Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
485
115.984.907
 
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 7]
Phạm Tấn Xuân Cao

 

 

 

 

CHƯƠNG II

TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN

 

 

2.TÍNH QUẢNG DIỄN VỀ KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN.

 

2.2HỆ HÌNH THA NGÃ TÍNH.

 

Hữu thể sơ nhiên liên thuộc tính vào bản thân thời trường đang luôn luôn níu giữ và cô lập chủ thể bên ngoài những giới hạn tha thể tính. Đến đây, những hạn độ hãm lực có ở bản thân chủ thể trước đây, đã bị xóa sổ để nhường lại cho chính những sự tự trị của tha thể tính. Hạn độ hãm lực đó đã được cáo chung và tồn vong của nó, đã thật sự khả hữu một cách sáng rõ là điều không thể chối cãi được nữa. Giờ đây, là công cuộc của tha thể tính, tha tính đã thực hiện một cuộc vật lộn đầy gây cấn với chính cái hãm lực ranh ma và đầy hắc ám đấy. Thực tế bây giờ, là sự định hướng trong lộ trình của mọi quy tắc gây dựng nên những cơ sở tồn sinh cho mọi cái diễn ra tiếp theo đó luôn được đảm bảo thực hiện trên chính cái được gọi là tha thể tính. Tha thể tính là đối tượng của mọi xung năng ứng động trên lộ trình tìm về/xác lập cho hữu thể sơ nhiên. Ở đó, tức quá trình ấy, hữu thể sơ nhiên biết mình là gì và luôn hạn định trong mình kết tập nên những thành phần nguyên ủy.

 

Sơ nhiên mang tính chất của căn tố đặc trưng nhất đối với hữu thể. Đặt để hữu thể chỉ là trong cách nhìn về chính nó có hưởng trọn căn tố đặc trưng sơ nhiên ấy. Nói hữu thể sơ nhiên, nghĩa là, nó liên thuộc tính chính bản thân nó vào bên trong bản thân của thời trường. Vì sao lại phải có sự liên thuộc ở đây, mà đối tượng lại không là gì khác đi ngoài chính bản thân thời trường? Vì miên tục của thời trường là định tố của miên tục thực tại nên dọi phóng vào miên tục thời trường thì theo nguyên tắc thẩm tra ta sẽ biết được ít nhiều về tính chất miên tục thực tại? Ở trong thời trường, mà đúng hơn là nhấn mạnh đến tính chất miên tục của chính nó, ta thấy rằng, trong đó luôn xảy ra quá trình mà ta gọi là níu giữa và cô lập chủ thể bên ngoài những giới hạn tha thể tính. Điều đó là dĩ nhiên cho một cách nhìn về nó là thông suốt. Những giới hạn tha thể tính là hệ quả của việc âm hưởng tha tính được cộng ứng một cách đầy tràn và rồi từ đó, trở đi, nó tiến hành lấp đầy mọi ngõ ngách để tìm đến sự xác lập nên đường biên của chính nó, mà nhắm về phía chủ thể, để tạo nên sức kháng cự trở lại mang một đối trọng cân bằng, trước hãm lực từ phía chủ thể tính. Do đó, níu giữ và cô lập chủ thể bên ngoài những giới hạn tha thể tính là một sự kiện luôn được mặc định như thế, bởi nó luôn được dẫn khởi đi từ chính bản thân hữu thể sơ nhiên (trạng thái ẩn tàng của các khả thể).

 

Vì vậy mà, tiềm phục của mọi khả thể không gian luôn ấn định trong sự phục sinh ngã tính. Khả thể không gian, tự nó là hướng đích cho những phân vùng, mà ở đó, luôn có sự tự trị của các đối tượng. Đối tượng, đó là những khả thể tính trong bước ấn định chính bằng lộ trình phục sinh ngã tính. Tức là, ở đó vẫn chứa đựng những chủ thể khả năng với thức năng tri giác của riêng mỗi khả thể, ở những không gian, luôn hạn định trong mình chất chứa đề hướng ngã tính về chính các đối tượng ấy. Tiềm phục ẩn chứa trong nó những thái cách định đoạt mọi sự biến diễn của khả thể. Chính khả thể là cơ cấu trung gian trên lộ trình ấn định sự phục sinh ngã tính. Điều đó luôn được nói đến qua chính hành động của quá trình tiềm phục, hoạt xung nên các khả thể chứng minh được, là như thế. Mọi chỉ dẫn chỉ như cách thức bổ túc/phụ trợ đối với chính mọi khả thể. Tính ấn định thường hằng trong sự phục sinh ngã tính là cách thức gom góp vào trong lộ trình tha ngã căn tố của một thành phần không thể thiếu chính hệ hình đó, là thành phần ngã tính. Nó, được và liên quan ngang bằng cho mọi công cuộc hướng định đến những khả thể, mà trước đó, trong chính cái được gọi là khả thể muốn nói đến khả thể không gian. Khả thể không gian sẽ được coi như hệ quả của sự cộng tồn từ mọi khả thể tương ứng với những không gian chứa đựng các khả năng cho công cuộc biểu sinh ngã tính.

 

Tiềm phục là trạng thái của những hoạt xung vào bên trong, để từ đó bung vỡ ra bên ngoài mọi khả tất tính cho phục sinh được kết lập mạnh mẽ. Mọi sự phục sinh ngã tính đều được định hình từ chính năng lực tiềm phục mọi khả thể không gian đó. Nhưng không hẳn mọi sự cố gắng nào từ phía tiềm phục của các khả thể cũng đều là khởi sinh nên (thành) những ngã tính, để từ đó, dẫn đi chủ thể tính định hình nên mọi gia lực cấu nạp đến sự bội sinh chủ thể, hiểu như đó là một mức độ hiện diện của hữu thể thì điều mà chúng ta loại trừ ra ở đây như một ngoại lệ là chính hệ quả có đem lại từ sự tiềm phục đó qua việc tạo nên những ngụy ngã. Ngụy ngã sẽ cũng như thể được biểu sinh từ ngụy ngã tính. Ngụy ngã tính là đối ngẫu cho những gì có sự bổ túc chính hệ quả từ công cuộc tiềm phục đó của khả thể. Định tố xuất phát từ ngụy ngã tính là hôn phối cho những giả thức năng hư cấu đối với chính điều đóng vai trò gia hạn vào các cách thức hiện diện chủ thể tính, đóng vai trò như một mãnh lực chịu sự chi phối từ chính quá trình giải thể phục sinh ngã tính, để kết tập nên đối ngã tính, không gì khác đi trong bước tương đương của diễn giải là ngụy ngã tính.

Do đó, mức tồn sinh tha ngã tính cũng chính bằng với hiệu lực truyền hưởng của những lượng tái cơ cấu khả năng sau mỗi biến cố, với vô số khả năng thứ cấp khác nhau. Đi từ biến cố, chính khi đó mới biết được hiệu lực truyền hưởng của những lượng tái cơ cấu xuất phát từ chính nó. Bằng với những khả năng xuất phát từ các biến cố, cho nên, mới phát sinh hiệu lực truyền hưởng phục vụ vào công cuộc xác lập mức tồn sinh của tha ngã tính. Khi tha ngã tính được định hình qua những biểu sinh, thì có và chỉ có thể, hành động định diễn nó mới được thông qua bằng với chính hiệu lực truyền hưởng xuất phát từ bản thân mỗi biến cố mà thôi. Khó có thể đi đến một sự phủ nhận cho chính điều gì, khi nó được nói/diễn giải ra như thế. Cũng giống như một khi truy phục vào bản thể thực tại, thì biến cố khoét sâu cố gắng của mình vào những đương lượng luôn được nung nấu qua những gì ngang bằng có sự điều động, để bù đắp vào thêm một chút gì đó nữa. Khi ấy, tha ngã tính sẽ hội thông một cách đầy đủ nhất cho việc xác lập nên hệ hình đáng được nói đến ở đây, để xác lập, đều có ý nghĩa nhất đối với chính nó – tức sức cố gắng của hành động khoét sâu từ bản thân của các biến cố vào thực tại.

Tha ngã tính chính xác là sự cộng tồn từ những khả năng thứ cấp khác nhau, xuất phát từ chính mỗi một biến cố mà thôi. Mức tồn sinh của nó bằng với hiệu lực truyền hưởng từ những khả năng, đi từ các biến cố. Tha ngã tính là đặc tính của những di mãn khả thể biểu xung trên chính tha tính cộng sinh với ngã tính để tạo nên phức tính tha ngã. Nhưng vì là biểu đạt của những xung lực luôn muốn gia tăng mức độ kéo dài sự hiện diện một căn tố nào đó, không phải được nói đến như những gì trơ/ì và luôn cho bởi cái nhìn luôn khi nào cũng thật sự linh động. Tha tính biến dịch, ngã tính tuần hoàn trong đương lượng mà chỉ khả năng thao túng nào đó, mới đưa nó đi đến một biên độ lệch khác đi (nhưng điều đó là hi hữu). Để dẫn xuất điều gì trở đi bằng với chính hiệu lực truyền hưởng từ các biến cố thì chỉ có thể đem tha tính cộng sinh vào ngã tính mà thôi, vì tha tính linh động hơn ngã tính cho nên công cuộc cộng sinh này sẽ có thể tạo được sự hội thông có ý nghĩa đối với tha tính cũng như ngã tính. Bằng với những tư cách đảm đương bất kể một dọi phóng nào đó về phía phân vùng hạn định khởi dẫn cho các đối tượng, vì thế/cho nên, mức độ tồn sinh của tha ngã tính luôn được đặt trong đối ứng với hiệu lực truyền hưởng đó. Tha ngã tính luôn chất chứa trong mình những lưu độ phóng tán ra, để trên ngoại giới kết tập nên đối tượng hiện hữu cho chính hữu thể, ở trong không gian, mang khả năng mà trong số đó không gian cổ điển cũng chỉ là một trường hợp của đương lượng các khả năng ấy mà thôi (nói như thế, tức là chủ thể không trơ trọi như nó vẫn nghĩ).

 

Để nó biết rằng, khi tôi thực hiện hành động phân mảnh chủ thể tôi thì đồng thời tôi cũng bắt gặp ở trong những không gian khả cấu tạo thành từ trạng thái phân mảnh đó, liên hợp với tính phức thể của bản thể tôi. Vì đặc tính khả cấu là khó có thể chối bỏ đối với thực tại, nên chủ thể tôi thực hiện hành động phân mảnh chính mình là ý muốn chủ thể tôi đang đặt mình vào trong những phân mảnh thành phần đó. Chủ thể tôi mà đem phân mảnh nó đi thì chính là nhắm đến tính đồng thời của khả cấu thực tại này. Và chủ thể tôi được phân mảnh, bởi tôi, có nghĩa là sao? Chính xác, khi đó, bản thân tôi đây thực hiện một giả thiết đặt mình thành những bản sao khác nhau, những bản sao khác nhau thì trong trường hợp như thế, cái tôi đây đang có để thực hiện sự phân mảnh, đồng thời cũng là một trong số các bản sao đó. Vì phân mảnh là tính chất không gì có thể thay thế được khi xây dựng nên hệ hình tha ngã tính, đó là cách duy nhất để thực hiện quá trình thoát xác nơi chủ thể và đứng ở điểm nhìn khác đi điểm nhìn cố hữu thường ngày, để đứng ngoài nhìn vào cái mà hằng ngày được gọi là trong so với chính cái nhìn hiện nay. Chính tôi thực hiện hành động phân mảnh đó là chính tôi phân mảnh chính chủ thể mình, khi đó, tức là khi quá trình phân mảnh kết thúc thì tôi đó sẽ không còn tồn tại nữa cho những gì mang tính thuần túy chân chất, nó là nó như xưa kia. Chủ thể tôi có bị phân mảnh đi thì hệ hình tha ngã tính mới khải lộ một cách đầy đủ và trọn vẹn được. Chủ thể không coi phân mảnh là niềm vui như chính những gì mà tha thể mong đơi về mình. Nhưng chủ thể không còn cách nào khác đi nữa, trước sự kiện tự mình phân mảnh mình đi, bởi những hoạt xung mang các động lực quá lớn phá đổ hàng rào hãm lực của mình. Cho nên, đối với chủ thể, việc bị phân mảnh cũng có thể coi như đó là một điều gì bất hạnh mà nó khó có thể chịu được sự khuất phục ấy, nhưng nó vẫn luôn nung nấu là sẽ dẫn xuất sự tồn hữu đó đi đến thường hằng vì bản tính của nó là thế. Cố chấp đến lạ kì! Tuy nhiên, khi phân mảnh chủ thể tôi xảy ra thì chính ngay lúc đó, ở không gian, sẽ cũng có/xuất hiện những khả cấu không gian tạo thành từ chính trạng thái phân mảnh liên hợp với tính phức thể của bản thể tôi. Tính phức thể của bản thể tôi là cộng tồn của những mức độ khả năng lưu dẫn đối với chính những chủ thể khác nhau. Vì bắt buộc hay yêu cầu đặt ra là luôn có một đối tượng, từ đó, nhìn ngắm vào thế giới, nhưng đến đây, tính chất thường kiến ấy lại đi đến hồi cáo chung những gì khác chúng, bởi tác động sâu xa từ tính phức thể của bản thể tôi.

Cho nên, giản lược tương thông trong mức độ phóng tán tha tính vào ngã tính như minh định cho cuộc vận động tuyến tính tràn đầy những khó khăn của sự kiện cố kết một giai hệ đồ sộ thẩm thấu bản nhiên, đang trong công cuộc bung vỡ. Phóng tán tha tính vào ngã tính để từ đó cấu nạp thành giai hệ đồ sộ, chứng tỏ hệ hình tha ngã tính được dẫn khởi nên không gì khác đi, cơ sở bắt nguồn từ chính chỗ đó. Nhưng phóng tán tha tính vào ngã tính còn minh định cho cuộc vận động tuyến tính của sự kiện nữa chứ không chỉ dừng lại ở mức độ đóng vai trò là nguồn gốc/cơ sở. Phóng tán được hỗ trợ bởi những thành phần thực sự chủ động trong công cuộc/quá trình đó. Phóng tán không đơn giản như chỉ đem cái này truyền dẫn hay phản ánh đến cái kia là hoàn thành quá trình. Phóng tán phải luôn hướng đến được hệ quả xán lạn nhất trong sự cố kết tha tính vào ngã tính, để từ đó hiển minh cho giai hệ đồ sộ như được nói đến. Mức độ phóng tán được hiểu như những nấc bậc của sự cấp cấu phóng tán diễn ra ở quá trình tha tính gia nhập vào ngã tính, để từ đó dẫn khởi đi và trở thành. Giản lược tương thông trong mức độ phóng tán đồng nghĩa với sự việc giảm trừ mọi yếu tố phụ cấp, đang luôn ngày nào cũng xuất hiện hay có mặt, ở trong quá trình phóng tán, mà dĩ nhiên, chính những yếu tố thứ cấp đó đã làm sai lệch đi bản nguyên/căn tố sơ khởi tồn tại trong chính quá trình phóng tán. Giản lược tương thông không thể như bất kì một điều gì quy tụ trong một giai tầng có lộ trình hạ cơ sở đảm bảo vững chắc, bởi các yếu tố thứ cấp, thì coi như luôn luôn bị chỉ trích. Cái có thể mang những gì mà quá trình phóng tán đó thực hiện chính là cách thức tương thông đặt định trên những gì mà công cuộc phóng tán chỉ rõ bằng các lộ trình quy hợp sáng giá nhất. Kết lập chỉ là mức độ cường xuất của giản lược tương thông ở vào giai đoạn chân nguyên cổ bản nhất. Khó đem những gì cụ thể đi hình dung về những điều trừu tượng thì cũng không dễ dàng một chút nào, khi cố gắng chứng minh giản lược tương thông trong mức độ phóng tán tha tính là điều được diễn giải hay hiệu đính một cách thật cặn kẽ, để như sự hiểu biết về chính nó được người ta cầu thị cho một điều gì đó hiển minh. Cái cốt lõi nhất không phải là toàn bộ, khi sự hòa theo để nhìn nhận trong một tổng thể cứ nháo lên làm đảo lộn mất những trật tự quý giá, đối với công cuộc dựng xây về bất kể điều gì chứa chấp trong mình. Khi mà mọi cái đều nên truy nguyên về những gì mang yếu tính thì cõ lẽ khả hữu sẽ tất hữu trong mọi túc lý có những khai căn từ cường sát các yếu hèn/vị kỷ đó.

 

Nên, vận động tuyến tính khó xác lập để bảo tồn nguyên vẹn mọi cách thức hiểu biết về chính bản nhiên, từ đó xây dựng nên một giai hệ đồ sộ về những khả năng được bao bọc trong mức độ ứng biến, trước mọi tình huống xảy ra bởi chính sự điều động bằng tha ngã tính. Vận động tuyến tính chính là cách, mà từ đó những gì đều được hiểu về trên lộ trình có hướng đích của chính mình. Tất nhiên, là ở đó sẽ luôn có những khơi gợi và mời mọc về phía mình các khả năng thuần thành, cho công cuộc xác lập của những chỉ điểm cô đặc sâu đậm mọi phương cách hoàn trộn, trong phong thái lột bỏ những chối cãi không cần thiết. Điều gì đối với nó là riêng chính nó không thôi cũng chưa thể là tính đến những điều cần phải được ghi khắc một cách sâu đậm nhiều hơn thế nữa. Trong phong thái ung dung đĩnh đạc của hai chữ tuyến tính ta thấy sự sắp xếp luôn tuân theo một trật tự có khi kinh điển. Từ đó, những câu thông hối thúc xé bỏ đi lằn ranh tương tác có xảy ra các khả năng phóng chiếu, luôn đòi hỏi ở mức độ tập kết mọi sự điều động khả thành, để từ đó, đưa đến các hệ quả luôn tìm cách liên minh lại với nhau, cũng chỉ nhằm giải quyết được vấn đề tính hướng đích đối với mọi sự dự tính có khai căn, ở/trên mọi cơ sở trong lộ trình hợp đạo. Mọi lưu xuất có quy chiếu nào cũng đồng thời là chính đáng mẫu mực đối với cái nói đến như những phân giải minh nhiên, thực sự được điều động trong chính mọi sự chú dẫn, để đi vào bên trong định lực gia công bền vững qua các/từ những thành phần, mà ở đó, luôn là hợp lưu của những ấn tượng dị trùng. Tuyến tính trong cách thức hội thông với phóng tán luôn nảy sinh ra tất thành những đối ngẫu phục sẵn. Mọi biên kiến chính định tính mỗi căn nguyên về tuyến tính, dĩ nhiên được đặt trong tuyến tính của vận động hay vận động được nhắc đến, nếu không như thế, tức sự nói đến có tuyến tính thì chính là vận động (mang tuyến tính). Bất kể những câu thúc nào phóng trợ vào sự phục sinh (nên), để tất cả đều đang luôn luôn trong tình trạng trở thành một cái gì đó. Cái trở thành không phải là đối tượng của những sự xem xét mạnh dạn và khó đoán nhất, nhưng chí ít, nó cũng là những gì mà sự hội thông nắm chặt cho mọi ngẫu biến, để từ đó, đi đến thái cách của những ý chí vực dậy uốn nắn theo chính điều gì, mà từ đó, nó giết chết sự tự trị dù chỉ là một mong mỏi như bao điều ước muốn nào đó mà thôi, chính những gì dẫn khởi từ chủ thể tính, cũng đều khó lòng tha thứ, như thế cũng đủ thấy được tính chất dã man của đạo lộ tuyến tính là như thế nào.

 

Để đả phá đạo lộ ấy chỉ còn cách thích ứng đến tích tụ ngã tính bên trong bản thể tôi khơi dòng một cách tự động cho sự gia bội thành phần ưu trương của bản thân mang những khuynh lực thoái bộ vào bên trong bản thể tôi. Ngã tính là dựng xây cho công cuộc kiến lập nên hệ hình tha ngã tính đóng vai trò một trong những nòng cốt/nguyên nhân căn bản. Để thấy tính chất trọn vẹn của lộ trình tha ngã trình hiện ra trước mắt thì đòi hỏi chúng ta phải có được cách làm đầy lên sự dựng xây ngã tính bên trong bản thể tôi thông qua tích lũy nó. Tích tụ ngã tính, hiểu là, cách thức ngã tính được bơm căng tràn và sự tích tụ có được chính là mức độ đương lượng từ những điều phối lấy ngã tính làm thành phần, đã luôn được gia bội hơn rất nhiều. Chính vì thế, mà ngã tính quy tụ lại, đồng thời, từ đó chúng khởi phát nên tương tranh với chính cơ cấu hóa cảm mọi phục sinh, để hiện diện hệ hình tha ngã tính một cách trọn vẹn và đầy đủ đến mức hoàn thiện nhất. Có tích tụ, khi đó mới gia bội trở thành như khi mà những gom góp mang lại hay hiện trình ra thành những xung kích, có lý cho nó trong việc quy phục nên mọi lộ trình ứng xử biến thái cách khác nhau. Đối với cung cách mà bản thể tôi tích tụ ngã tính bên trong mình chính là khi mà bản thể tôi sẽ từ đó khơi dòng tự động tính cho mọi sự gia bội thành phần ưu trương có trong cảm thức. Khi gia bội thành phần ưu trương đó, được thực hiện thì bản thân bản thể tôi sẽ mang những khuynh lực thoái bộ vào bên trong bản thể tôi, hiện diện như một mức độ kết tập có chủ ý những nguyên chủng tự tại tính. Khi trích xuất để khơi dẫn nên việc điều động đến sự gia bội mang lại hiệu quả như thế thì qua mọi cách thức gom góp nào về phía chính nó, nó cũng luôn mang vác vào mình những xung năng đối ứng có đắp đổi. Không chút do dự đối với chính những điều mà nó tiên liệu được là sẽ luôn có tác động đến với chúng như thế coi như ít đi trong muôn vàn dự phần thành tố khơi dẫn nên những khuynh lực thoái bộ vào chính các nguyên chủng tự tại. Nó coi như đó là mức độ kết tập đến mức bão hòa. Khi chính cách thức tiệm thoái có được ở những điều kiện mang nặng cách thức cơ giới lúc điều động trong công cuộc vạch đường cho khuynh lực thoái bộ đó tiệm cận đến. Mỗi một đáp ứng nào xuất phát từ phía cảm thức chế tác nên những bí nhiệm luôn được gán cho cái gọi là tiên thiên. Cái tiên thiên như luôn đồng bộ trong những trạng thái nguyên ủy tự tại và từ đó làm nên tính chất hàn lâm, một khi chính những ngụy trang nào đeo bám làm nhạt mờ đi tính chất hàn lâm đó thì cũng đồng nghĩa với việc ngã tính đã đi đến hồi kết thúc.

 

Để rồi, sự triền miên của cảm thức được khứ hồi đến đặc cách liên thông xuất phát từ phóng trợ có định hướng của giả năng hư cấu, được kết tập trong tổ hợp những xuất diễn hiện minh dự phần vào lược đồ thụ nhận phát động có chủ đích, nhằm đem đến hệ quả cáo chung chủ thể. Với định hướng về hư vô như một sự kiện bị cô lập bởi tha ngã tính. Triền miên đó, gắn chặt với những đợt dâng tràn của dự tưởng từ chính bản thân cảm thức. Đặc cách khứ hồi còn là yếu tố được chỉ định ngang bằng với chính cơ thoại dẫn khởi đến trình tự liên thông xuất phát từ sự phóng trợ có định hướng của giả năng hư cấu, thì kể như đó có điều gì mà cách xa hiện việt (hiện diện siêu việt) đến nửa lòng bàn tay? Mọi cái đều được hội thông lẫn nhau dựa trên tính phức hợp toàn thể mà tương đối tính đặt ở những ngã đường khác nhau chính là viễn tượng của sự thẩm định không gì khác đi cho bản thân cuộc hội thông ấy. Có như thể điều gì đó, mà mọi sự hội thông điều lấy nó làm nền tảng thì cũng đồng nguyên trong mức độ tái thiết có cấu nạp những gì chỉ dẫn đi hay mang tính là dẫn xuất cho khả năng hư cấu. Đặt để trong nó là tất cả những gì mà mỗi một triền miên của cảm thức được khứ hồi đến. Khả năng khứ hồi là toàn diện một cách triệt để mọi thao tác dựng sẵn những lộ trình áp chế những cách thức khởi thảo nên từ đó các nguyên tắc. Khó có thể xác định được trong mức độ tăng trưởng của giả năng hư cấu đi đến một mức phát triển rộng lớn đến chừng nào mới từ đó khai sinh nên nền móng của tinh thần thông dẫn đến những hiện việt đến như thế? Giả năng đó, nói là giả nhưng hư cấu luôn khi nào cũng coi như không xác thực đâu điều đáng để nói còn hơn là điều không đủ tự tin, vì sợ bị trách cứ nhưng chỉ những gì chúng ta dám nói, tức nhiên là ở đây, tính chất hư cấu đó không phải là thuần túy cố hữu của lộ trình hư cấu thành những điều được nêu lên trong trí tưởng tượng, mà mọi hư cấu đó sẽ là những tiềm năng của chính công cuộc liên thông ở các đối vật, khó có sự kết lập nên cho chính mọi khả năng tương tác có phục dựng những định đối ứng xuất, mà bất kể mỗi một dự tính nào cũng đều nhắm về chủ thể tính trong mức độ khai triển áp chế của tha ngã tính về phía nó, như gieo rắc/truyền hưởng sự gia bội cấu hóa mọi hiện việt trở nên khỏa lấp đi đến những khải huyền của sự dật ứng tha ngã. Để từ đó, kết lập nên trong lộ trình định hướng của giả năng hư cấu chính là sự cáo chung chủ thể.

 

Trong xuất hiện từ tổ hợp được kết lập trên chính định hướng của giả năng hư cấu, luôn xuất diễn nên sự hiện minh dự phần vào lược đồ thụ nhận có phát định những chủ đích nhằm đem đến hệ quả cáo chung chủ thể. Tính cáo chung đó, như một tất yếu trên tinh thần triển khai tha ngã tính. Cáo chung còn là cách thức được sắp đặt hẳn hoi, cho định vị tái phát bị gia cố lại vào những ngõ cụt của sự chặt chém liên minh, luôn khi nào cũng khó có được đồng thuận từ bất cứ một phương hướng nào đó.

 

 Chủ thể bị cáo chung hay xác định được khả năng cáo chung tại mình, thì chủ thể, vì thế khó lòng tránh khỏi được những phát động cố kết với mức cường hóa, bằng với đường hướng tồn vong chính bản thân nó. Không chỉ có chủ thể xác định được khả năng cáo chung của bản thân mình, mà ở sự cáo chung, nó đã định đoạt nên trong nhiều điều hàm hồ ở mức độ phát động cáo chung, chưa thật sự nói đến nơi đến chốn. Còn có được kết tập trong tổ hợp, chính do đó, mà chủ thể chưa nhận thức được hậu quả cáo chung tai hại đó sẽ xảy ra ít nhất là đối với mình trước tiên. Mọi cái khó có thể là điều mà chỉ khi bản thân nó nhận được một cú sốc đối với những gì trình hiện ra tự nó, đang sẽ đặt trong tầm ngắm của khả năng khó lòng xác định được những đương mức như thế, cho chính sự tồn vong đối tượng đang được nói đến đó. Mà chỉ có thể bản thân của bất kì một đối tượng nào luôn như thế và cũng sẽ mãi như vậy chăng? Nói như thế là hàm hồ, bằng cách kết tập trong tổ hợp những xuất diễn hiện minh dự phần vào lược đồ thu nhận phát động có chủ đích từ căn nguyên những xúc khởi đi đến việc kiến lập nên, không thể không là điều gì đó khác đi nữa, chính sự cáo chung chủ thể. Sự kết tập, do đó, cũng hết sức hiển nhiên đối với cái thứ mà nó coi trọng bằng với ánh mắt không lộ rõ nhưng luôn tràn đầy điều gì đó khó được hài lòng.  Có cho để đi đến những ngẫu tượng phục táng nên mọi phồn tạp xuất phát từ căn tố chính thực tại này mới ẵm trọn những gì mà khó có được một sự bổ sung nào coi như đó là hợp quần. Bởi bất kể điều gì, đó là mức độ thu nạp những căn tố quy chụp nên mỗi hệ cơ sở của bước bất biến, tìm đến đồng minh, nhằm thực hiện những hợp đồng cho chính cộng tồn đáp trả lại trước nguy cơ cáo chung đó, của chủ thể, thì mức độ phản ứng trước mọi vẻ linh hoạt khó lòng dựng xây đi được cho chính mức độ công năng đang luôn luôn áp chế trên đương mức hiệu dụng, mà chính ngay giờ đây, điều đó là quá mức chênh lệch so với phía cán cân của chủ thể? Vì thế, hệ quả không còn là hệ quả mà đã trở thành hậu quả thích đáng cho chính cái được nhìn dưới thường kiến coi như đó là chủ thể chính bản thân.

 

Và đi từ chính sự cáo chung của chủ thể đó, chính quá trình ấy, mà hệ quả của nó như định liệu được mức tồn vong của chủ thể là khó tránh khỏi. Cho nên, chính hệ quả ấy, đã dẫn đến một hệ lụy định hướng về hư vô như một sự kiện bị cô lập bởi tha ngã tính. Định hướng về hư vô đóng vai trò tương đương với chính sự cáo chung chủ thể, cho nên, từ đó trở đi sau này, tha ngã tính sẽ dựng xây nên bất cứ một điều gì mà nó muốn nhưng không phải bất kì nào đó cũng dễ dãi và phát loạn. Tha ngã tính sẽ không bao giờ làm vậy, bởi nó luôn có được những cảm tưởng về mức độ tồn sinh của nó trước công cuộc tồn vong chính chủ thể (tính).

 

Thì định hướng về hư vô như những gì mà phản phục trong hữu thể trở lại chính nó, nhưng không đón lấy thêm một điều gì ở ngoài đó nữa, vì chúng nó đã bế tắc thật sự (dĩ nhiên là ở trong trường hợp này). Bởi bế tắc, cho nên khó lòng thụ nạp vào trong mình những gì đó được cộng tồn thêm nữa, cũng một phần là do nó đầy ứ quá cỡ và cũng chính khi nó được mang lại mọi sự cộng hữu, do đó, xác lập để đi đến hư vô cho chính thái độ nhìn nhận về hữu thể là khó lòng tránh khỏi những gì đó khiên cưỡng. Tiềm phục là luôn được đặc ân đối với những gì bung vỡ trong tự tại, cho nên, mọi phát sinh rồi ắt sẽ luôn tồn đọng bất kì nào cũng đều khả hữu cho tính di mãn, để hướng đến từ phía hữu thể khởi đi. Về hư vô như chính hành động rũ bỏ đi cộng tồn đó hữu thể là hành động của kẻ coi thường và lấn loát đi những gì có sẵn, đem đến chung cuộc trong những căn tố diễn giải, mà mọi đổ xô nào về nó cho dù có là bão hòa hay đầy ứ trong chính bản thân nó, cũng không vì thế mà tước đoạt đi tính cách đón nhận những gì đó đáng được thụ hưởng như thế. Sự cộng tồn là thường hằng, cho nên, mọi khởi sinh nào cũng dật ứng thành mọi biến thái cách của những gì phóng túng nhất, do đó, sẽ đối chọi lại với chính định hướng về hư vô như lộ trình sai khớp đi phần nào đó. Chỉ có thể ở trong chừng mực, mà tại đó, có được bất kì và luôn như thế trong một số trường hợp hi hữu chứ không là phần lớn của hiện tượng mang tính tự tại thêu dệt nên. Đối với những gì mà căn nguyên đổ vỡ quăng quật vào bất kì một điều gì đó mơ hồ như chính nó đã mang mọi sự túc lý để bổ trợ cho định hướng về hư vô, chẳng khác gì hành động thiếu dẫn dắt hay quá trình tái lập nên những sự kiện, được sơ khởi hóa kết tập trong những đường hướng ảo mờ không rõ nét.

Đồng thời với nó sẽ diễn ra định hướng quy hồi của tụ độ ý chí, mà định hướng ấy, chính bằng sự thoái lui cảm thức không gian một khi tính khả cường của nó bị hạn định trong biến dịch tha ngã tính. Tức là, ý chí phóng vọt ra theo những tụ độ từ nó để trở lại trong chính tâm hệ tương đương với sự thoái lui của cảm thức, đang hướng về phía một không gian nào đó, bất kì. Tụ độ ý chí mà quy hồi thì chính xác cho sự tiên liệu có đáp ứng những gì, mà từ đó (tức cảm thức), đã thực hiện một cách có tính ý hướng về những căn cứ khai sinh cùng lúc những hệ hình, được dự định trong đương mức mà mọi tinh thần hướng đích đều trở nên đồng bộ và đảm bảo nguyên tắc. Tụ độ ý chí quy hồi thì cũng chính trên bước đà dọi phóng chính bằng sự thoái lui của cảm thức không gian, không gian mà ở đó cảm thức hướng đến để viễn trình nên những ngẫu phối thì chính thực không gian đó đã gieo rắc tác động phủ quyết/bài trừ hay ủng hộ/dựng xây cho một liên hệ có đáp ứng mong mỏi như nó đề xuất. Để hiểu chính xác những hành động thì tất nhiên nó cũng phải luôn luôn cần được bổ túc bằng các dự trù là điều kiện tối ưu cần thiết. Có thể nói, đối với chính bất kể những điều gì mà định hướng quy hồi xác định được thì cũng đồng nghĩa với sự thoái lui cảm thức không gian, khó lòng trau chuốt nên mức độ định tính cho những chỉ dẫn kiểm soát cả các độ lệch pha, đối với chính quá trình định hướng ấy. Thì khi mà quá trình định hướng xảy ra, bước quy hồi được thực hiện, sự thoái lui cảm thức không gian được giải phóng trên một điều coi như đó có sự đồng cảm đi thì chính đạo lộ quy hồi đó, mà điều kiện dựng xây trên chính tính khả cường của nó (tức cảm thức) luôn bị hạn định trong biến dịch tha ngã tính. Hạn định trong chính biến dịch vĩ đại nhất của huyền nhiệm bản thể thực tại. Bản thể thực tại đó, đầy rẫy những sự biến dịch tha ngã tính ấy, đầy rẫy đến mức kinh điển. Biến dịch tha ngã tính được hiểu rằng, tha tính và ngã tính luôn đồng phôi và khả năng kết lập lấy nhau luôn luôn có, bởi thế cho nên, nó đầy rẫy trong muôn màu sắc thái chính bản thể tự tại này. Do đó, bị hạn định trong biến dịch ấy thì khó lòng có thể bức phá ra được, nhưng điều đó cũng không có gì là lạ lắm khi đối tượng bị hạn định chính là sự kiện định hướng quy hồi của tụ độ ý chí. Rất may là cái có khả năng hiểu thấu tâm can của ai đó lại là người luôn đỡ đầu và có tấm lòng nhân nghĩa thì điều đó khó lòng chối bỏ cho được sự cau có đi ra từ bất kể một lời nhận xét nào về chính người đó được, có cho cũng không dám, vì (nếu là) như thế chẳng khác gì vô đạo cả.

 

Thôi thúc của những ước đoán luôn đóng vai trò chủ yếu trong tổng phần cơ cấu của đặc cách mong muốn đem lại cho cảm thức những dữ kiện thật sự sinh động. Nhằm kiến lập nên sự tựu thành một cách tiệm vị mà ở đó hỗn kết tiêu tán nội tại bị đang càng ngày càng biến thành trong cuộc xoay vần ngoạn mục. Trên những chiều hướng khó lòng nắm bắt được một cách khả biến nhất được định vị như những biểu tượng chỉ định cho mỗi yếu tính vận hành mang cơ trình tỉ đối, so với tính toàn chuyển của toàn bộ tâm hệ níu kéo vướng víu nhau. Trong trường hợp phân phản tâm lí diễn ra bên trong chủ thể đang tha hóa thành những biểu tượng tuyến tính biện minh cho mức độ phồn tạp của bản thể thực tại mong mỏi biến nhập vào tự tồn những xung lực khả dĩ của những đối số thật sự cô đọng nhất, mang đặc tính vi nhiễu khả giải tạm thời xung quanh cảnh tượng cô đọng của phản tính với tha tính có hiện tượng đó, mà ngay chính bản thân của những thôi thúc ấy, được biểu đạt dưới một luận lí chưa được khả giải cho lắm một khi thuyên giảm tất cả những khả năng tựu thành của cơ cấu chức năng những biểu tượng thôi thúc ước đoán ấy, đang cố tình che giấu đi những dữ kiện quan trọng nhất, như đó chính là hành động quảng diễn và quảng diễn hơn nữa tính tiềm tang cho đối thể đang cố vượt qua thử thách hỗn kết của tự tồn. Mà tự tồn đó, giờ đây, lại chính là một trong vô số những ý hướng chủ thể có được về tha ngã tính của mình, khi thật sự chủ thể tính chẳng bao giờ, để cho những dữ kiện bị kiến lập như thế được di mãn đi ra khỏi tổng phần chức năng chứa đựng trong bản thân chủ thể qua ước đoán.

Ước đoán là chỉ có thể đặt định sự đả phá/công kích vào trong chính mọi dự phần trong đặc cách mong muốn đem lại cho cảm thức những gì nó cần được như thế theo nguyên tắc mà thôi. Ước đoán được xây dựng một cách mạnh dạn trên chính nền tảng trực giác tính có trong cảm thức. Chính ở đó, nó huy động nên những phân tranh để hội thông không ngừng về phía cần có sự thiết đặt lại, cho dù là những yếu tố coi như nó là sơ khởi gì đi nữa. Cái có cảm tưởng thì không nhất thiết phải rõ ràng ra cho lắm, vì chỉ cần như nó đảm bảo được tính chất lưu động, để trình xuất nên những gì có ý nghĩa đối với lộ trình mà nó hướng đích đến thì cũng sẽ được ẵm trọn sự chính thống của những điều hướng mong muốn, luôn biến nhập để tựu thành bằng bất kể một phương cách gì mà mọi khuynh hướng có được tất cả sự chỉ dẫn theo con đường đó là nghiễm nhiên như chính điều đó coi như nó là tất yếu vậy.

Cho nên, hỗn kết tiêu tán nội tại bằng với chính sự định hình nên những dữ kiện thảo sẵn bên trong cảm thức, thông qua ước đoán mà biến thành một cuộc xoay vần ngoạn mục dựa trên vai trò chủ yếu được thôi thúc từ trong chính bản thân nó.

Hỗn kết tiêu tán nội tại lừ mức độ tập kết nên các chỉ dẫn, coi như đó là phù lưu định mức đối với mọi quan năng tồn tại chất chứa trong lòng những khởi dẫn để đi đến sự giảm thiểu nào đó, xuất phát từ chính điều kiện được đặt định ở nội vi của chính sự kết lập các thứ hỗn độn đang quay cuồng trong đó.

Bằng với chính sự định hình nên dữ kiện thì hỗn kết nghiễm nhiên đi vào công cuộc của những điều được sắp đặt ngang hàng với chính những dữ kiện từ đó định hình đi thành các đối thể. Và trong cung cách hay nói tóm lại trong cách thức hiểu rõ như các dữ kiện ấy luôn được thảo sẵn bên trong cảm thức. Thảo sẵn bên trong cảm thức nói như vậy có phần liên đới với chính điều được quy cho là mặc định bởi thực tại. Nó sánh đôi và luôn được coi như là gia tăng mức độ, để từ nó điều động nên phươn hướng chung từ mọi yếu tố ngẫu biến của trình tự phân lập, mà hội thông xuất phát trên chính cách ước đoán thì cũng luôn luôn đồng bộ trong ước đoán biến thành một cuộc xoay vần ngoạn mục. Sự gia cố nào đi chăng nữa thì cũng đềulà đơn vị của điểm tập kết có quy củ nhất, khi mà chính với mọi sự cố gắng cũng đều nhằm gia tăng thêm chính mức độ thông suốt, coi như đó là nó cầm cự với chính mọi sự giải thể những đối tượng ngoại lai, bằng với điểm tập quy mọi tồn sinh đáng lưu ý trong phương hướng thúc đẩy mọi việc đổ bộ vào và đi đến để tìm lại mà thôi, trong chính những điều mà ta mong mỏi như là chính nó có hạn định vào trong bản thân ta những gì coi như đó là tràn đầy ích lợi hơn rất nhiều, để mà khi chính những nghiễm nhiên sáng suốt đều được thông dẫn qua tính chất liên minh, luôn luôn được làm đầy tràn trên phương hướng dự phần chính bản thân nó vào trong cách thức đóng vai trò như chính phương tiện mà mọi kĩ thuật đều là phụ thuộc trong chính cách định mức của nó, riêng nó. Còn về phần thôi thúc trong chính đường hướng xoay vần ấy mà khi đó nó được đảm bảo, không gì có thể thay thế để đi đến điều kiện xác lập nhìn nhận về nó với định tính minh nhiên nhất. Có thể còn rất nhiều dữ kiện để hệ hình tha ngã tồn sinh tròn mọi sự bổ túc căn nguyên hiểu như chính lý do nó tồn tại ấy.

Chiều hướng của hỗn kết luôn thực sự là những chiều hướng khó lòng nắm bắt, bởi chúng được định vị như những biểu tượng chỉ định cho mỗi yếu tính vận hành, mang cơ trình tỉ đối so với tính toàn chuyển của toàn bộ tâm hệ đang lưu dẫn/đan cài vào nhau qua các thành phần chính bản thân nó.

Chiều hướng của hỗn kết hiểu như chính sự định vị ở mức độ tương tranh thực sự là những chiều hướng khó lòng nắm bắt. Chiều hướng khó lòng nắm bắt chính là chiều hướng lựa sự chi phối của khả năng và xác suất. Chiều hướng trong công cuộc dựng xây của nó, trên thành phần hỗn kết luôn biện minh cho chính những giá trị mà thực sự là nó được thu hồi trong chính sự ẩn quy quý giá. Điều đó là không nên minh bạch khi cách thức diễn giải vẫn trở thành một sở thích hay niềm đam mê huyễn hoặc đến mức độ không còn gì nữa để mà có thể hiểu được, như chính đích thực những điều gì cần tiên liệu về. Mà sự định vị hỗn kết cũng không khi nào khó được xem xét cho lắm, tất nhiên là khi đó nó luôn luôn bằng với chính cách thức dựng xây nên toàn bộ mọi phương tiện, để đạt đến trạng thái định đối hài hoà. Cũng có thể là khác xa so với mọi cách thức thông hiểu, từ bất kì một định hướng quy chụp nào đi nữa thì khó, mà nhập cuộc vào chính lộ trình của công cuộc tha ngã tính biến tướng mọi sự chỉ dẫn/điểm của mình trong khi vẫn luôn cố gắng đặt ra không đòi hỏi khó lòng ưng thuận được, ngay khi chính cái điều mà ta không mong đợi nó là nghịch lý. Khi chính quy cách hướng đến để ẵm trọn mọi phương thức nhằm chỉ định cho mỗi yếu tính vận hành mang cơ trình tỉ đối. Cơ trình tỉ đối là lộ trình cao cả mọi sự cô đọng đóng góp/tham gia vào chính điều hướng về lộ trình bản thể suy tư. Cái có được những kêu gọi đúng đắn thì luôn là cách tiếp cận có mong muốn đem lại đối với chính quyền tự định đoạt của riêng mình, khi xác định phương hướng giao lãnh nên bất kể một sức lực nào đó đóng góp vào công cuộc/việc xây dựng nên mọi định đối đặc cách đối với phụ tượng vào cũng là tương hỗ trong mức độ quy nhiên khăng khít. Do đó, khó để mà nêu cao trình tự thỏa mãn những sắp đặt không mông muốn có thêm một điều gì hay bất cứ sự tập kết nào, cũng đều luôn mong muốn và gia tăng không ngừng bằng với chính hành động dĩ hòa. Mọi biến thái cách luôn là bức phá nên hay biểu hiện đối với chính sự hiện trình về tính toàn chuyển của toàn bộ tâm hệ đang lưu dẫn/đan cài vào nhau qua các thành phần chính bản thân nó hay là cách thức xác lập nên điều kiện, cho chính tiến trình khơi động  về phía mọi ngộ nhận đều là không thích đáng đối với chính hệ quả của hệ hình kinh điển ấy.

Di mãn tính để tạo nên phức khả di trùng đối tượng, cũng từ đó mà, bức phát nên dị phức thể tính không gì khác đi trong cương mục của chính hệ hình tha ngã tính, minh định cho phồn tạp của bản thể thực tại luôn dựa trên hiện tượng phân phản tâm lý diễn ra bên trong chủ thể (coi như đó là nội vi).

Chính từ sự thông suốt hay biểu đạt để định hình đối với chính những nguyên tắc coi như nó là ngoạn mục nhất thì cũng chính từ đó mà lĩnh hội bằng tất cả các tính chất từ lộ trình kinh điển ấy, luôn đồng bộ và mang tính chất lưu dẫn đi đến những không phận rất riêng mỗi tính chất. Trước hết, di mãn tính thực hiện điều hướng như bước chỉ định cho cách nhìn nhận về phía chủ thể có được những điều kiện, không gì khác, làm nên điều kiện có ý nghĩa hơn. Đối với chính cách thức liên hợp về mọi thể tính đói với những cách thức mà nó dự phóng tới. Di mãn tính do vậy mà làm nên phức khả di trùng đối tượng, từ nó – tức di mãn tính tạo nên vô số mọi tổ hợp đích thân những thành phần lưu vong trên thực tại này, xét như là sự phân bố của chính các đối tượng ấy, đều đã được thẩm thâu trong màu sắc huyền nhiệm bản thể thực tại này. Có cho đó là điều hợp lý gì đi nữa thì trong phương hướng xây dựng để đi đến mọi cách tiếp cận, có thể coi như đó, nó hiện trình về phía khía cạnh chỉ điểm tương ưng thì trong vô số cách thức đặt định, khi liên tải khởi phát nên cũng đều được mặc định với chính tính chất gia tăng không ngừng nghỉ đối với mọi hạn định, trong chính cách thức hay từng bước phát huy để triệt tiêu mọi điểm chết hay cũng là cái ngay ở đó, mà thật sự không an toàn cho lắm. Để khi biết được rồi và thậm chí thâu tóm luôn cả cách thức biến điệu mọi dải tần nhằm phụ thuộc hay không phụ thuộc thì cũng coi như là khó nói hay tính đến bất kể một dự kiện có liên quan nào đến với những điều đã được tiên liệu từ trước, coi như đó là sự hối hả đũng nghĩa không chối bỏ cho được mọi sự phù hợp có tương trợ đối với định mức khả cường không khi nào liên minh hay chỉ điểm những sâu xé, trong tương quan mọi điều tiếp cận mang tính hạn định mà ở chỗ đó nó đã bứt phát nên dị phức thể tính như chính những điều mong muốn kết lập đó, đã được bản thể thực tại tự nó khoác lấy cho cái danh hiệu phồn tạp, để rồi mọi hiện tượng diễn ra bên trong tức nội vi mà coi như đó là chính sự phân phản của những hồi cố về phía lưu vong hay hạn định đến mức cho di chứng cơ hữu riêng về phần mình nhìn nhận mà được coi là như thế.

Một khi phân phản diễn ra thì kế tiếp sau đó sẽ là cảnh tượng của những xung lực mà trong phản tỉnh có được sự đối kháng theo cung cách, mà một khi thuyên giảm tất cả các thứ đó thì cũng đều chứa đựng những khả năng hướng đến biểu tượng có thôi thúc từ những ước đoán đi từ chính hệ quả của sự đối kháng vừa nêu.

Phân phản là bình diện xét trên khía cạnh tâm lý, mà ở đó sự kiện được hiểu như chính lộ trình tìm về mức định đối của chính nó. Tức là trong khi xác lập ra được mọi bổ túc, để đi đến trạng thái cân bằng mọi tiềm sinh thì luôn là phương hướng, coi như đó là dữ kiện để mọi khái lược có từ nó coi như đầy tràn mọi công cuộc chống phá thêm gì nữa vì như thế là hủy báng. Hành động mang sự kiện cho chính tác động như vậy, hiểu như chính sự kiện phân phản tâm lý diễn ra bên trong chủ thể. Ở đây, chủ thể cổ điển đã thực sự phản tỉnh mà tìm đến mọi ngóc ngách của công cuộc phác họa ra hệ hình tha ngã tính, để sau đó như thực hiện một hội nghị nhằm giải quyết đối với mọi lợi ích chính đáng mà mỗi phía cần có. Như không thể nghĩ cho rạch ròi được với tính chất mẫn cảm như vậy, thì phân phản đó nó cũng luôn đặt ra một yêu cầu mang tính thẩm định không thể không sáng suốt hơn nữa, mà không chỉ thẩm định như thế coi như đó là hợp lý đâu, rồi còn nữa chính những cảnh tượng của xung lực trong phản tỉnh. Đối kháng cũng thực sự không phải là lý do chính đáng, mà phân phản tâm lý đi đến hệ quả mang tính chủ đạo như vậy, mà chính lúc cởi bỏ mọi định vị trong công cuộc giao tranh với những các cơ cấu đồng phôi luôn di mãn thành nên thuyên giảm tất cả các thứ đó thì cũng đều chứa đựng những khả năng. Khả năng trong phân phản xây dựng nên yếu tính/chỉ cốt lõi nhất của mọi căn tố có đặt định đến bất kì một chiều hướng liên thuộc nào, về phía quy định mọi thông hành để cúi chào cho cái được gọi là lễ độ và phép tắc không hơn không kém, khi không muốn bị gán cho cái tên là khiếm nhã. Mọi căn tố gieo rắc vào công cuộc dưng xậy nên quá trình phân phản thì cũng luôn luôn được cấu nạp, vào những khả năng hướng đến biểu tượng có thôi thúc từ ước đoán chính hệ quả, của mọi căn tố thông dẫn vào chính bản chất của cái được gọi là phân phản. Nó không khác gì sự tách rời tức thời những quần hợp trong chính bản thân tôi để định hình trong ấy, sự điều tiết mà nó gán cho cái tên gọi là chính quy không lẫn lộn vào đâu được.

Và chính những đối tượng được tựu thành sau cuộc vật lộn đối kháng ấy, sẽ dẫn khởi đi như chính cái điều, coi như đó là quảng diễn (cũng có thể là quảng diễn không cùng) cho sự thóa mạ tính chất hợp lưu có ở trong đối tượng chỉ điểm, như nó là quan trọng nhất thì chính nó sẽ phải vượt qua thử thách hỗn kết của tự tồn.

Tính hợp lưu luôn đổ bộ để làm đầy lên hơn nữa đối với chính sự kết hợp/lập nên khi dẫn đi từ chính hệ hình tha ngã tính. Có thể nói, sau cuộc vật lộn đối kháng mà dinh thự những đối tượng được cơ ứng vào một khởi nguyên luôn lồng/cài vào nhau những phụ tố, cho cơ sở để đáp trả cho chính tính cách quảng diễn ở hệ hình tha ngã tính ấy. Khi không thể giải thích một cách rõ ràng vì xâm nhập luôn có hạn chế, thì quảng diễn cho hệ hình ấy luôn chịu đựng sự thóa mạ từ các hiểu lầm không đáng có. Hợp lưu, mà từ đó, định hình chính kết tập ở trong các đối tượng chỉ điểm như nó là quan trọng nhất. Cũng như khi mà quảng diễn được điều động trên một đồng phôi chỉ điểm. Sẽ là dễ dãi đi khi hiểu về hệ hình tha ngã tính như tính chất bổ túc đối với những gì đã mặc định. Như khi mà sự thóa mạ ấy, biểu thị một khía cạnh trở đi ở đó như viện dẫn cho chính sự thóa mạn ấy, nếu nó trực tiếp phê phán tính chất hợp lưu vì nó đi không chỗ và chỉ trích đúng chiều hướng của hợp lưu trong đối tượng. Chỉ điểm, bởi vì thế, mà ẵm trọn được những lưu độ giao cấu vào ở cách thức mà vật lộn đối kháng gieo rắc thành công cuộc. Khó có thể nói nên điều gì, khi sự thóa mạ không biết bằng cách nào đó đã nhân nhanh sức ảnh hưởng chính nó.

Để rồi, từ đó tính chất hợp lưu sẽ phải thông qua sự thóa mạ như chính điều được gọi là thử thách hỗn kết của tự tồn. Hợp lưu sẽ thực hiện công cuộc phóng vượt ra khỏi sự bó buộc của hỗn kết tự tồn, bằng cách chỉ điểm cho chính nó chắc chắn phải đi qua trên chính hỗn kết ấy. Thử thách hỗn kết của tự tồn do đó mà được gieo rắc ở những phân bổ ngoạn mục. Chỉ điểm, do đó, truyền hưởng cho đường hướng để hợp lưu (không phải coi như nó được gán với cái tên bát nháo trong chính tính chất của nó) tràn qua mạnh mẽ/thắng vượt tất cả trong sự biện minh cho hệ hình tha ngã tính. Thóa mạ chẳng qua cũng chỉ là hành động của kẻ ngu dốt dùng đầu óc xuẩn ngốc của mình để đi dè bỉu những điều chính đáng.

Với tự tồn ấy, mà khi chính đối tượng tự coi nó là quan trọng hơn hết cả sẽ cố gắng dồn hết mọi sức lực có trong nó, giờ này,để trong một hy vọng lụi tàn, tìm kiếm đến một niềm tin miên man. Khi thật sự tha ngã tính đã di mãn trong toàn bộ trong mọi ngóc ngách của tâm hệ để định hình nên chính hệ hình của riêng nó. Viên mãn thật sự.

 

Cho nên, mức độ hỗ tương đối với mỗi một biến nhập là thực sự hữu ích cho công cuộc chuyển hóa thành bất cứ một giả thiết nào xoay quanh minh định tính. Để rồi, mang vác trong mình tính ù lì cảm quan không mong muốn biện minh cho luân lí theo mức độ kiến giải phù hợp với thực tế. Cho nên, tính hoài nghi về sự tồn tại của tha ngã tính bên trong bản chất của chủ thể là không thể không có khả năng xảy ra được. Bằng những thôi thúc giao hoán của quan hệ lưu chuyển những dòng chiều hướng dự định sẽ vạch ra được một phối tận, cho ảnh tượng đang từng ngày gieo rắc vào bên trong thẳm sâu tâm hệ cố hữu của cá nhân chủ thể. Mà với cái bản ngã đó, luôn định vị cho được tính trực đối của mính chính là một tổ hợp của những tha ngã có mức độ tự tồn thấu triệt nhất trơn tuột/giao điệp lại với nhau. Bởi chủ thể trong quan hệ tương ưng ngang bằng với tha thể có ước đoán mang hiệu lực là một hiện trạng kiện toàn nhất. Bởi chung cuộc cho sự suy luận hữu lý để những điều minh giải có sẵn trong tâm hệ sẽ đảm đương một cách, mà trong chừng mực nào đó được coi là có đủ khả năng len lỏi chín chắn thật sự, đem mang những ứng biến kết luyện bị đánh mất vào vô tận. Để rồi, đọng lại là một tự tồn của những đối thể đang tựu thành, mà chính những đối thể đó đang rất khó để có thể đưa ra một lời hòa giải thật sự công tư. Với chính cố thể mang trực tính phiếm định sở hữu thường hằng tính của bản thể trong mức độ thấu triệt tất cả những sự chỉ dẫn cho bất cứ một đạo lộ nào muốn thực hiện cuộc viễn tượng xâm nhập vào bên trong chính cái tôi tự tồn này, là hoàn toàn thật sự khó nắm bắt được phần thắng.

 

Minh định hóa như kiểm tỏa cho mọi thứ mà mức độ hỗ tương luôn hiện diện trong mỗi một biến nhập tổng phần tha ngã tính được xem xét, nhìn nhận và đánh giá dưới một sự hữu ích cho công cuộc chuyển hóa thành bất cứ một giả thiết nào. Để rồi từ đó trong mọi biến dịch luôn mang tính minh định ở trong nó. Minh định là sự hướng dẫn có quy củ dựa trên nền tảng chính mặc định của thực tại hướng xuất theo cái mang cung cách mà nó gọi là biến nhập trong hệ hình tha ngã tính. Ù lì cảm quan là bức tường cản trở trong đạo lộ đi đến công cuộc chuyển hóa thành bất cứ một giả thiết nào, xung quanh tính minh định hóa, đồng thời chứng thực cho luận lý theo mức độ kiến giải, một kiến giải dựa trên mức độ hỗ tương đối với mỗi một biến nhập là thực sự hữu ích. Để rồi, hoài nghi về sự tồn tại của tha ngã tính chứng thực đem đi cứ lý cho những thôi thúc giao hoán của quan hệ lưu chuyển với những phối tận đến ảnh tượng, đang từng ngày giao cấu vào bên trong thẳm sâu tâm hệ cố hữu của cá nhân chủ thể. Và hiện trạng kiện toàn nhất là hiện trạng mà chính bản ngã trong chủ thể cổ điển đặt định ngang hàng với chính tổ hợp của những tha ngã, có mức độ tự tồn thấu triệt, khi chính hệ hình tha ngã tính đó bứt phá ra/nên những lưu độ miên man trên dòng chảy, rồi cùng với đó, chúng giao điệp lại với nhau bởi chủ thể trong quan hệ tương ưng. Với điều minh giải có sẵn trong tâm hệ sẽ đảm đương một cách, mà đủ mọi mức độ len lỏi, chắc chắn đem mang những ứng biến kết luyện bị đánh mất vào vô tận. Do vậy, đi từ chính những điều kết luận đó, đã đưa đến sự lưu đọng lại ở những đối thể, đang tựu thành xem xét chúng dưới dạng của cái gọi như những tự tồn. Và với chính những cố thể mang trực tính phiếm định sở hữu thường hằng bản thể, vỡ ra, để đưa về các đạo lộ thích hợp khi cuộc viễn tượng xâm nhập vào bên trong chính cái tôi tự tồn là hoàn toàn nan giải, khi nhìn nhận nó (tức tôi tự tồn ấy) như chính khía cạnh của bản hữu coi như đó là ở mọi điểm rọi của tính hữu.

Và thấm nhập là hành động phóng tán hoàn trộn được ghi khắc vào phục sinh tha ngã tính của chủ thể. Thấm nhập chính là mức độ thẩm thấu hữu thể cao nhất. Thẩm thấu hữu thể là căn tố cho mọi hành động dự phóng vào chính hữu thể hiện diện như chính bản thể, ở trường hợp cổ điển là chủ thể. Thẩm thấu là phương pháp chấn hưng tha ngã tính. Trong hành động phóng tán được hoàn trộn rồi ghi khắc vào phục sinh tha ngã tính chính là sự kiện được xác lập một cách có ý nghĩa. Yếu tố thụ nạp vào bên trong mình những ảnh hưởng từ tha ngã tính, đem câu phối vào bên trong, tức chủ thể, sẽ thể hiện rõ nét sức căng ảnh hưởng của tha ngã tính, khó có thể bác bỏ đi được. Trong mức độ chủ trương gán ghép mọi lai căng tạp nhạp dự phần đến hành động phóng tán ấy, mà mọi sự lai ghép đó, được điều động bằng những cung cách khó có thể thấy nhiều điều coi như đó là đầy đủ. Thấm nhập phỏng tác vào bên trong chính bằng phóng tán hoàn trộn. Tính chất hoàn trộn đó là sự khai phóng để ghi khắc rồi phục sinh tha ngã tính nơi chủ thể. Hoàn trộn xác lập những căn tố chỉ dẫn mọi sự linh động đem quy hướng vào bên trong chính xác những sự thể hiện được tiên liệu từ mọi biến thái cách biến dịch tha ngã tính. Phục sinh tha ngã tính nơi chủ thể mới gia bội cho hành động phóng tán hoàn trộn đó được đẩy đến một hệ quả tích cực nhất. Phục sinh đó, chứa đựng ý nghĩa của riêng nó, mà không chỉ là hướng ngoại trong phóng xuất, khi đó, tán trợ mọi ứng xuất rung chuyển mọi biến phần dật ứng. Từ đó, vứt bỏ hết mọi sự ràng buộc mà coi như nó ràng buộc chính những điều đáng được ra phải là như thế. Không căn túc nào mà bổ trợ có được sự sáng giá hơn là phục sinh tha ngã tính vì nó luôn bị những khía cạnh hắc ám trong chủ thể công phá bằng sức đả kích không khỏi ngừng lại khi chính nó, bất kể lúc nào cũng bị như thế. Và đó như là cung cách để hệ hình tha ngã tính có/chứa đựng/vun đắp cho mình có được những cách thức thể hiện đầy màu sắc. Không những thế, nó còn là cái cách để hệ hình đó thực hiện cho ra những đồng vị cấu thành bất kì mỗi một khả thể nào đó. Nõ sẽ tự trị chính nó khi mọi sự đặt để vào trong nó cũng khó có được một tái thiết hay lắp đặt gì thêm. Nó được coi như đó là một thấm nhập đến không ngừng trạng thái thăng hoa tột độ trong mọi biến thái mong muốn cho chính nó và chỉ như thế, không thể không khi nào khác hơn điều đó nữa, chính là sự kiện phục sinh tha ngã tính nơi chủ thể từ đó mới làm nên mọi cấu hình, để mỗi một sự kiện gia bội cho hành động phóng tán đó đến vô hạn trong sự thoái bộ ý lực.

Sự thoái bộ ý lực đương đầu với quá trình gia tăng hành động thụ nạp cảm quan. Để duy trì vẻ hằng cửu của chủ thể tính bên ngoài những xác suất luôn có khả năng xảy ra cho mọi giới hạn những biến cố phung xuất chiết khấu nên tính mờ hóa đi của vẻ hằng cửu đó nơi chủ thể. Như mang vác sự tương ưng tức thời ở quá trình cảm nghiệm tiền minh, hoạt xung bên trong lý tính của chủ thể tôi, không những ghi khắc được sự thừa nhận rằng, điều đó là khả kiến, mà còn là sự cáo chung của hành động mang tính khử trừ yếu tính tụ độ nơi ý chí mang vác các cuồng lưu phác thảo vào viễn tượng tương tục hiện tại của không gian cổ điển. Từ đó, ban phát thành những đa thể bằng với định mức minh tàng sơ thủy ý hướng tính cảm thức phân vùng bên trong chủ thể.

Khởi thảo của những sự kiện chứa đựng dữ liệu hằng hữu đằng sau mọi biến cố lưu lạc trong trường tâm hệ của chủ thể thì chưa được thực hiện như một tiến trình phóng xuất ra bên ngoài, để đón lấy những mảnh vỡ ý hướng tính tạo nên. Do đó, sẽ mang lấy dấu hiệu của những phân vùng ướt át từ sự phân lãnh lưu niệm nơi vệt bóng bên dưới ảo tưởng chính chủ thể, đang định hình chưa toàn bộ trong nội giới mang tính quy hồi vào bên trong. Với những phân vùng còn chưa được ước định một cách kĩ lưỡng cho chủ thể, được tư suy một cách rành mạch và chắc chắn, bên cạnh những dấu hiệu sơ khai của sự phóng thể đó, dẫu vẫn biết nó vẫn đang còn chứa đựng nhiều điều làm nên sự ưu việt cho toàn bộ khả năng quy chụp nơi tha thể tính hướng xuất ra bên ngoài. Trong giới hạn biệt lập của tối ưu toàn bộ tất cả những định liệu có được là các bước đạo hàm ảnh tượng bên trong bản thân cảm thức, nơi chủ thể và cộng với những hiện tượng phân phản tâm lí bên trong mỗi hệ hình của riêng mỗi một cái tôi, mang sự ước định bị tước đoạt, dẫu vẫn chưa một lần hiện tượng đó được giải trình để hiện hữu hóa ra thật rõ ràng cho cái nhìn của hữu thể được sáng tỏ. Mà chỉ có trong trường hợp hiện tượng phân phản đó đã cướp đi tính ưu việt của lâu đài đồ sộ nơi bản chất bên trong chủ thể, mang những biến đổi cục bộ làm nên sự đoán định về các khả năng phát động ra hành vi dựng hình thành những ngẫu phối tha thể tính. Đặt ở vị trí bên ngoài bản thân chủ thể mà mỗi một cá nhân khi đối diện trước các hiện tượng như vậy, thì khó đảm bảo thật chắc chắn được rằng, trong một phương số đối với những hiện tượng tiểu li được liên kết trong mức định giá chung của hiện tượng phân phản nhân cách. Được nói tóm lược lại trong sự tự trình bên trong tâm hệ đang ngót ngét những tối ưu sơ đẳng nhất mang tính khả nhiên làm nên các diễn biến cực kì phức tạp, mỗi khi đứng đối diện với những khả năng hiếm có xảy ra ở trong trường hợp tâm lí mỗi cá nhân xảy ra hiện tượng phân phản nhân cách. Với sự bố trí của những li độ thật sự chưa được chỉn chu trong nội hàm của những dải tần thông suốt, đến mức việc diễn đạt về các khu hệ bao chứa nên mỗi thành phần của hiện tượng phân phản ở tâm lí người, lại hoàn toàn mang một nguyên nhân tác động chung xuất phát từ việc thụ nạp vào nội giới những ước định ngang bằng với việc phóng nạp ra ngoại giới. Chấm định minh nhiên cho sự cường hóa của bất kì mỗi cung bậc thật thà ở miên tục đem giao phó tác thành vào bên trong nội bộ của thời trường những xung lực kéo xô về phía được ấn kí vào trong miên tục, mà một khi sự ấn kí vào miên tục đó, được hình thành/định hình mang tính chuẩn mực cho mọi sự phỏng cố làm nên mọi ước đoán thể hình mang lại, thì cũng chính những sự kiện làm nên tính chấp nhận trình hiện của một miên tục bị nhuốm màu sắc của không trương cảm thức cá nhân chủ thể đoán định nhiều điều lạ lẫm. Khi chính sự ngẫu phối phát xuất từ trung tâm của toàn bộ hệ hình tác chuyển nên lược đồ được gắn với sự tương ưng trong trường độ thường hằng của miên tục, mà ở đó, khó có sự xuất hiện rõ ràng cho bản thân chủ thể tính một sự định hình rốt ráo có chuẩn mực. Như mọi hệ quả xuất phát từ chính bản thân tác động từ hiện tượng phân phản tâm lí có được bên trong sự bào mòn phẩm tính của những lưu độ phồn tạp bên trong không trương làm thành cái miên trường của chủ thể/thực tại. Bởi, những không gian khác nhau bao chứa bản thân chủ thể theo khả năng hiện thời của mọi sự trình diện đều thiết thực có liên quan đến miên tục thường hằng tính tự tồn chính thực tại.

Tóm lại, dự phần tha ngã tính chính bằng gia bội hóa cho mức độ mập mờ của thực tại. Tha ngã tính là cách thức đặt ra để xác lập nên tính chất hữu thể, trong một chừng mực nào đó, coi như là đặt để một hướng tiếp cận có khả năng theo một đường lối khác đi so với những gì đã từng có về nó (tức hữu thể). Tha ngã tính khái quát nên lộ trình của hữu thể lưu xuất nên thành những hệ hình riêng biệt. Ở mỗi chủ điểm đó của lộ trình tha ngã tính nhìn nhận về bản thân hữu thể, được trình bày thông qua những gì nó hạn định trong các vấn đề, mà ở đó, khó tổng kết nên chính mỗi phân khu mang sức căng của yêu cầu sáng rõ. Trong cung cách biểu hiện của tha ngã tính, nó cũng là một hệ hình, đặt ra hay xây dựng nên, nhằm mục đích đặt vào để đưa ra một đường hướng cho điều gì đó khai thị nên chính bản hữu. Tồn hữu không được quy xét như chính điều gì đó thật sự rành mạch, cho nên phương pháp dự phóng cũng luôn là như thế để nhìn nhận về nó, chứ không nên đứng trên một lập trường nào đó để thực hiện công cuộc nhìn nhận. Tồn hữu trong truyền thống luôn được nhìn nhận như điều gì thường hằng nhưng chính sự hữu lại là một cách thức khai phóng khi nhìn nhận về nó được nói đến để dẫn khởi nên điều gì đó là khác biệt. Tha ngã tính đặt nên tính hữu cho mọi phân giải, để từ đó hiện minh nên trên chính đạo lộ đồng nguyên, mà từ đó đặt định cho một khuynh hướng có chất chứa tràn trề những chút gì bản hữu, để hiện việt như nó đã đa mang vào mình là chính nó. Tính hữu đem lại các điều phối chính quy hệ quả từ tha ngã tính. Đi từ dự phần tha ngã tính, ở đây, trên đạo lộ để thiết lập nên hệ hình tha ngã ấy, mới kết tập nên chính sự kiện gia bội hóa đi đến một thiên hựu cho điều gì đó toại nguyện trong cách thức đặt định bản hữu. Chính định tính của bản hữu là hiện việt cho mọi đối thoại giữa tồn hữu và sự hữu nhưng hậu duệ của định tính bản hữu đó luôn luôn được hôn phối cho tính hữu. Thực tại là tràn đầy của những tính hữu, từ đó sức kiến lập nên để dựng xây đối với lộ trình thiết định nên tha ngã tính chính là cách thức vun vén mọi phức hợp để làm cho bản hữu hiện ra dưới và chỉ dưới rất riêng thuộc dạng tính hữu. Sự hữu và kể cả tồn hữu không là cách thức nhưng nếu nói trong mỗi thời kì thì cũng chỉ là hy vọng giải quyết trong một đường hướng nào đó, để dẫn đi và xác lập nên quá trình tìm về với chính bản hữu được hiểu như chính hữu thể mà thôi. Nhưng không vì thế mà không căn cứ vào nó để hiểu được các cách thức nhìn nhận về thực tại này trong những giới hạn mà nó cho phép. Tuy nhiên, để hiểu được trong một khía cạnh khác đi, mà liên thuộc tính để đi đến tính hữu khai phóng cho bản hữu hiện diện thành hữu thể, đều được coi như đó là công cuộc dự phần của tha ngã tính (vào), từ đó đi đến sự kiện hội thông với mức độ mập mờ của thực tại.

 

Phạm Tấn Xuân Cao
Số lần đọc: 1743
Ngày đăng: 27.03.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
“Câu chuyện vô hình” – Sự trỗi dậy của Con Người cá nhân - Hà Thủy Nguyên
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 6] - Phạm Tấn Xuân Cao
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 5] - Phạm Tấn Xuân Cao
Linh hồn là gì? - Cư sĩ Minh Đạt
Tại sao Tân Hình Thức? - Nguyễn Đức Tùng
Mê ở Ta Bà, sực nhớ quê hương là Cực Lạc - Hồ Dụy
Ý thiền trong thơ Nguyễn Trãi - Tâm Nhiên
Sơ thảo tư duy của Heidegger về bản chất tự do của con người - Võ Công Liêm
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 4] - Phạm Tấn Xuân Cao
Giữa triết học và hư cấu - Võ Công Liêm