn năng lượng căn bản, cốt yếu của toàn thể hoạt động nhân sinh đó, hình như từ xưa nay, chưa có ai định nghĩa được tình yêu, tính dục là chi ? Chỉ có đại văn hào Mỹ Henry Miller, viết cả một cuốn sách Thế Giới Tính Dục vô cùng độc đáo. Rồi biết bao triết gia, văn nghệ sỹ khắp thế giới cũng đồng cảm, chia sẻ, hào hứng, tưng bừng sáng tạo. Bắt đầu từ sự rung động khôn dò, do năng lực tình yêu, tính dục rạt rào, ảo dị, huy hoàng mang lại. Mang lại cả Trời Thơ Đất Mộng, sống chết cùng khiêu vũ trên cung bậc xuất cốt, tiêu dao...

 

Đạo sư Krishnamurti cũng từng phát biểu : “Có thể yêu thương, nhưng không mắc vướng vào một người nào, vào bất cứ gì. Đó là mức chí thiện của đời sống tình cảm. Phải tách lìa tất cả nhưng cũng vẫn thương yêu tất cả, vì tình yêu thương là sự bừng nở của cuộc sống.”

 

Còn Lê Sa Đà thì cũng tuý luý trào dâng cơn hải triều yêu thương hết mình và chấp nhận tình yêu thương đó, dù cho có tàn xiêu, lảo đảo, long đong :

 

Cõng em đến cuối cuộc đời

Còng lưng vẫn nở nụ cười trên môi

Kiếp này phải trả xong thôi

Hết duyên nợ vẫn phận người kiếp sau

 

Đâu là chân tướng của tình yêu ? Thực ra, tình yêu, tính dục là nguồn năng lực vô lượng, vô biên mà mỗi người sử dụng một cách riêng biệt, theo hiểu biết, kiến thức của mình về nó. Cho nên, có kẻ thăng hoa, xuất thần, nhập diệu bay lên tận đỉnh trời du hý tam muội, tự tại, vô ngại hồn lên đỉnh trời vô ngại, tự tại, lại có kẻ bị chìm đắm, trầm luỵ dưới bùn lầy dung tục, nhục cảm, đam mê, ê chề, sầu thảm, khổ đau… đều do mỗi cá nhân tự quyết định, thế thôi.

 

Tình yêu cũng là một thứ nghiệp lực, nhiều đời nhiều kiếp đã kết thành duyên nợ ba sinh. Không thể một sớm một chiều mà cởi trói, tháo dây ràng buộc được. Trái lại, càng ngày càng như muốn, như thích tạo nghiệp thêm nữa chứ, phải không em :

 

Kim Long răng khểnh có người

Nửa đêm nghe dạ tiếng cười an nhiên

Ta về đổi tuổi thay tên

Chiêm bao chợt bỗng lạc miền nhớ nhung…

 

Nhớ nhung, “ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung…” sầu thương em đến tận cùng trong mộng mị, chiêm bao, trong da diết, miên man, quá đỗi bần thần :

 

Ngẩn ngơ hình bóng cũ

Nao lòng trăng xưa nay

Gió về mây ấp ủ

Mộng đêm này đêm mai

 

Ngày xưa không hẹn ước

Ngày sau khôn tương lai

Bây giờ chừ không được

Xót xa gầy liêu trai

 

Dòng Sérépok rạo rực

Bờ cát loạn có hay

Suối Đa Mê hậm hực

Tình ơi ! Ai vương say

 

Ai say, ai tỉnh trong cuộc tình liêu trai chí dị như Bồ Tùng Linh đắm đuối cuộc hoang mê, ngọt ngào bao ảo dị :

 

Thế thôi thôi thế thôi thì

Nguyệt hoa hoa nguyệt đêm ghì chiêm bao

Nẻo về rõ chút hư hao

Liêu trai chí dị gió vào bên song

 

Liêu Trai Chí Dị là tác phẩm độc đáo của Bồ Tùng Linh, kể những chuyện nam nữ yêu nhau, giao hoan nhau giữa ngày đêm chập chùng mộng thực, không phân biệt là người hay ma nữ, tiên nữ nữa. Bên trong song cửa là thế giới của hai người, quên đi bản ngã mà cùng say đắm, mặn nồng, mê ly, kỳ lạ :

 

Ta chừ trong bến sông Mê

Xin em chút dục thoả thê cơn nồng

Sóng triều dâng sóng triều dâng

Từ bi tế độ trong ngần tình em

 

Chàng thi sỹ khiêm tốn, hồn nhiên nói cho vui vậy thôi, chứ đã bước qua miền kinh nghiệm, lịch lãm nhiều rồi. Kẻ lịch duyệt, hảo hán, giang hồ, đôi khi cũng thốt lên choáng váng, tần ngần :

 

Cõi phù vân cõi phù vân

Thoáng say cơn mộng mộ phần thi ca

Em là Phật hay là Ma ?

Thì ra thị hiện một toà chân như

Em đó ư mộng tàn dư

Bảy mươi năm thiếu - Ta chừ còn… mê

Đường xưa mây trắng bay về

Bảy con chim…  có một bề thong dong

Ơi người giặt áo bên sông

Có khi mô ? Nước sông Vân gợn buồn

Thôi em một chút tình suông

 

“Bảy mươi năm thiếu – Ta chừ còn…mê” Ừ thì cứ : Mê man, mê ám, mê cuồng. Mê si, mê dại, mê suông… thôi mà. Cứ mê chơi, có hề chi mô, phải không người em gái, tự nhận là Ma Đăng Già :

 

Em tự bảo : Ma Đăng Già

Không – Em đúng Phật Bà Quan Âm

Ai người hái nụ tầm xuân

Riêng ta chỉ ước được cầm “gương sen”

 

Trong Phật giáo Mật tông tả phái Tây Tạng, các đại sư chỉ cái chỗ kín đáo nhất của đàn bà, con gái là đoá hoa sen thanh khiết, có thể sinh ra những bậc thánh hiền. Cho nên, chàng thi sỹ mê gái này, sung sướng, tha hồ ước ao cầm được cái gương sen đó chăng ?

 

Ma Đăng Già, biểu tượng cho năng lượng dục tính, còn Bồ tát Quan Âm, biểu tượng cho năng lượng yêu thương, đại bi tâm. Tuy gọi tên có khác nhưng thực ra, vốn huyền đồng trong nguyên lý nhất như, nơi tự tánh bình đẳng, chẳng gì khác biệt nhau.

 

Thấu nhập cảnh giới tình yêu tối thượng này rồi, vì thế, thi nhân cất lên tiếng hát dục lạc ca qua câu hỏi khốc liệt, tuyệt cùng cho những ai còn bị dục tính ám ảnh nặng trì :

 

Khi Thuý Kiều trút quần với Mã Giám Sinh, với Sở Khanh, với khách làng chơi, với Thúc Sinh, với Từ Hải và… với Kim Trọng, thì :

Ai giao cấu

Ai giao hợp

Ai giao hoan

Ai giao dục

Ai giao nộ

Ai giao ố

Câu trả lời xin dành lại cho Bùi Trung Niên thi sỹ.

Nhưng bây giờ, chàng Bán Dùi không còn nữa, đã rong chơi qua cảnh giới tiêu dao nào khác

Đành đoạn, đi làm phiền lão già Marpa ( thầy của Milarepa ) thôi

Và rồi, cụ già đáo để này lại bán cái cho Osho

 

Không cần phải đợi đại sư Marpa và hành giả Osho trả lời, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, giây phút ly kỳ, gay cấn đó, chỉ có nguyên lý âm dương, năng lượng dục tính đang hoạt động. Tự nhiên vây, vắng mặt tốt xấu, đúng sai, phải quấy… ở đây.

 

Muốn hiểu Marpa là ai, thì phải tìm đọc lại tác phẩm Milarepa Con Người Siêu Việt của Rechung, do Đỗ Đình Đồng dịch, An Tiêm xuất bản năm1969 tại Sài Gòn.

 

Marpa, hành giả Mật tông, Tây Tạng, tuy cũng có vợ con như mọi người, nhưng là một bậc đại sư thượng thặng, chứng ngộ cao vời. Bằng tâm lực phi thường đã hoá độ cho Milarepa, một kẻ sát nhân, trở thành một con người siêu việt, hoàn toàn giác ngộ.

 

Milarepa cũng là một thi nhân, đã cất cao tiếng ca hùng tráng, vang động khắp vùng thâm sơn cùng cốc trên đỉnh ngàn Hy Mã Lạp Sơn. Giọng thơ bất hủ ấy, sau này được các đệ tử góp lại thành thi phẩm tuyệt vời Gởi Lại Trần Gian, bay rợp vàng qua cả ngàn năm, bát ngát lồng lộng sương khói trời mây...

 

Còn Osho, một đạo sư độc đáo thời hiện đại. Nổi bật lên trên bầu trời đạo học thâm uyên về triết lý nhân sinh đã nêu cao đề tài dục tính lên bình diện giải thoát tâm linh. Tính dục là một pháp như tất cả vạn pháp, có thể quán chiếu đến thậm thâm vi diệu. Từ đó, bùng vỡ ra chân diện mục của con người.

 

Nói đến tính dục thì hầu như đa số kẻ tầm thường trong thiên hạ đều sợ hãi, dị ứng, né tránh. Chỉ có những căn tánh thượng thừa mới dám giáp mặt, nhận diện, trực chỉ vào cái cốt tử dục tính này, như trường hợp của các đạo sư Marpa và Osho đã thực hiện.

 

Vậy thì, có vợ con ( nghĩa là sử dụng dục tính ) hay độc thân, không thành vấn đề trên con đường trở về cố quận Chân Như Tự Tánh của mình. Thích thú điều đó, cho nên Lê Sa Đà cứ lãng mạn trong tình yêu vi diệu, siêu thoát qua tình dục, rúng hồn xương xảu, máu me và rốt cuộc, éo le thay, chàng lại muốn :

 

Ta không muốn em là bạn

Bởi vì ta có nhiều bằng hữu thuỷ chung

Ta không muốn em là em gái

Bởi vì ta có nhiều đàn em phái nữ

Ta không muốn em là người tình

Bởi vì ta yêu rất niều thứ

Một mái tóc

Một nụ cười

Một dáng đứng

Một điệu ngồi

Ta muốn em là : Là Mẹ

Để ta có những bữa ăn mắm cà với ruốc

Vá cho ta từng tấm áo

Giặt cho ta những chiếc quần

Cắt giùm móng tay móng chân

Và thức tỉnh cho ta

Từng hơi thở chánh niệm

Nhất là trong giờ… lâm chung

 

Trước khi nhắm mắt lìa đời, trước khi chết, hạnh phúc nhất là có Người Yêu Dấu của mình đứng bên cạnh phải không ? Lòng thi nhân cảm nhận như thế, nên hồn nhiên gọi Người Yêu  của mình bằng Mẹ, bằng Mẫu Thân cũng là điều dễ hiểu. Giống như trường hợp thi sỹ Bùi Giáng, vì quý yêu quá chừng, quá đỗi sư cô Trí Hải, tức Phùng Khánh mà gọi là Phùng Khánh mẫu thân bát ngát đó thôi :

 

Bởi vì rằng... của người ta

Gọi Em thì ngại gọi Bà bị la

Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa

Gọi Chị cho tiện… thế mà mắng to

Nhớ xưa Giáng gọi ni cô

Mẫu thân Phùng Khánh hay ho vô cùng

Chừ ta bắt chước Bùi quân

Rống lên : Mẹ - con cưng đây nè

Được bú mớm được mân mê

Được làm trẻ nít được về tuổi xuân

Đây là... một cuộc... hóa thân

 

Hóa thân như triết gia Đức Nietzsche, trải qua ba biến thể : Bắt đầu từ lạc đà trở thành sư tử và cuối cùng là hài nhi. Thi sỹ Lê Sa Đà cũng muốn làm hài nhi chưa tắm sông nào, còn ngây thơ trong trắng, chạy về bú vú mẹ hiền, sau những chiều tà tha thẩn, nô đùa, chạy nhảy, rông chơi...

 

Người thi sỹ ưa sáng tạo ra cái tân kỳ, mới mẻ, mới lạ, nên Bùi Giáng hay Lê  Sa Đà có quyền gọi Người Yêu của mình bằng Mẹ, bằng Mẫu Thân cũng là điều thú vị, chứ chẳng hề sai quấy chi cả.

 

Sa mù bàng bạc, bảng lảng dưới trăng rằm. Nằm giữa vườn Phong Nguyệt Hữu ở thị trấn Cư Mgar, trên cao nguyên Đăk La8k, đọc thơ Lê Sa Đà, tôi đã phát hiện ra một điều dị thường là nhà thơ xem Tình Yêu, Tính Dục như một công án hiểm hóc mà suốt ngày đêm, anh là hành giả, luôn luôn hành trì, khởi nghi tình miên mật và cũng từ đó, vô hình chung, muốn khơi dậy, khích lệ mỗi người trong chúng ta tự quán chiếu, tham công án Tình Yêu, Tính Dục này. May ra, một ngày kia, bất ngờ sẽ bùng vỡ, thấu thị bản lai diện mục, cái mặt mũi đích thực , xưa nay của chính mình...

 

Tịch nhiên trong niềm uyên tư giữa tử sinh trường mộng đó, cuộc lữ phiêu bồng, không chỗ trú đã xui bước chân du sỹ này,quay về nơi xứ miền cao nguyên Cư Jút, Đăk Nông nhiều lần rồi. Mười lăm năm trước, một chiều phiêu linh, rộn rã, tôi dừng gót lữ tại nhà Lê Sa Đà. Tay bắt mặt mừng, mặc dù trời đang mưa tầm tã, anh vẫn kéo ngay ra quán nhậu, bên góc chợ thị trấn Cư Jút, uống cho cạn hét nỗi niềm thiên cổ, cho tót vời vũ điệu tiêu dao du. Bữa đó, cũng có thi sỹ Dzạ Lữ Kiều tham dự nữa.

 

Khuya mưa ấy, nằm trên Lầu Gió se se lạnh tại nhà anh, tôi đã làm bài thơ Chiều Cư Jút này, như một tặng vật thân tình gởi anh, trước khi trời rạng sớm, lại tiếp tục lên đường, hành viễn xứ, phiêu diêu :

 

Chiều mưa Cư Jút mưa mù mịt

Ba thằng chuếnh choáng cụng ly nhau

Nghìn dặm cách xa chừ mới gặp

Nên chi rót mãi xuống vui sầu

 

Bạn uống Khuất Nguyên dòng trong đục

Nghẹn ngào Đỗ Phủ chén xót xa

Ta cạn một bầu trăng Lý bạch

Cuồng ca Bùi Giáng hát khề khà

 

Cư Jút chiều mưa trời đất lạnh

Rất may còn một góc quán này

Chắc mưa cảm động cùng cô lữ

Trút sạch bụi đường ở nơi đây

 

Say chút muôn trùng tình thi sỹ

Tình thơ nước chảy với mây trôi

Ngậm ngùi chi nữa cơn huyễn mộng

Cứ trôi và chảy suốt muôn đời

 

( Viết tại Phong Nguyệt Hữu, Cư Mgar, Đăk Lăk, chiều 29. 10. 2016 )

 

Ghi chú :

 

Chữ nghiêng : Trích thơ Lê Sa Đà, trong tập thơ Cơn Mê Chiều ( 8.  2016 )

Tâm Nhiên
Số lần đọc: 1533
Ngày đăng: 11.02.2017
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tự tình Giêng - Hai - Mặc Phương Tử
Ước vọng & Tâm xuân - Mặc Phương Tử
29 tết ra ngồi cà phê quán chợ nhìn cuối năm - Vũ Dy
Sau mùa tuyết rơi - Mặc Phương Tử
Thới Sơn mùa đông, bên sông gửi về từng tia nắng nhạt... - Nguyễn Văn Thượng
Niềm tin bất diệt / Vĩnh Tế, tên người và tên kinh. - Huyền Văn
Một ngày làm dâu Cao Lao Hạ - Bạch Diệp
Chùm đoản văn của Lê Hưng Tiến - Lê Hưng Tiến
Chùm đoản văn của Lê Hưng Tiến - Lê Hưng Tiến
Lời tâm sự cuối cùng của Nhà văn Võ Phiến - Mang Viên Long