Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
529
116.489.353
 
Quê nghèo, nghèo đến xót xa cõi lòng
Nguyễn Bàng


 

 

Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê  nghèo” của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình, cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng“có lũy tre còm tả tơi”… Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng  lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.

 

Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo”một thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ“Quê nghèo”  còn như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!

 

*

           

          Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ kết  đã phô ra 5 cái nghèo lắm:

 

Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:

         

          Vẫn lác đác nhà tranh    

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

 

Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng. Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh  thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạtVẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát”  thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc,  vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:  

           

          Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

 

Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:

 

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

 

Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm;  mà phải là những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…

 

Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo  từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: luỹ tre còm tả tơinhững ông già rách vai cuốc đấtbên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:  

 

Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy

 

Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có  niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:

 

Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

 

Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờQuê tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.  

           

          Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:

 

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi  

Mẹt sắn, mẹt ngô

 

Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…

 

Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộcBởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước:

 

Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về

 

Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt’ với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:

           

          Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

 

Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn sự sống:

 

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài  lũ trẻ :

         

          Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

 

Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao:

 

Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng 
          Về sông ăn cá, về đồng ăn cua… 

 

Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài:

 

“cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."  (trích Chiều chiều).

 

Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.

 

Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:

 

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

 

Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:

         

          con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình

 

Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?  Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:

 

Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:

         

          Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

          

            Và giờ đây cộng thêm:

           

         Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

          

             Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?

 

Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:

 

Ngày nay dù ở nơi xa

Nhưng khi về đến cây đa đầu làng

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng

Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre 

(Bàng Bá Lân)

 

Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:

 

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

           

Và chính vì thế, người ta đâu biết:

         

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:

           

          Nghèo cả giấc mơ

          

             Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ! 

 

 *

 

Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.

 

Mặc dù Bộ máy truyền thông Nhà nước đang tán dương mức tăng hơn 11 lần về thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam trong 20 năm qua, nhưng tôi không hề tin đến cuối thế kỷ này, CNXH sẽ hoàn thiện ở Việt Nam; tôi cũng không hề trông chờ vào sự đổi thay kỳ diệu trong ảo tưởng như câu thơ từ nửa sau thế kỷ trước:

 

Năm năm mới bấy nhiêu ngày

          Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều (Tố Hữu)

           

Tôi chỉ mong rằng, trên mọi miền đất nước, bà con dân quê chúng ta sẽ tự cứu mình để sớm hết cảnh “Quê nghèo”, nghèo đến xót xa cõi lòng như trong  thơ Đặng Xuân Xuyến.

 

 

Sài Gòn 17-6-2016

 

 

 

Nguyễn Bàng
Số lần đọc: 2134
Ngày đăng: 20.06.2016
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc bài thơ "Quê nghèo" của Đặng Xuân Xuyến - Chử Văn Long
Ẩn tượng bàn tay nhỏ trong mưa (Đọc tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của tác giả Trương Văn Dân) - Chế Diễm Trâm
Đi tìm người thấu hiểu hay sự đồng cảm trong thơ nhân đọc - Từ Sâm
Đọc bài thơ " Bạn Quan" của Đặng Xuân Xuyến - Chử Văn Long
Về bài thơ cổ "Nam quốc sơn hà" - Yến Nhi
Trầm Thụy Du - Hoài niệm tuổi thơ và những khúc tình buồn - Mai Bá Ấn
Giá trị truyện cổ tích “Con chim bìm bịp”. - Tuấn Giang
Nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt hậu Đổi mới - Đỗ Quyên
Vũ Hải Đoàn "Chơn chất đất và tơ non cỏ" - Mai Bá Ấn
Ngô Minh - Ngựa đá và những bông hoa cỏ - Từ Sâm