Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
527
115.970.816
 
Phần thứ Hai : Thơ Đường dịch của các tác giả Việt Nam (Gồm 58 bài thơ chữ Hán của 36 nhà thơ xếp theo thời gian)- Phạm Đình Nhân dich (Ngọc Châu giới thiệu)
Ngọc Châu

 

************

 

1. THIỀN SƯ VẠN HẠNH

(?-1018)

 

Thiền sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thuở nhỏ thông minh khác thường, thông suốt Tam học. Lớn lên xem thường công danh phú quý. Năm 21 tuổi, xuất gia cùng thiền sư Đinh Huệ theo học Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức, nay là Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh.

Sau khi Thiền Ông tịch, thiền sư kế tiếp trụ trì chùa Lục Tổ và chuyên tu tập pháp “Tổng trì tam ma địa”. Sư được vua Lê Đại Hành kính trọng thường mời Sư đến hỏi việc nước. Sư có công đóng góp trong việc lên ngôi vua của Lý Thái Tổ.

Năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), ngày rằm tháng năm, Sư gọi đệ tử đến căn dặn, nói kệ rồi thị tịch.

         

              51. HỮU HOÀN VÔ[1]

Nguyên tác:              

          身  如  電  影  有  還  無

萬  木  春  荣  秋  有  枯

任  運  盛  衰  無  怖  畏

盛  衰  如  露  草  頭  鋪

Phiên âm :                      Hữu hoàn vô      

          Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

                   Vạn mộc xuân vinh thu hữu khô

                   Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

                   Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

                  

Dịch thơ:              

                     Có rồi không

                                    Phạm Đình Nhân

                                              Dịch 2011

Thân như ánh chớp có, không

Cỏ cây xuân thắm mênh mông thu buồn

Mặc cho suy thịnh không cùng

Thịnh suy như hạt sương đông đầu cành.

 

                    Có - Không                  

                           

                                     Ngọc Châu

                                               Dịch 2013

                   Đời như ánh chớp, có rồi không

Cây lá xuân tươi, thu héo cong

Suy thịnh tùy nghi cùng thế thái

Thịnh suy như sương giọt đầu đông

 

 

2. ĐẠI SƯ MÃN GIÁC

(1052 – 1096)

Đại sư Mãn Giác tên huý là Trường, người họ Lý sau đổi sang Nguyễn, quê làng Lũng Điền, huyện An Cách. Thân phụ là Lý Hoài Tố làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang, đi sứ nhà Tống năm 1073. Đại sư vốn tinh thông Nho học, Phật học, được vua Lý Nhân Tông ban hiệu là Hoài Tín. Sau khi xuất gia được thiền sư Quảng Trí truyền tâm ấn. Sau về trụ trì chùa Cửu Liên Giác Nguyên, xây gần cung vua và được vua Lý phong cho làm Hoài Tín đại sư đứng đầu Giác Nguyên thiền viện. Sau vua lại xuống chiếu phong cho chức Nhập nội đạo tràng Tử y đại sa môn, được dự bàn chính sự. Ông thuộc thế hệ thứ 9 dòng thiền Vô Ngôn Thông.

 

Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (năm  Bính Tý - 1096) đời vua Lý Nhân Tông, sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Bài kệ thị tịch đó chính là bài Cáo tật thị chúng (sau còn gọi là Nhất chi mai)

          Cáo tật thị chúng trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng của văn học Lý-Trần, một tuyên ngôn triết học Phật giáo ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương.

 

52. CÁO TẬT THỊ CHÚNG

Nguyên tác:   告疾示衆 (一枝梅)

          春 去 百 花 落

春 到 百 花 開

事 逐 眼 前 過

老 從 頭 上 來

莫 謂 春 殘 花 落 盡

庭 前 昨 夜 一 枝 梅

 

Phiên âm:    Cáo Tật Thị Chúng (Nhất chi mai)

                   Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân lai bách hoa khai,

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Dịch thơ:    

                    Có bệnh bảo mọi người (Một nhành mai)

         

                                          Phạm Đình Nhân

                                          Dịch 2011

          1. Xuân tàn trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười,

Sự đời qua trước mắt,

Tuổi già trên đầu rồi.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua  sân trước  một nhành mai.

                        2. Xuân đi hoa rụng tơi bời

 Xuân về hoa lại mỉm cười với nhau

Dòng đời qua trước mắt mau

Trên đầu tóc đã điểm màu thời gian

Chớ tin xuân hết hoa tàn

Đêm  qua  một  nhánh  mai  vàng trước  sân.

                                               

Một cành mai

 

                                         Ngọc Châu

                                                   Dịch 2013

Xuân đi trăm hoa rã

Xuân về  ngàn hoa cười

Đời trôi qua mắt người

Tóc đen thành trắng xóa

Chớ tin xuân hết hoa tàn nhá

Đêm qua sân trước nở nhành mai.

 

 

3. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ

(?- 1141)

 

Thiền sư Không Lộ họ Dương, quê ở Hải Thanh, trấn Sơn Nam hạ, nay thuộc tỉnh Nam Định. Nhà nhiều đời làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề theo tu hành đạo Phật. Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1050-1065) đời Lý Thánh Tông Sư cùng đạo hữu là Giác Hải đi vân du, dấu kín tông tích, đến chùa Hà Trạch tu tập thiền định. Rồi sư thấy tâm thần, tai mắt ngày càng sáng láng thông tỏ, bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn nghìn phép lạ. Sau Sư về quê hương dựng chùa trụ trì.

 

53. NGƯ NHÀN

 

Nguyên tác:          

萬 里  清 江  萬  里  天

一  村  桑  柘  一  村  煙

漁  翁  睡  著  無  人  喚

過  午  醒  來  雪  滿  船船

 

Phiên âm:                Ngư nhàn

                   Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên

                   Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.

                   Ngư ông thuy trước, vô nhân hoán,

                   Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền

 

Dịch thơ:             

 

                     Cái nhàn của ngư ông

                                          Phạm Đình Nhân

                                                        Dịch 2011

 

Nước biếc trời xanh vạn dặm sâu

Một thôn sương khói, một thôn dâu

Ngư ông ngủ tít không ai gọi

Quá ngọ tỉnh ra, tuyết ngập đầu.

 

Ngư nhàn

 

                                         Ngọc Châu

                              Dịch 2013

 

Trời xanh nước biếc thẳm sâu

Một thôn sương khói, thôn dâu liền kề

Mặc cho ngư ông ngủ mê

Trưa mới tỉnh, tuyết tràn trề thuyền câu

                            

54. NGÔN HOÀI

Nguyên tác:             

    迭 得 龍 蛇 地 可 居

          野 情 終 日 樂 無 餘

          有 時 直 上 孤 峰 頂

          長 嘯 一 聲 寒 太 虛

Phiên âm:              Ngôn hoài

          Tuyển đắc long xà địa khả cư

                   Dã tình chung nhật lạc vô dư

                        Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh

                   Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

Dịch :                           

                     Tỏ lòng

                                      

                                          Phạm Đình Nhân

                                          Dịch 2011

 

                     Chọn nơi linh địa an cư

                   Ngày ngày vui thú chẳng từ nơi đây

                   Khi lên đỉnh núi tầng mây

                   Tiếng kêu lành lạnh vang đầy trời đêm

 

                        Nỗi lòng

 

                    Ngọc Châu

                                Dịch 2013

                                    

Đất thiêng chọn để sống an vui

Vui thú tháng ngày chẳng muốn rời

Đỉnh núi lên nhìn mây thắm sắc

Đêm nghe lành lạnh tiếng chim trời

 

4. TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

(1230-1291)

          Tuệ Trung thượng sĩ tên húy là Trần Tung, là con đầu của An Sinh Vương Trần Liễu, là  anh cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là bác ruột của vua Trần Nhân Tông. Ông có công trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên năm 1285 và 1288.

          Từ nhỏ, ông đã tỏ ra có phẩm chất cao sáng, thuần hậu và yêu mến đạo Phật. Tuệ Trung không xuất gia, là một cư sĩ nhưng ông có trình độ thiền học rất cao. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng mà nay còn lưu giữ trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Đó là một tài liệu rất quý giúp việc tìm hiểu tư tưởng Phật giáo thời Trần nói chung và của Tuệ Trung thượng sĩ nói riêng.

 

          Trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục,

 nhiều tác phẩm của ông  không  những  thể  hiện  một  cách  xuất sắc tư tưởng thiền học mà ở đây còn thể hiện một tài năng văn học.

              55. KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO

 

Nguyên tác :         

四 序 循 環 春 復 秋

駸 駸 已 老 少 年 頭

榮 華 肯 顧 一 場 夢


歲 月 空 懷 萬 斛 愁

苦 趣 輪 迴 如 轉 轂


愛 河 出 沒 等 浮 漚

逢 場 亦 不 摸 來 鼻

無 限 良 緣 只 麼 休

 

Phiên âm:     Khuyến thế tiến đạo           

Tứ tự tuần hoàn xuân phục thâu (thu), 


Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu. 


Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng, 


Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu. 


Khổ thú luân hồi như chuyển cốc, 


Ái hà xuất một đẳng phù âu. 


Phùng trường diệc bất mô lai tị, 


Vô hạn lương duyên chỉ má hưu

Dịch thơ :   

Khuyên đời vào đạo

 

                Phạm Đình Nhân

 Dịch 2012

 

Năm tháng qua dần thu lại xuân

Tuổi son ngoảnh lại tóc phai dần

Vinh hoa phú quý là cơn mộng

Năm tháng long đong cái nợ nần

Nỗi khổ trầm luân lưu chuyển mãi

Ái tình chìm nổi kiếp phù vân

Cuộc đời nếu chẳng nhìn ra gốc

Vạn kiếp duyên lành chẳng đến gần

 

Khuyên đời học đạo

                                               

                                          Ngọc Châu

                                                    Dịch 2013

 

Thu đi xuân đến, năm qua

Tuổi xanh trôi, đã phôi pha mái đầu

Vinh hoa phú quí là đâu

Long đong chỉ thấy nợ sầu quanh năm

Trầm luân khổ ải xoay vần

Yêu thương lận đận phù vân kiếp người

Nguyên do gì hỡi cuộc đời

Duyên lành vạn kiếp xa rời tầm tay.

 

 

5. TRẦN NHÂN TÔNG

(1258 – 1308)

        

          Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, con của vua Trần Thánh Tông,  lên ngôi vua năm 20 tuổi (1278), Ở ngôi 15 năm, đến năm 1293 (35 tuổi) thì nhường ngôi cho con, sáu năm làm Thái Thượng hoàng, rồi xuất gia năm 41 tuổi (1299) được chín năm thì mất, thọ 51 tuổi. Từ nhỏ, đã có ý không muốn làm vua, lớn lên thông minh, hiếu học, nhiều tài, ham đọc sách Phật và nghiên cứu thiền học. Ông tôn thờ Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy. Khi xuất gia lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau đổi thành Trúc Lâm Đầu Đà, có công xây dựng nên thiền phái Trúc Lâm ở núi Yên Tử. Trúc Lâm Đầu Đà trở thành vị tổ đầu tiên của Phật giáo Trúc Lâm. Trúc Lâm Đầu Đà còn là tác giả của nhiều tác phẩm như : Thiền Lâm Thiết Chỉ Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Đại Hương Hải ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự và nhiều bài viết bằng chữ nôm. Các tác phẩm trên hiện nay còn để lại một số trích in trong sách Tam Tổ Thực Lục, Việt Âm Thi Tập và Toàn Việt Thi Lục.

 

      56. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO[2]

Nguyên tác:             

          居 塵 樂 道 且 隨 缘

饑 則 餐 兮 困 則 眠

家 中 有 寶 休 尋 覓

對 境 無 心 莫 問 禪

Phiên âm:             Cư trần lạc đạo   

                   Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Dịch :                  

                           Sống đời vui đạo

                                       

               Phạm Đình Nhân

                               

 Dịch 2011

 

                     Ở đời vui đạo cứ tùy duyên,

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền

Trong nhà vật quý thôi tìm kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền

 

      Sống đời vui đạo

 

 

                          Ngọc Châu

                               Dịch 2013

 

Ở đời vui đạo tùy duyên

Đói thì ăn, mệt ngủ liền vô lo

Vật quí chẳng nên mong chờ

Tĩnh tâm ngắm cảnh, thiền cho đẹp đời.

 

6. TRƯƠNG HÁN SIÊU

(? – 1314)

 

Trương Hán Siêu (?-1314), danh sĩ đời Trần, tự Thăng Phủ, quê làng Phúc Thành, huyện Gia Khánh, nay thuộc thành phố Ninh Bình. Ông vốn là môn khách của Hưng Đạo Vương. Năm 1308 được bổ làm Hàn lâm học sĩ, qua nhiều chức rồi thăng đến Gián nghị Đại phu Tham chính sự. Ông mất, được truy tặng Thái bảo. Ông có bài Bạch Đằng giang phú nổi tiếng và nhiều thơ văn khác. Ông cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn bộ Quốc triều đại điển. Bài thơ Dục Thúy sơn của ông được khắc trên sườn núi Dục Thúy (núi Non Nước) Ninh Bình.

 

                 57. DỤC THÚY SƠN

 

Nguyên tác :                   

山  色  尙  猗  猗

遊  人  乎  不  歸

中  流  洸  塔  影

上  介  啟  喦  扉

浮  世  如  今  別

嫻  名  誤  是  非 

五  虎  天  地  闊

好  放  舊  渔  期

 

Phiên âm:    Dục Thuý Sơn    

Sơn sắc thượng y y .

Du nhân hồ bất quy?

Trung lưu quang tháp ảnh,

Thượng giới khải nham phi.

Phù thế như kim biệt

Nhàn danh ngộ tạc phi,(1)

Ngũ hồ thiên địa khoát,

Hảo phóng cựu ngư ky

Dịch thơ:  

               Núi Dục thúy

 

                                       Phạm Đình Nhân

                             Dịch 2005

Sắc núi vẫn xanh trong,

Khách đi không trở lại.

Bóng tháp in giữa dòng,

Cửa trời lên thượng giới.

Cõi đời như cách biệt,

Mới hiểu rõ sự đời.

Ngũ hồ trời đất rộng,

Nơi câu cũ ta ngồi.

 

                    Núi Dục Thúy     

                                     

                                          Ngọc Châu

           Dịch 2013

  

          Sắc núi vẫn mãi xanh trong

          Khách đi liệu có hẹn mong quay về?

          Tháp in bóng suối sơn khê

          Lên thượng giới cửa trời kia mở đường

          Cõi người tách biệt xa phương

Sự đời như thể tỏ tường thêm ra

Ngũ hồ trời đất bao la

Nơi câu cũ, giờ đây ta lại ngồi

         

7. MẠC ĐĨNH CHI

(1280 – 1350)

 

          Mạc Đĩnh Chi tự Tiết Phu, quê làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đỗ Trạng nguyên năm 1304, vua thấy tướng mạo xấu có ý chê, ông dâng bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen giếng ngọc) khiến vua khâm phục. Ông làm quan trải ba đời vua Trần Anh Tông, Minh Tông và Hiến Tông, làm đến Tả Bộc xạ Đại liêu ban. Từng đi sứ Trung Quốc hai lần, được các danh sĩ nước ngoài khâm phục. Ông mất năm 1350 thọ 70 tuổi. Ông có nhiều tác phẩm còn để lại đăng trong Toàn Việt thi lục.

 

 

58. ĐỘNG ĐÌNH HỒ

Nguyên tác :                    

雲 涛 雪 浪 四 谩 谩

砥 住 中 流 屹 一 山

鶴 跡 不 來 松 歲 老

妃 魂 猶 在 竹 痕 班

乾 坤 卵 破 洪 蒙 後

日 月 平 浮 浩 渺 間

岸 芷 汀 蘭 無 限 興

片 心 空 羨 白 鷗 閒

 

 

Phiên âm :           Động Đình hồ[3]

Vân đào tuyết lãng tứ man man,

Chỉ trụ trung lưu ngật nhất san.

Hạc tích bất lai tùng tuế lão,

Phi hồn[4] do tại trúc ngân ban.

Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,

Nhật nguyệt bình phù hạo diểu gian.

Ngạn chỉ đinh lan vô hạn hứng,

Phiến tâm không tiển bạch âu nhàn.

Dịch thơ :          

 Hồ Động Đình   

                                          Phạm Đình Nhân

                                Dịch 2007

 

                     Sóng mây mưa tuyết bốn bề bay

Một ngọn non nhô mặt nước này

Tùng cũ vẫn nguyên, không vết hạc

Trúc Phi còn đó, lệ vơi đầy

Đất trời tan vỡ thời hoang vắng

Nhật nguyệt bồng bềnh giữa thức mây

Chen chúc nhành lan bên sóng nước

Nhàn như chim trắng rẽ trời mây.

                                                                               

 

Động Đình hồ

                               Ngọc Châu

                                Dịch 2013

 

Mây, mưa, sóng, tuyết bay bay

Hồ xanh chỉ  ngọn núi này nhô lên

Không vết hạc, tùng vẫn nguyên

Hồn xưa phi lệ lưu truyền trúc cây

Đất trời tan buổi chia tay

Bồng bềnh nhật  nguyệt vào mây mịt mờ

Cành lan chen chúc ven bờ

Rẽ mây chim trắng nhạt nhòa nhàn du.

 

 

59. TRƯỞNG AN THÀNH HOÀI CỔ

Nguyên tác :             

木  落  禾  刁  帝  業  移

李  家  收  得  版  圖  歸

山  圍  故  國  规  模  小

竹  暗  荒  城  草  木  非

古  寺  僧  鐘  敲  落  日

斷  溪  牛  笛  弄  斜  暉

英  雄  舊  事 

...

 

Ngọc Châu
Số lần đọc: 3770
Ngày đăng: 29.07.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chùm thơ tình Tam Đảo (Tày - Việt - Nga) - Triệu Lam Châu
Ngọc Châu giới thiệu phần 6 tập "108 Bài thơ Đường chọn dịch" - Ngọc Châu
Đọc thơ Võ Văn Luyến – Người câu bóng mình - Khaly Chàm
Phần 5 & 6 "108 bài thơ Đường chọn dịch" - Ngọc Châu
“108 Bài thơ Đường chọn dịch” (Tiếp phần 5) - Ngọc Châu
Patrick Lane: nếu tình cờ cái đẹp xuống trên tay - Nguyễn Đức Tùng
Dịch SZABÓ LÖRINC – Chợt đọc Chân Phương - Nguyễn Hồng Nhung
Một số truyện ngắn của A.S.Puskin - Ngọc Châu
Chùm thơ: viết ở Bắc Kinh - Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Đọc thơ vì sự thay đổi của thế giới - Nguyễn Hồng Nhung
Cùng một tác giả
Chết (truyện ngắn)
Tâm nguyện (truyện ngắn)
Hoàng Sa (truyện ngắn)
Người vợ bị bán (truyện ngắn)