Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
730
116.009.001
 
Đọc bài thơ "Quê nghèo" của Đặng Xuân Xuyến
Chử Văn Long

 

 

*

Quê nghèo

 

Quê tôi nghèo lắm

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

 

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

 

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...

*.

Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

LỜI BÌNH:

Là người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho phận số chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…

Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác. Nhìn từ bên ngoài

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài…

Chiếc cổng làng thành

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ!

Còn đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:

Nơm nớp âu lo

Đời như chiếu bạc

Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết thế nào.

Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.

Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:

Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn

Răm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn mẹt ngô

Í ới mời chào…

Ế bán

Chán mua

… Chợ quê xác xơ già cỗi

Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở. Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú…

*.

Hà Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2016

 

 

Chử Văn Long
Số lần đọc: 1816
Ngày đăng: 19.06.2016
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ẩn tượng bàn tay nhỏ trong mưa (Đọc tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của tác giả Trương Văn Dân) - Chế Diễm Trâm
Đi tìm người thấu hiểu hay sự đồng cảm trong thơ nhân đọc - Từ Sâm
Đọc bài thơ " Bạn Quan" của Đặng Xuân Xuyến - Chử Văn Long
Về bài thơ cổ "Nam quốc sơn hà" - Yến Nhi
Trầm Thụy Du - Hoài niệm tuổi thơ và những khúc tình buồn - Mai Bá Ấn
Giá trị truyện cổ tích “Con chim bìm bịp”. - Tuấn Giang
Nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt hậu Đổi mới - Đỗ Quyên
Vũ Hải Đoàn "Chơn chất đất và tơ non cỏ" - Mai Bá Ấn
Ngô Minh - Ngựa đá và những bông hoa cỏ - Từ Sâm
Dòng sông Mẹ trong tâm thức một người con đất Việt - Nguyễn Anh Tuấn