Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
515
115.989.763
 
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 5]
Phạm Tấn Xuân Cao

 

 

 

 

CHƯƠNG II

TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN

 

 

1.TỔNG THỂ QUY HỒI.

 

1.2MẶC ĐỊNH CỦA THỰC TẠI.

 

Mặc định của thực tại mang tính chất phồn tạp hiển nhiên như chính bản thân sự mặc định đó được dự liệu trong toàn bộ sơ đồ hay bố cục chính bản thân mỗi sự kiện khoác vào mình.

Mặc định của thực tại là điều mà thực tại với tư cách điềm nhiên như nó có trong mọi diễn biến của chính nó. Mặc định đó, luôn được điều phối bởi chính khả năng của nó có trên những điều mà nó luôn phân lãnh đối với chính thực tại. Mặc dù, điểm quy kết vi phạm về mặc định của thực tại đi từ chính điểm quy kết đó, nếu ta thực hiện một độ lùi ra xa, ta sẽ thấy được sự mặc định ấy bao hàm cả những vi phạm về chính mọi biểu hiện của nó.

Mặc định của thực tại mang tính chất phồn tạp hiển nhiên là một tất yếu. Tính chất đó, được hiểu rằng, ở trong chính thực tại mọi biên kiến của vô cùng sự vật/sự việc/sự kiện và hiện tượng đều được phân lãnh nên trong những chồng chéo mang tính cấu nạp vào nhau. Chập chồng ấy, của mọi thứ đều là điều kiện mà phồn tạp được hiểu về như bản chất của sự quy hồi làm nên chính mặc định của thực tại. Điều được cho là có ý nghĩa đối với tính mặc định ấy cũng là điều mà mọi bổ khuyết nên nó trở thành bất khả. Tính chất phồn tạp của mặc định thực tại luôn được phóng xuất điều gì đó hiển nhiên, như những biểu hiện cho hệ hình chính nó được sáng tỏ về với nó, còn bởi nó hay không điều này, còn tùy thuộc vào sự cảm biết của chính chủ thể được đặt trong tình huống đó. Tính chất ấy được nói đến hay biểu hiện qua điều mà bất kể những gì diễn ra xung quanh điều gì đó mang tính chất đang là. Điều mà được quy cho là phồn tạp thì chính bản chất của thực tại trở nên đầy ứ những lưu động, cừu xuất, phân lập nên vô cùng chập chồng có thể coi như tốt tươi hay tàn lụi đi ở trong chính bản thân của thực tại tự tồn này. Điều mà phồn tạp đó được nói đến cho sự hiểu biết của chúng ta về nó – tức thực tại, thì cũng đều mang tính chất đối với mọi công cuộc ngẫu sinh nên thành bất kể mỗi một công cụ chứa đựng đầy tiềm năng. Phồn tạp là điều mà chập chồng làm nên những giá trị cho chính mình về phía thực tại, tựa như điều mà chập chồng ấy tham gia vào quá trình cơ cấu hóa chính bản thân thực tại.

Mặc định đó, được dự liệu trong toàn bộ sơ đồ hay là điều mà thực tại được biểu sinh từ chính những sự kiện tổ hợp nên thành các không gian? Sự chuyển tiếp từ tính chất phồn tạp ấy, được hạn định đối với những gì có ý nghĩa bởi chính điều được coi là phồn tạp hay bố trí cho những sơ đồ, về phía đi vào các sự kiện khoác vào mình.

Sự kiện khoác vào mình, điều đó có được cho là cơ sở vững chãi đối với điều kiện chân chính về phía mặc định của thực tại được hay không? Mặc định của thực tại lại là điều mà ta có thể đối sánh cho chính quy bất kể điều gì mà (lại) với tính chất phồn tạp? Tính chất phồn tạp được cấu nạp vào trong những dự trù được phân hạch nên hay bất kể cho một công tác nào về phía mặc định của thực tại.

Bằng những thao tác của quy cách thực hiện bước tiến một cách thích hợp trong sự thẩm định mỗi một công án, ta có thể đột sinh khả nhiễm vào cung cách mặc định chính quy thực tại này. Luôn luôn như thế, khi cái cách mà chúng ta có lý do để thu nạp những biểu hiện về phía mặc định thực tại, trên tư cách toàn bộ sơ đồ của mỗi sự kiện khoác vào mình. Mặc định thực tại là hiển nhiên nhưng là hiển nhiên như thế nào? Tính hiển nhiên của mặc định đó, được hạn định sáng rõ đối với mỗi cung cách truy vấn về phía bước đường chính điều phồn tạp, khi đặt cho cơ sở có thể hiểu về nó một cách sáng rõ/rành mạch nhất có được không?

Bố cục của chính bản thân mỗi sự kiện khoác vào mình là điều mà tất yếu  tính mặc định đó không thể lấp đầy hơn được nữa. Điều mà cho là chập chồng, không có nghĩa là được chồng chéo và cho dù đến đâu đi nữa (tức sự chồng chéo ấy) thì cũng chính khơi gợi đó, mang quy tắc của điều coi như là mặc định thực tại. Bản thân bất kể một phục sinh tính nào về phía thực tại cũng hiển nhiên biểu thị cho chính tính phồn tạp. Tổng quát có thể quy chụp như thế này, thực tại mà trong tính chất chân chính của nó là phồn tạp. Thực tại phồn tạp là cơ sở để những diễn giải về sau có sức điều phối để gọi nó một cách thích hợp nhất. Phồn tạp đến vô cùng bởi thực tại tự nó đã là vô cùng, thực tại là vô hạn thì điều đó chẳng khác gì bởi/cho điều tác động đến phồn tạp là vô hạn. Phồn tạp trong đối sánh với thực tại là đặt định trong quan hệ của những gì chính quy, mà bước sang địa hạt của thực thể là tất hữu để không bao giờ vi phạm bất kì mỗi một quy tắc nào của tính mặc định đó.

Và sẽ không khi nào mâu thuẫn, khi cho rằng, thực thể mang quy trình của những ước đoán. Nói như thế, thực thể là sự chỉ sự khả năng được hạn định nên thành các chiếm hữu dứt khoát của sự phân tranh. Ước đoán chỉ có thể là cách thức duy nhất mà ta có thể từ đó hiểu về thực thể. Không một điều gì đem lại tri thức về thực thể, mà có khả năng hiểu biết một cách rành mạch và tường tận. Đem đối chiếu của bất kì mỗi một điều gì đi ra từ thực thể, thì hẳn nhiên cũng sẽ luôn được hôn phối bởi những quy trình phân lập nên trên nền tảng lấp lửng của điều quy kết đến tính chính thống.

Thực thể là tự động phân lập nên trong chính nó những bản thảo của chính kỉ cương/khuôn phép được nói đến về nó, chẳng qua và đi đến tột cùng, cũng chỉ là những điều gì đó quá ư vớ vẩn. Không đi từ điều kiện mà chính ước đoán đã phân định nên trong những thực thể. Thực thể sẽ là điều mà chính sự ước đoán nhắm đến. Quy trình của ước đoán để biểu hiện khi đem lại từ phía thực thể luôn được nắm lấy một cách say sưa nhất. Đối với điều gì đó mà thực thể định hình thì ước đoán sẽ là điều mang lại cho chính nó những ý nghĩa khả năng. Trong định mức bất kì của mỗi một ước đoán thì cũng đồng nghĩa với quyền năng hun đúc nên, bởi sinh thành từ phía chính điều tiên liệu từ những mô phỏng.

Thực thể chính quy là khái niệm thường được đồng nghĩa với thực thể thuần túy. Tuy nhiên, thực thể, như đã nói, bất kể mỗi một thực thể nào cũng đều là quy trình của những ước đoán. Vậy cho nên, thực thể có được ngẫu sinh/thành từ chính quy đến thuần túy, bằng cung cách gì đi nữa, thì tác động mang tính định hình đó đều được khả quy trên chính sự duy trì của những ước đoán. Ước đoán, chỉ có thể, bất kì điều gì có về thực thể sẽ được che đậy bất kể kì cùng nào, với tư cách đối ngẫu của chính điều được mang cho là chính quy hay thuần túy.

Thực thể mang quy trình của chính những ước đoán, điều đó đồng nghĩa với sự liên thuộc hiệu năng thực thể trong tương quan với những ước đoán. Ước đoán là tiềm sinh, nên trong cung cách mà ta có thể hiểu về thực thể được xem như điều kiện cho sự phân lập bất kì mỗi một năng trường nào. Về phía thực thể, điều được cho là có ý nghĩa luôn luôn cũng là điều quy chuẩn đối với chính những gì mà ở đó dọi phóng về phía thực tại từ chủ thể, sẽ luôn có sự định hình riêng biệt hay khả năng phóng tán của ước đoán một cách quá đỗi hài hòa.

Vì hài hòa, nên tính phù du lưu động luôn định diễn trong thực tại mang tính đa thể này. Bởi, sự dẫn nhập đã thực sự truyền hưởng cho một nội năng khá lớn, với sự ưu trương quá vãng, một khi định mệnh của những sắp đặt khả quyết cường soát, đảm bảo tích tụ trong thời tính hiện hoạt.

Phù du lưu động được coi là quy tắc định diễn trong thực tại. Mà thực tại này mang tính đa thể. Đa thể bởi những phân vùng có được khả năng xảy ra, khi hoạt xung cho các thực thể tự tồn là hoàn toàn được ngã ngũ. Đối với bất kì một cách thức nào đó, cũng hướng về điều kiện có ý chí truy phục vào những ý lực bức bích đồ cảm quan. Phù du lưu động, cho nên sự kiện đó, được điều phối mới dâng trào lên trên những gì lan tỏa ở ngữ cảnh của bút pháp diễn giải. Phù du lưu động được định diễn là một điều khác nữa là đằng khác. Phù du lưu động đòi hỏi một sự phân lãnh khả tất tính, đối với mỗi điều gì đó được định diễn, ngay cả khi và luôn luôn coi là điều độ như thế, của thực tại mang tính đa thể này.

Đa thể là biểu sinh nên những bối cảnh có ấn định của phân vùng tái hợp bất kể một điều gì, mang đến cho chính trung khu những cường sát tất hữu. Biểu đạt nên bên trong họa đồ đa không gian, do đó, đường lối của việc cấu nạp đến một phân vùng nào cũng cần đến sự dụng công bất kể điều gì được coi là quy tắc, đối với chính thực tại mang những đa thể ấy. Định diễn là cách thức mà các sự kiện viễn tượng hóa ra ngoài không gian. Định diễn còn là phương hướng mà mỗi bước đi của tiềm phục tàng trữ trong mọi ngóc ngách cơ cấu điều định hình cho chính đa thể, mang quy tắc bổ sung đến tột cùng hạn độ lênh láng tiềm phôi, của bất kể những điều gì đó được đem cho thực tại mang tính đa thể này.Thực tại mà chất chứa trong nó sự cơ cấu hóa tình trạng đa thể, cho nên, bất kể mỗi một phân lập nào chăng nữa cũng đột sinh nên những ngẫu tượng, mà bất kì một thao tác nào, dù có linh hoạt hay gián đoạn trong phân lãnh những khô cứng cục bộ của đương nhiên thì với mỗi riêng biệt đang cơ cấu đến kì cùng của thực tại cũng đều mang tính chất đa thể mà thôi. Chứ không, nếu nói như thế, khi bất kì một sự kì cùng nào của định diễn tính được lưu động trong phù du, hẳn sẽ sẵn sàng cưu mang nên bất kể (có thể sẽ hạn định về phía vô cùng trong trình tự tiệm cận) những điều gì mà tất hữu diễn ra trong thực tại tính này (dĩ nhiên là chất chứa của những đa thể).

Và điều đó, được cho là định đoạt ở trong thực tại, mà chỉ có thể thông qua bước dẫn nhập vào đa thể tính này, mới mong sẽ mở ra những cương vực cho huyền nhiệm thực tại. Bởi song song với tương tác, khi khơi mào trong dẫn nhập tự tính đều được coi là đã truyền hưởng nên một nội năng. Và như đã nói rằng, nội năng đó, được bơm cho một sức lưu trữ đến độ quá vãng của tính ưu trương, như căng trướng đến hạn độ biểu tất tính vô cùng. Và ưu trương đó, tích tụ ở trong chính thời tính hiện hoạt, kế cận bên nó những phân vùng, dù chỉ là (điều đó) đang ở mức coi như, thì đà tiến của nó đến mức đang là như được căng ra trên những biên độ thành hình, đối với mọi sự ngẫu sinh phối tính trong tận cùng. Để biểu đạt cho sự dật ứng mang bất kì một tình thái quy tắc nào đó, cũng luôn được như thế, sẽ đi đến (truy phục nên) câu hỏi: tại sao tôi lại là người chủ động nhìn ngắm thế giới này chứ không phải một ai khác ngoài tôi? Khi câu hỏi đó đặt ra, thì ưu trương quá vãng giờ này đã bung vỡ cho tiền đề bấy lâu nay chất chứa đến một bão hòa không thể bao chứa thêm bất cứ tiểu lượng nào nữa. Thì chính lúc đó, điều mà câu hỏi ấy được đặt ra là cách thức đột nhập vào những phân vùng hiểu như chính không phận của các biểu sinh điều phối từ đó hay đi ra từ đâu, để đến được ở đây?

Thời tính hiện hoạt là để thúc đẩy cho điều gì đó, làm nên một sự phân trùng của khả độ hiện diện đang tồn tại này mang những quan năng được cảm mến chẳng bao giờ không là phiến diện cả. Điều mà phân trùng định diễn, cho phù du lưu động chẳng khác gì được hiểu dưới cung cách biểu hiện khác đi, đối với chính sự diễn giải về mặc định thực tại. Phân trùng định diễn – mặc định thực tại là cặp biểu kiến ngày một tiệm cận đến gần lại với nhau, trong cung cách bung vỡ từ phía thời tính hiện hoạt. Hữu hiệu hóa nào, của bất kể mỗi một cấu tố cũng đều được lai ghép vào trong những ngữ dụ, mà chính sự diễn giải chứa đựng điều đó một cách rõ ràng nhất. Chẳng hề khi nào, điều gì chất chứa trong thực tại mà lại được nâng lên ở một tầm cỡ của sự thiết định, từ bất kể một điều gì đó là phân lập cho chính sự thoái trộn. Khi tiệm cận lúc thoái trộn, thời tính hiện hoạt trong cung cách tiệm-thoái của phân trùng định diễn này. Điều được quy cho là khả tất hữu thì luôn mang đến đối với chính bản thân nó mọi sự cố gắng coi như thỏa đáng (thỏa đáng trong mức độ luận lí).

Luận lí bản nhiên chỉ tập trung làm rõ tính chất ngụy trang của những không gian giao cấu vào trong chính bản chất của thực tại mánh khóe này. Trong một chừng mực mà ta nói về thực tại, chính như điều gì đó, mánh khóe nhất hẳn là có lý do của riêng ta, như thế ta mới có thể nói được như vậy. Luận lí chỉ tập trung làm rõ một điều, mà chính điều đó lại là căn nguyên để giải thích cho chính bản chất của sự mánh khóe ấy.

Nói luận lí bản nhiên chính là luận lí nguyên ủy đầu tiên. Tính bản nhiên góp vào như đem lại cho điều gì đó không thể chối cãi, hay cầu thị đối với một sự bổ túc thứ cấp nào đó. Luận lí luôn là điều gì đó hợp quy tắc, luận lí không chỉ là vậy, mà nó còn là điều kiện để tính bản nhiên có sự hướng định đến tính chất ngụy trang của những không gian, giao cấu vào chính bản chất của thực tại này.

Vì sao lại nói/đưa ra tính chất ngụy trang ở đây? Bởi vì, không có bất kì một cứ lý nào để đảm bảo cho mức độ rành mạch của luận lí, cho nên, ngụy trang là cổ điển đối với những phương cách chi phối điểm nhìn thoái thác đi sự tiệm cận đến điều chính đáng. Ngụy trang thừa hưởng được những điều chứa đựng cách thức lột xác của tính chủ định miên viễn theo nghĩa mang tính chính đáng. Cái được gọi là ngụy trang (hay mang tính chất của ngụy trang), cũng đều dễ dàng được chỉ định cho bất kể mỗi một cách thức nào, mà cách thức đó được có đường hướng đến một vật chủ đích đầy tiềm năng.

Giao cấu vào thực tại tức là thực tại thụ nạp vào trong chính nó những gì ngụy trang so với chính cống điều gì nào? Tất nhiên là ở đó, trong nó, sở hữu những định phối đối với phương cách điều hòa cho mọi cố thể, ở các phân vùng không gian trong thực tại đang được cấu nạp vào nó. Mánh khóe như cách để thể hiện tính sáng suốt của cảm quan chủ thể khi hiểu đúng về thực tại này. Nói đến mánh khóe ấy, như muốn nói đến không gì khác cách cư xử của những điều kiện thịnh hành, mang tính chủ động từ phía chủ thể chứa đựng sự chỉ định đối với ý chí hướng đến để có được hiểu biết nhiều hơn, sáng suốt hơn, nhưng mặc định của thực tại lại là điều bao gồm luôn tính chất mánh khóe đó nữa. Mánh khóe như một trong nhiều mặc định của chính thực tại. Luận lí đúng cách là luận lí có chỉ định vào trong từng bước đi đúng đắn. Luận lí như thế mới đẩy lên cao đến một mức độ hợp lý, của bản nhiên tính khi định hình tính chất ngụy trang, của những không gian giao cấu vào chính thực tại này (một thực tại mánh khóe tràn trề). Bởi trong cung cách của sự kiện (chính nó) là đối tượng luôn mang giảo hoạt tính trong mình rồi.

Mà tiến trình thì không có sự đặt định nào rõ ràng từ đó phân biệt một cách triệt để nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Bản thân thực tại luôn mang tính tổ hợp và đồng bộ. Nó là cái không có thoái lui hay dự phóng đến, cũng cố nhiên không thể là điều gì mà tất cả đều đang là hết. Nó là chính nó như sự chứa đựng của những đa thể, mà chiều kích thời gian tất yếu phụ thuộc vào tính tương quan của những đa thể này.

Sự đặt định nào về phân chia như thế cũng vô lý và không chính đáng cho cách mà ta nhìn vào thực tại. Khi mà bản thân thực tại tràn trề những quá trình và đầy ứ những đa thể, như đang trong tồn hợp đương diễn chủ thể, có chăng là cách thức mà chúng ta nhìn về nó, qua biểu trưng hiện trình với các chiều kích mở ra trong không phận mỗi một tiềm tố đề xuất như thế? Phân biệt thành chiều kích khi tính tổ hợp đó, luôn được tạo dựng trong phương hướng phân phát cẩm nang đã dựng sẵn (tức là không nên phân biệt như thế). Có lý nào không, khi ta thực hiện điều chất chứa cho mọi cái sẽ gọi là ngã ngũ đối với chính tính cách điều hành đó, mà phủ quyết đi sự tự trình của các chiều kích mở ra trên chính mỗi không phận mình? Điều mà được cho là có lý thì cũng có thể như chính điều đó mà ta nương vào để tìm hiểu? Đặt định trong phương cách khi điều kiện nào có được cho là gì đi nữa thì cách thức thông diễn của ta về nó qua các chiều kích khác có chăng là vô lý? Khi mà phương thức để có được hiểu biết cho ta, không gì khác đi, chính điều gì đó chân chất nhất, lọt thỏm vào phân khu của những điều hiện hữu mang tính tồn hợp, như thế, luôn được coi như một việc làm nhằm chia tách nó ra thành những thứ cấp tính ấy? Đương nhiên, trong mỗi không phận được mở ra, theo cứ lý nào đó, mà sự nhìn nhận của ta về với nó luôn có sự định hình chặt chẽ, cũng không như là điều đáng được mong muốn cho chính cách thức mà ta thực hiện như y đối với những phương cách luận lý mang vào sự mở ra các chiều kích đối với nó thì sẽ như thế nào? Tính tồn hợp là một trong những mặc định của thực tại. Tồn hợp là điều kiện để dựng xây trong một tinh thần xây dựng chung không mang lại điều gì đó tư lợi, để biểu đạt về những cách thức ngự trị, đối với bất kì một thứ tư tưởng nào hay là cách thức mà nó hàm chứa trong nó, để đạt được những mục tiêu mà nó mong muốn thực hiện.

Vì là tồn hợp, do đó, tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển, làm thành hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian, từ đó cho ra đời những không gian tiểu vi. Với cơ sở đi từ các trường sức không gian trong sự tương tác giữa các không gian (tất nhiên, không gian ở đây chỉ là không gian thành phần trong không gian chung cổ điển). Tương tác không gian là cách mà các không gian liên đới vào nhau, và cũng có thể đem lại hệ quả triệt tiêu những thành phần không gian tham gia vào tương tác. Tương tác là cách thức mong mỏi từ sự không gì trở nên có gì đó. Đôi khi, chính tương tác đã đem lại ở  sự quay về chứa đựng đầy rẫy những yếu tố định hình rõ ràng, cho tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển.

Hệ quả tích cực từ sự tương tác đó, không gì khác đi, chính là hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian đi từ sự tương tác giữa các không gian thành phần trong không gian chung cổ điển. Hiệu ứng tiếp hợp chéo ấy, sẽ từ đó, mà cho ra đời các không gian tiểu vi. Chính những không gian này, làm cho vũ trụ được thao túng nên trên tính tất yếu gia bội (đầy đủ) mọi sự lưu động trong chính bản thân nó. Hiệu ứng đó, chứa đựng đầy tiềm năng, một tiềm năng không thể thoái thác đi bất kể trên một ngã đường nào. Hiệu ứng tiếp hợp chéo không gian là hiệu ứng được vây bủa bằng những sự trải nghiệm mang tính lưu xuất đồng loạt, để điều kiện hiện diện đối với mỗi đối tượng như thành phần chính quy cho thực tại (những không gian tiểu vi). Tính tự tại của các không gian tiểu vi đó, có cơ sở trên chính hiệu ứng tiếp hợp chéo ấy, mà cung cách tương tác luôn được nhìn nhận dưới khía cạnh hướng đến tích cực. Do đó, tiếp hợp như biểu kiến trong chính thành phần của mặc định thực tại này. Tiếp hợp là mặc định của thực tại ở cung cách mà sự khuấy động những điều được biểu hiện trong chính bản thân của nó.

Hiệu ứng tiếp hợp đó, mang sự trao đổi có đào thải những ngoại lực. Vì nó đào thải nên tính tích cực được dựng xây cho tiếp hợp, hiển nhiên, cũng sẽ làm nên (mang tính tất yếu) về phía sự thành hình những không gian tiểu vi. Tiếp hợp đó, mang những cung cách đối sánh với những gì được/bị đào thải đi. Gạn lọc ra điều gì được coi là cốt yếu nhất để tính khả vi của các không gian được tiếp hợp đó thành hình, như vậy, trình độ mà tiếp hợp có được hẳn nhiên luôn được thấy rõ trong tính khả vi đó. Tiếp hợp sẽ là cung cách mưu cầu mang bước tiến của những khả năng luôn coi là chính đáng. Khuynh hướng tiếp hợp bất kì luôn chứa đựng những khả năng như thế. Mặc định của thực tại biểu sinh qua tiếp hợp tính cũng là cách thức mà ở đó phác họa nên những ngẫu biến luôn được nhìn nhận trên chính tính ngẫu biến ấy dưới một cách hợp lý và đồng thời hữu lý.

Mỗi một sự diễn giải về thực tại là mỗi ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức về phía những đối tượng đang được khả cấu, mà ở đây đối tượng (nào đó) luôn là ở trong thực tại. Ở đây, cảm thức sẽ được dự phần vào trong thực tại này mới là điều mà chúng ta cần có để triển khai. Triển khai trên chính ấn định mà mỗi một sự diễn giải về thực tại luôn được thông qua những ngữ dụ. Ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức, dĩ nhiên, ý hướng tính sẽ dự phần mạnh mẽ vào công cuộc/quá trình này.

Diễn giải về thực tại phải nói rằng, không dễ dàng một tí nào cả. Đi từ những hệ thống có chăng là chỉ có thể hiểu được một phần nào đó của chính nó mà thôi. Và bản thân mỗi sự diễn giải về thực tại là mỗi ấn định có chủ đích của bản thân cảm thức. Bản thân cảm thức luôn dự phóng vào thế giới. Khi mà dự phóng đó, được xác lập nên những tiềm tố cho công cuộc định hình chủ thể trong thế giới thì mỗi ấn định đó, rõ ràng luôn có chỉ định mà trong chính mỗi diễn giải, sẽ bằng với những thái cách mà cảm thức hướng về phía thực tại (trong cách thức diễn giải khác đi của biểu sinh ngữ dụ thì hướng về đó ngang bằng với ấn định). Mỗi sự diễn giải nào về thực tại đều được thông qua cảm thức, mà từ đó, sẽ cấu nạp nên điều kiện để khơi thông những hiện trạng, luôn mang trong mình một mục đích nhất định. Cho dù, không là gì khác đi ngoài những tại vị của chính quy điều gì đó, theo mong mỏi của bản thân cảm thức chưa được thực hiện trọn vẹn sẽ rất có nguy cơ bị bóp méo đi. Cái để từ cảm thức dự phóng ra thực tại đó, sẽ trình hiện nên tính khả cấu. Khả cấu để tức thời có những suy nghĩ về đối tượng như chính đối tượng đó, tại vị trong những phân khu mà mau chóng được diễn đạt khác đi như những khả thể. Khả cấu được định xuất bởi sự ấn định của cảm thức. Khả cấu lưu hoạt trong thực tại nhờ vào xung năng quán tính, xuất phát từ hạn định chính cảm thức hướng đến những gì sẽ được giản quy thành mức độ ngưng kết. Khả cấu vì thế mà được xếp vào chính tính chất mặc định của thực tại này. Thực tại này là tự tồn của những khả thể. Khả thể sẽ đóng vai trò bổ túc cho nhau, chứ không có trường hợp phân định hay chia tách một cách rành mạch nào khác. Mặc định như xăm soi cho nó tất cả những gì, mà trong cơ cấu chung của điều kiện đủ để giải quyết nên bất cứ một điều gì đó, được cho là có lý, về việc biện minh rằng, nó đang tồn tại thì chính tính khả cấu góp vào đó như một thành phần xán lạn không gì bằng.

Cho nên, mọi tính chất đều tiền minh. Tính chất là tất hữu cho chính vấn đề đang được dự định vào những điều, coi như đó mang lại hiểu biết một cách minh thị nhất. Tính chất dĩ nhiên như thế. Điều được coi tiền minh thì có cho nó trong một phạm vi bao chứa cỡ nào đi nữa, cũng sẽ luôn ấn định sẵn đó trong đối tượng, hay cũng được ấn định trên chính tiềm lực hạn độ mang tính trực tiếp nhất.

Tiền minh là định đoạt cho mọi thông diễn về tính chất. Tiền minh mà có được nói đến như là tiền minh, tuy lọt ra khỏi thường nghiệm nhưng chưa bước vào trường vực của siêu nghiệm.  Điều căng thẳng, không ở chỗ lấy tiền minh, mà đối chiếu với chính nó như tính chất để kinh nghiệm không thể hiểu lấy, mà là sự căng thẳng được nói đến cho một dật ứng về chiều hướng, của mọi tính chất biểu sinh trong thực tại này.

Tính chất luôn được định đoạt cho những ngẫu sinh hạn định trên không gian cổ điển, chỉ điểm đến trung khu điều phối được/có huy động về tận biên vùng, được cho là mang lại biểu hiện sáng rõ về đối tượng. Đối tượng huy động và như chính tính chất tiền minh đó lại như một mặc định của thực tại này. Tiền minh mang sự chỉ dẫn của tất cả điều phối khi hiểu về tính chất dĩ nhiên, như thế, thì sẽ hoạch định cho chính nó vấn đề mà nó được coi là cần nhất. Mọi tính chất, nói như thế không chỉ tóm gọn trong một sự tổng quát, mà ở đây, tính bao hàm biểu lộ qua vùng biên còn bao chứa luôn cả chính sự tổng quát ấy. Tổng quát được đẩy đến tận cùng của tổng quát vì như tiền minh được hiểu là tiền minh. Do đó, tính chất không có sự phản phục ở trong nó, nghĩa là nó được biểu sinh như thế nào, tức là, quy tắc mà nó hoạt động luôn được đảm bảo cho chính nó có được ưu thế thắng mọi sự đả phá/chỉ trích nào, nhằm khêu chọc hay dựng hình thành bất cứ trước một sự chống đối tiêu cực nào. Tuy nhiên, không phải sự khêu chọc nào cũng đều là và sẽ đáp ứng cho chính nó. Chỉ với tính chất có được những dự trù, chỉ bản thân nó có mà thôi. Hay trong chính phong cách của chúng ta hiểu biết về tính chất cũng chỉ trong một chừng mực, mà sự độc lập hay độ lùi để đổ bộ vào vô cùng bị đẩy ra quá xa. Ưu thế thắng vượt nào của bất kì mỗi một cuộc đổ bộ cũng đều là dự phóng vào trong tính chất để hiểu về nó (hay có tri thức về nó). Trong cung cách biểu hiện của mọi sự mô phỏng, đối với tính chất tiền minh là như nhau cho mọi cái, và vì thế, trong mặc định của thực tại luôn chứa đựng bản thân cái được gọi là tiền minh.

Và trong khi tiền minh thì ngoại giới song hành cùng nội giới, phiếm định của ấn kí hằng hữu luôn bảo tồn mức độ hòa hợp đến tối đa đương lượng này. Song hành là điều kiện để mặc định có cơ sở biểu quyết nên chính sự tự trình của mình. Ngoại - nội giới mang bản chất song hành, như thế là tất nhiên cho mọi biểu quyết chính nó. Tính song hành luôn được khơi gợi cho lịch trình minh họa những thắng quyết khó có sự phủ nhận hay bài xích hoạt động của nó. Song hành là điều để nội giới cùng ngoại giới kiêu hãnh bước đi bên nhau. Do đó, mọi việc phân biệt thành chủ thể hay khách thể đều trở nên vô nghĩa. Tất cả đều đang là những khả thể. Ngay đối với chính diễn giải lấy đối tượng là chủ thể, trước đó, đều là cách tạm thời mang vác vào nó để có được những phương thức hướng trình nhằm thông suốt hơn mà thôi. Khả thể là biểu năng cho những sự tự trình chính quy thực tại, (nói một cách dứt khoát như thế). Từ đó, dẫn đến sự phiếm định ấn kí của những khả thể vào trong thực tại, luôn đảm bảo cho một đặc tính nữa của mặc định này là hằng hữu tự nhiên. Hằng hữu luôn bảo tồn mức độ hòa hợp, mức độ đó, hằng hữu sẽ đem đến cho mặc định của chính tiềm năng thực tại.

Mức độ hòa hợp luôn được đương lượng, mà từ đó, nó bổ túc cho tính song hành ngữ cảnh. Phiếm định như quy tắc không thay đổi hay những biểu hiện tất hữu. Ấn kí được phiếm định là điều khẳng định cho chính tiến trình tự hoạt xung. Tất cả tương liên cho tính phiếm định, mà trong mức độ xét đến như là ngang bằng với chính mặc định của thực tại. Mặc định đều được khẳng định, ít nhất là trên thành phần của nó, khó tính đến sự lưu vong của bất kì một chia rẽ/phân tách nào của nội giới với ngoại giới. Ấn kí đó, luôn hằng hữu mà vì là hằng hữu cho nên nó chính là mặc định của thực tại. Mức độ hòa hợp sẽ là khẳng quyết cho hằng hữu đó được hạn định về phía chính nó. Hòa hợp đi theo cách nào chăng nữa cũng luôn là hướng đích đến sự dự trù bị lưu vong? Tất nhiên không như thế, nhưng chỉ với chính điều gì mà ta có thể để phiếm định luôn bảo đảm cho ấn kí hằng hữu đó, được đổ bộ vào trong cung cách mà ta có thể hiểu về chính nó (như một định phần trong cơ cấu mặc định của thực tại). Đương lượng này được phiếm định ấn kí đến mức độ hòa hợp là bảo toàn cho tính mặc định ấy. Hằng hữu là khả tất tính chính quy, nhưng không được coi là chủ đạo cho mặc định, vì mặc định tương đương với tổng thể cơ cấu nên không thể quy chuẩn bất kì một căn tố nào được coi như là chủ đạo.

Vì vậy mà mọi giá trị thực tồn đều có giá trị ngang bằng nhau, ngay khi bản thân chúng được xem là thực hữu hay là không thực hữu. Do đó, khả hữu tính là điều kiện để dựng xây nên những khả thể đang lưu chuyển trong miên trường thực tại này. Và mặc định của thực tại, nghiễm nhiên bao hàm trong nó một tính khả hữu chân chính. Bất kể điều gì có được cho là giản quy đi nữa thì cũng không vì thế mà có những khả năng hiểu biết, về mọi giá trị của điều gì đó coi như điều đó là thực tồn. Giá trị thực tồn là giá trị tự nó tồn tại cho chính nó và bất kể sự tác động nào về phía nó, nó cũng là chính nó. Nó không là điều gì khác đi, trong công cuộc hiện hữu của thực tại này. Giá trị thực tồn là giá trị tự nhiên, có đó, khi không tính đến bất kể một yêu cầu hay dự định nào sẽ tiến đến trong vòng vay của mọi điều được cho là tồn tại. Thực tồn cho nên thực tại là tổng thể đối với tất cả cơ cấu làm nên chính nó. Thực tồn là vì thế mà thực tại được định vị một cách rõ ràng hơn. Thực tồn, do đó, cũng có ý nghĩa khả hữu đối với chính mọi công cuộc thiết lập nên bên trong bản thân thực tại. Bên trong thực tại là tồn hữu cho nên giá trị của chính những cái tồn hữu trong thực tại thì được quy cho là thực tồn. Giá trị đó, ngang bằng với những khả thể khi chính biểu hiện của các đối tượng coi như là khả hữu. Dù giá trị đó, có thực hữu hay là không thực hữu đi nữa thì nó cũng được coi như một bao quát tràn trề về mọi ý thức, không đi ra ngoài khỏi cái được coi như khả hữu. Khả hữu cho nên tất hữu sẽ vi phạm đến cơ cấu về phía những khả thể có dự tính nào đó một cách bất kì. Khả hữu là dự phóng cho những khả thể. Khả hữu là cơ sơ/căn tố đối với mọi giá trị thực tồn, là điều coi như hiển nhiên lạ kì. Không hẳn chỉ điểm cho bước phát xuất của dự tính có ứng xuất nên trong miên tục thực tại và nó như thể sẽ là mở ra những cương vực sinh tồn đáng chú ý cho/về lại đối với chính bản thân thực tại. Thực tại, vì được cho phép tự nó mở ra những cương vực như thế nên nó (thực tại chứa đựng những giá trị thực tồn này) luôn có sự hội thông đối với bất kể một chung quy nào, có cho phép điều kiện, như hạn định những phôi sinh định hình mang tính thủ bản của bất kể mọi quy luật nào, được triển khai ra trên chính điều kiện, mà khả hữu tính đều truyền hưởng cho cơ cấu có chứa đựng những tiềm phôi, nhằm tạo ra cộng hưởng một cách bền vững nhất. Sự chấn thương nào cũng đều là cách biểu hiện sai lệch đối với chính sự mô phạm của bất kì một bổ túc nào cho/về phía mọi giá trị thực tồn ấy, trong chính những điều kinh qua thực tại này. Và kinh qua thực tại đã tạo nên cơ trình không gì khác hơn như thế nữa.

Mỗi cơ trình đều mang hơi hướng bởi tụ độ ý chí. Có ý chí mà trong cung cách nhìn nhận về vị trí của chúng ta trong thế giới mới có điều kiện đạt được khả giải. Có ý chí mới đảm bảo cho mức độ lưu động chính những quá trình trong thực tại này. Ý chí như tiên khởi để lo liệu mọi thứ, ý chí là công cụ đồng thời cũng là phương thức đem lại hiệu quả của cầu mong  (mục đích) sự đặt để có phương cách hướng đích mỗi quá trình. Cơ sở của mỗi quá trình (cơ trình) đều chịu sự truyền hưởng của ý chí, khi sự truyền hưởng đạt đến giới hạn cần cho điều gì đó, được thiết lập sau đó nữa, thì chính lúc ấy, mỗi cơ trình sẽ chịu sự chi phối một cách mạnh mẽ bởi ý chí. Ý chí thu hồi về mình những điều kiện, mà chính bản chất của điều kiện đã chi phối lên trên bản thân ý chí có được khẳng định về mỗi một điểm quy kết có chủ đích, của nó, trên chính những quá trình cơ sở chịu sự đồng phôi ngưng kết ấy. Ý chí hoạt xung qua tụ độ, tụ độ ý chí chính là thái cách cho chính mỗi một cơ trình. Cơ trình có minh bạch thì sự minh bạch đó, mới được nói đến như ý nghĩa mang lại được hay không, hẳn nhiên, cũng phải cần phụ thuộc rất nhiều và dường như là tất yếu vào chính căn tố bắc cầu từ tụ độ của ý chí. Cơ trình là chỉ điểm mà mỗi quá trình đặt trên nó những điều kiện biểu trưng cho chính nó những khởi nguyên, để tụ độ tham dự vào đạt được cái mà nó gọi là mong muốn, như chính chủ thể thu góp được điều tích cực trên chính những vấn đề có ở trong tay, khi tiến hành giải quyết nó trở nên ngã ngũ. Lúc mà điều kiện được lưu tâm đến, thì cơ trình cũng là đồng bộ khi tách biệt nào cũng chứa đựng cái nghẹn ngào cho bước kết luận (đưa ra) trong một phát ngôn tràn đầy sự tự tin chính đáng. Cơ trình là thực tại phân hạch nên qua quá trình mà khi được hiểu về nó, cụ thể, trong cách nhìn nhận đến phía căn tố đi ra từ tụ độ ý chí. Cho chính điều mà khi ta gọi nó bằng những hơi hướng thì cũng bằng lúc chúng ta kết lập nên tất cả vấn đề mong muốn cho điều kiện hạn định được thông suốt, do đó, bất kể một đệm xung tất yếu nào, cũng đều là hầu hết cho công cuộc có trong nó sự tán dương chính đáng nhất. Khi cơ trình mà ta đặt để về hơi hướng tụ độ biểu hiện qua những xung lực kích động (nên) khởi thành thì cơ trình sẽ chịu sự tước đoạt phủ quyết từ chính tiềm năng, được hạn định hóa trên/bởi tụ độ ý chí (không gì khác hơn chủ thể nữa).

Hiện thể của cơ trình chính là tính phông nền không gian cổ điển, là cơ cấu chung của tiềm năng khả cấu nên vô số những không gian thứ tính khác. Không gian cổ điển là bản nguyên đối với mọi cấp độ tồn sinh của bất kì mỗi một không gian nào đó, được khai căn từ chính nó/lấy nó làm gốc rễ. Không gian cổ điển, do đó, luôn đảm bảo cho nó có được tính phông nền thuần túy. Tính phông nền này, được hiểu với mức tương thông phóng tán sẽ điều hành nên những lộ trình cho sự kết lập (trước đó là kết lập, sau đó mới cũng có thể tái lập hay là tùy nó). Không gian cổ điển, bản thân nó, ngay tự bên trong (được hiểu như nội vi), chính xác, sẽ chứng thực nên những phác họa có quy trình biểu sinh trong miên tục. Phông nền không gian cổ điển là định mức cho những cái được gọi là thứ tính, nó cần có để hun đúc vào trong chính bản thân không gian cổ điển, có được cái gọi như là sẽ được triển khai. Bằng với cung cách định vị trên mỗi bước thấm nhập, giai đoạn vọt trào hoạt xung cho cơ cấu hóa nên tiềm năng khả cấu vô số những không gian thứ tính khác. Không gian thứ tính chỉ là không gian được cấp phát từ không gian cổ điển, tính phông nền không gian cổ điển phát tiết nên lố trình chung cuộc, bởi yếu tính bất kể điều gì cũng tiềm tố trong cơ cấu hóa khai sinh, trên lộ trình cơ cấu hóa khả năng phát tiết ấy. Yếu tố dựng xây trên cơ cấu bố cục nào cũng là bổ túc cho tính phông nền của không gian cổ điển cả. Khi chính những biểu năng tương tác nơi phông nền của không gian cổ điển làm nên sự quy chụp mọi biệt loại triển khai ra từ đó cấu nạp thành những không gian thứ tính. Trên mỗi cấp độ, nếu như được nhìn nhận cho chính những không gian thứ tính đó, thì mỗi không gian được cho là thứ tính, đều gọi tính chất thứ tính là biểu trưng cho những di mãn, bởi/xuất phát từ tính phông nền của không gian cổ điển. Cơ cấu chung có được từ bước tạo đà, bởi cơ cấu hóa khởi đi xây dựng trong tính cường sát mỗi biểu lộ tính nào, cũng tồn hợp trong phương thức biểu đạt của tính phông nền không gian cổ điển. Không gian cổ điển hình thành từ chính quá trình tiệm vị của những không gian thứ tính, luôn đang trong bước đường hồi quy về lại với những gì đã được trừu xuất ra nó, trên những hợp cảnh tự tại của chúng. Khó mà biểu đạt được tính phông nền, được hiện diện một cách rành mạch, nhưng mong muốn nào hướng đến sự định hình tính phông nền ấy lại luôn là bất khả cho sự điều hướng về phía đó.

Dưới một chiều hướng khác, khả năng kiến tạo có giới hạn mang phẩm tính hoạch định không gian, thích ứng với quá trình giải thể cấu trúc nên các không gian tương đồng. Ở đây, hẳn đã phải có sự mâu thuẫn lớn chăng? Khi mà kiến tạo được đặt cạnh giải thể mà nó xem như không có gì cả? Nhưng đối với sự đặt định của chính điều đó vào trong toàn bộ, như một tổng thể có cơ cấu từ thực tại, sẽ là tất hữu cho một ý nghĩa hẳn hoi. Ở đâu rồi đi chăng nữa thì muốn có cũng sẽ phải chịu sự kiến tạo (nên) từ bất kể một yếu tố nào, được đương lượng về phía chính quy của thực tại. Cũng có thể là từ vị trí của mọi sự ngẫu nhiên nào đó, mà kiến tạo luôn được cho với cái tên gần như đồng nghĩa với hình thành (nên) bản vị, tương thông với những dự định có ứng xuất, đối với chính điều kiện để nhằm vào đó hiểu rõ cho thực thể. Khi mà bất kể mỗi một khả năng nào, trong lúc kiến tạo, cũng đồng thời mang trong nó sự giới hạn hướng đến biệt lập những quy chuẩn riêng tư khó có thể thiếu đi sự vắng bóng, của bất kể mỗi một căn tố/phương thức nào khả lập nên, mà ta cho nó mang nghĩa như kiến tạo. Ở đây, trong vô số những biểu sinh khả tất tính, khai thông từ chính sự kiến tạo, cho nên, phẩm tính có được về sự dự trù đối với toàn bộ trong hoạch định không gian nào, cũng luôn cần đến yếu tố thích ứng đối với những quá trình. Chưa nói đến quá trình đó là gì, tạm thời như thế, để dòng diễn giải này sẽ biểu đạt trên chính những ngữ dụ có chiều rộng, chiều dài và kể cả chiều sâu một cách thông suốt, thì khi bước vào khả năng kiến tạo, ta mới có thể hiểu được một cách rõ ràng về chính nó như mong cầu nào về phía sự kiến tạo, cũng đều luôn mang một ý nghĩa, luôn khó có sự phản quyết là tất yếu. Kiến tạo nào chứ không phải tái tạo trên một quy mô mà tất cả dự tính thứ cấp tiến triển sau nó căn cứ vào đó, để mà nói đến vai trò của nó trong những cung cách biểu đạt là khác nhau. Thích ứng được nói đến như vậy, chính là đem đi để kiến tạo trong mức ứng đối có đồng bộ nhất với chính quá trình giải thể cấu trúc, nên các không gian tương đồng. Quá trình giải thể là tất hữu cho chính sự kiện tương đương được đem ra nhằm hướng đến những quy chuẩn như vậy. Điều để mà mỗi một biểu sinh nào thao túng cũng chất chứa trong nó những sự tái kết lập, trên mức đà tụt lùi so với những gì dự kiến, để đối ngẫu đó hình thành nên trong một mức độ tức thời nhất. Thích ứng như điều kiện tiên quyết gây ra một sức nhu động trên chính sự mặc định thực tại tự tồn này. Để rồi, tương tác chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện khác đi của thích ứng mà thôi.

Bất kể một sự nối kết hay tương tác nào cũng là một định hướng quy hồi, giữa ít nhất hay tối thiểu, hai không gian. Tương tác nào, rồi bắt buộc cũng phải luôn có đối tượng (cả đối tượng tác động và đối tượng chịu tác động). Giữa thực tại, là đầy ứ/tràn trề những nối kết và tương tác. Nối kết/tương tác quy định cho những sự liên thông với nhau. Tương tác chính là chuyển dịch một độ lùi ra xa để rồi khi đó, nó truyền hưởng cho chính những đối tượng thành phần của/trong bản thân nó. Nối kết có sức chứa đựng của nó được đẩy lên đến một mức độ căng tràn như tiềm tố tương hỗ được tiềm tại trong chính bản thân sự nối kết. Nối kết là một đặc cách của tương tác. Tương tác cấp cấu nên trong nó những phân trùng của sự nối kết. Tương tác nào, rồi cũng nhằm vào chính đối tượng, mà đối tượng đó, hẳn nhiên luôn là liên quan đến thực tại. Bản chất của bất kì mỗi một tương tác luôn luôn liên đới với chính quá trình tương tác được diễn ra trong định tính của nó (tức tương tác).

Định hướng quy hồi chính là cách thức mà đối tượng đặt trong quan hệ với một đối tượng khác. Định hướng trực chỉ cho một điều gì đó kinh qua thì sẽ dẫn dắt để đi đến kết luận cho rằng, chính những gì sẽ được đem đến/mang lại đều sẽ khả quy cho một hiệu quả nhất định. Điều mà nếu chúng ta nhắm đến hay bất chợt thao thức với những cung cách thổ lộ thì chính nó sẽ luôn có/vạch ra những quỹ đạo thịnh hành, trong mỗi cách mà chúng ta nhìn nhận nó như những gì liên tiến như thế. Chúng ta không thể cho một điều gì đó là hư mờ, khi chúng ta biết phản phục nó trên chính điều gì mà cứ ngỡ như là nó đã được tiệm vị đến, thì tiếp theo của định hướng là quy hồi như cách giải thích đối với riêng ta, hay là đã được uốn nắn bởi chính trong bản thân nó.

Định hướng quy hồi nào, cũng luôn cần có đối tượng để quá trình đó xảy ra. Và cũng không là một ngoại lệ, giữa đối tượng là không gian thì định hướng quy hồi cũng không tránh khỏi việc chúng ta đặt sự chú tâm, ở những quy cách mà ta có thể hiểu được về chính điều coi là định hướng đó. Tuy những đối tượng là không gian nhắm đặt trong khu vực lưu chuyển của định hướng quy hồi thì mỗi bước/quá trình định hướng ấy, luôn được thực hiện/xảy ra dưới điều kiện tối thiểu, ít nhất ra, là giữa hai không gian. Không gian là bất kể những gì tồn hợp, mà chính định hướng quy hồi đã làm cho sự tồn hợp, có sự câu nối vào trong những điều khoản hợp quy chính điều gì chẳng bao giờ có cho đó là ngăn cách dưới mọi biểu hiện của chúng.

Trong tiến trình phân mảnh không gian, sự sắp đặt riêng biệt của mỗi một thành tố phân mảnh không gian sẽ tạo nên động lực thúc đẩy một cách nhanh chóng quá trình cấu trúc nên mỗi một thế giới tương ứng. Động lực, điều tiên quyết cho mọi khả giải tạo nên điều gì đó, được coi là hướng đích một cách mới lạ. Sẽ không thể phủ nhận được rằng, động lực có đó, là chủ trương hoàn toàn vô nghĩa một cách thẳng thắn, cho/về sự kiện, mà trên tiến trình phân mảnh không gian có được như thế là sâu sắc nhất. Điều mà ta có thể đã từng nghĩ đến tiến trình phân mảnh có thể là ở một mức độ nào đó mà thôi. Nhưng dù sao đi nữa, thì chính tiến trình phân mảnh đó, mới đúng thực là điều kiện mà như ta mong muốn hiển trình về phía chính bản thân nó mà thôi. Cái đáng khâm phục nhất của tiến trình phân mảnh là luôn nhắm đến một đặc tính cộng hữu của tự tồn, mang cung cách đương biến cho mọi sự phát sinh nào đó đi ra từ nó. Cũng có thể định nghĩa, tiến trình phân mảnh không gian như chính mức độ mà không gian khả lập nên những tất tố, mà chính tất tố đó được không gian liên thông vào/về.

Khi chính những dữ liệu, mà sự lắp đặt riêng biệt của mỗi một thành tố phân mảnh không gian, được nhắc đến qua chính lối đi của tiến trình phân mảnh không gian đó, thì ta có thể nói rằng, tiến trình đó luôn luôn là định quy trong một sự tích hợp có trật tự, từ chính tiến trình phân mảnh của không gian (một không gian bất kì). Sắp đặt nào, cũng chứa đựng tính cơ cấu hóa của sự sắp đặt đó. Sắp đặt là điều kiện tối cần thiết để nương mang vào trong nó những khẳng quyết bất biến, để cho chính những biểu sinh có được sự lưu động trên chính định tính linh hoạt của nó. Nhưng dù sao đi nữa thì tiến trình phân mảnh ấy, cũng gieo rắc nên những nguyên chủng, mà động lực thúc đẩy về phía nào đó (bất kì), có từ nó là luôn luôn được tạo ra một cách nhanh chóng quá trình cấu trúc nên mỗi một thế giới tương ứng. Cấu trúc thế giới là cách để biểu đạt về chính hệ quả của tiến trình ấy. Bằng cách kêu gọi những ngưng trùng có trong chính tiền định ở bản thân nó, mà cơ cấu thế giới để tạo nên thế giới, luôn được nhìn nhận trên một tiềm độ giới hạn nhất định nào đó, mà sự giới hạn này, không phải lúc nào cũng là bó buộc mọi sự phóng tán ra ngoài những phạm vi của chính nó (tức sự phóng tán). Phóng tán cũng đành đặt để trên chính tiến trình phân mảnh (đến) được coi như là tương đương cho chính đều luôn đáng được tôn vinh là những sự phân định rạch ròi, dĩ nhiên, là rạch ròi cho mọi yếu tính (trong đó cơ cấu hóa cấu trúc thế giới là một tiến trình).

Thế nhưng, sự tiêu tán của hết thảy những phân vùng chủ đạo bên trong tự thân mỗi một không gian, chính là sự thôi thúc cho những hiện trạng biến thành mang giới hạn chung cuộc đối với mỗi không gian đang từng ngày được kiến lập nên nội tại tính của ngoại giới. Như một đương mức khả thành những sự kiện tự quy, được thuyên giảm trong mức độ định hướng của chính bản thân cảm thức, ẩn tàng dưới tấm thảm sâu kín nội biệt tính trong tâm hệ bản thể tôi. Tiêu tán, nghĩa là thế nào, không hẳn tiêu tán, ở đây, được hiểu theo nghĩa tiêu biến và chẳng còn một chút gì tồn tại cả? Tiêu tán là hiện tượng mà sự kết đọng nên bên trong mỗi một chủ định không mang tính cưỡng chế. Nhưng bất kì sự sở hữu nào, nhằm mang vác về phía hun đúc nên những mầm mống hay tiềm tố bất kể, đều khơi thông cho những hỗn kết chứa đựng đầy rẫy những xung lực. Tiêu tán còn mang nghĩa cho chính sự phân bổ, nghĩa là không có sự hư vô hóa được đặt định ra ở đây, mà tiêu tán tự bản thân, nó có ý nghĩa cho chính điều kiện/cơ sở hình thành nên nó. Tiêu tán hết thảy những phân vùng là điều được coi như chính đáng, với ý chí muốn phân bổ nên mỗi một khởi tố nào đó mà thôi. Tiêu tán không đồng nghĩa với những cưỡng chế; cho sự trị vì phương cách kết lập một cách quỵ lụy của bất kể một điều gì đó được coi như mong muốn huyền diệu. Phân vùng chủ đạo bên trong tự thân mỗi một không gian hẳn là những sự hạn định mang/bao chứa biên cách, mà giản quy nào cũng căn cứ trên những biên cách đó, để mà ra sức điều chỉnh sự ứng phó kịp thời, trước mọi cách thức giải quyết. Như chưa được đồng ý đối với bất kì một sự cấu tố nào, trong bất kể một điều gì đó có thể kể đến như chính phông vỡ vào điều gì đó, mang lại mong muốn là tiềm tại thì cũng khả nhiên cho tiếng cười được cất lên không một chút giấu giếm gì hết. Trong tự thân mỗi một không gian, có những phân vùng mà lí luận thật cặn kẽ để hiểu về biên vùng đó, là hoàn toàn hợp lí cho chính những quy trình, để bổ sung vào sự tiêu tán của hết thảy những phân vùng đó. Điều mà được cho là có lý nhất, luôn là điều mà được câu thông cho tất cả mọi viễn tượng chứa đựng một cách đầy tràn những sinh lực. Ủy thác đối với mọi căn tố nào, cho sự tiêu tán, cũng đều là sự thụt trào của những gì hay lan tỏa, từ quy củ, được phát xuất nên ngay chính điều được coi như đồng phôi trong mọi giao cấu với tự thân mỗi một không gian.

Bước tiếp để đi đến hệ quả cho sự tiêu tán, đó chính là thôi thúc đối với những hiện trạng mang lại điều, mà từ đó, kiến lập nên nội tại tính của ngoại giới. Nội tại tính là dự phần được tóm tắt trong muôn trùng những diễn giải, về chính điều được biết trước là bất khả. Nội tại tính, tất nhiên là một chân lý cố hữu, khi nội tại tính, đó là tính chất chủ đạo của không là gì ngoài điều gì được quy chuẩn hóa cho ngoại giới. Hạn độ nào mà nội tại tính được nhắc đến dưới mọi hình thức bất kì, gắn vào ngoại giới thì cũng đều luôn được cho là có ý nghĩa duy nhất. Nội tại tính, mang vác trong mình điều được kiến lập, mà không chỉ là sự đơn thuần được kiến lập nên một cách đơn giản mà thôi. Còn được thụ nạp vào trong chính những điều gì đó, quá đỗi là đầy đủ của mọi sức căng trương, luôn được tăng cường một cách tự động tính giải trình mọi sự khẳng định, đối với điều kết lập từ chính những gì đi đến hệ quả cho sự tiên tán được nhắc đến trước đó. Thôi thúc, có nói đến nó mới lột tả được những gì dựng xây nên công cuộc này mà thôi. Thôi thúc không cầm chân bất kể một đối tượng nào cả, khi chúng luôn có ý định phỏng cách vào bên trong chính mọi sự nhập tỏa về muôn phương hướng được định quy. Rao giảng về nội tại tính, cũng không thể bằng cách chúng ta sử dụng trực giác của mình, đột nhập vào bên trong ngoại giới, khi luôn chú ý đến nội tại tính của nó hẳn là một phương thức được cho khả giải nhất, trong công cuộc của những điều được hướng định, hay bất kì mỗi một điều gì đem phân minh/quy giảng cho nó (quy giảng chứ không phải quy giản). Khả giải để phân minh, vì thế, để phân minh ta luôn cần điều gì đó, mà sự tất minh xảy ra một khả tất hữu, đóng vai trò như một điều kiện xuyên suốt mọi quy trình đáng được hay luôn luôn giản cách vào trong chính những quan năng, để mọi biểu sinh cho chính những nấc thang trên tiến trình hướng đến nội tại tính ngoại giới. Nội tại tính, nó không là quá gay gắt cho những gì ẩn sau đang được tìm đến, qua những thử thách đầy chông gai với những lời nhận xét về nó. Nội tại tính không chỉ được hoạt xung mà còn ngưng trùng trên những gì mà nó coi như đó là thích hợp để biểu hiện. Dù cho sự biểu hiện đó, có được cho là một trong những biểu hiện ngầm nào đó, ở trong mọi sự kiện được phân tích về nội tại tính ngoại giới, như chính nó là căn tố để minh nhiên quy xét nên mọi định hình.

Như vậy, và khi xét trong một toàn phần thì nội tại tính ngoại giới, sẽ được định hình nên chính nội biệt tính chính bản thể tôi, đối với điều như là trong cung cách của những gì sâu thẳm cố hữu bên trong nó. Nội biệt tính bản thể tôi là ấn định cho mọi cái (nếu như không xét đến trong một sự cường soát như thế, hay toàn triệt, thì cũng như một phần lớn, mà cũng như vậy, mới dường như được xem là đầy đủ) bên trong, coi như đó là nội vi. Với chính những căn tố có được để đặt định mọi sự ngẫu ứng nào, đều cũng là sự phủ quyết đối với chính điều gì đó, mà nó có cho như nó là. Nội biệt tính có cho như nó đang là gì hay đương diễn gì không? Nội biệt, do đó, mà mỗi phân loại nào cũng đều được khả thành. Khi quy củ nào đó đi vào trật tự thì chính điều được coi như khởi thảo của trật tự đó, được liền mạch trong bước đi của nội tại tính, tiếp chuyển nên nội biệt tính chính tự bên trong bản thể tôi. Nội biệt tính, vì thế, mà phân lập nên những cương mục sinh tồn trong không gian, do đó, được thịnh hành chẳng khác gì là những gì có được cộng sinh vào chính miên tục của thực tại cả. Cương mục sinh tồn là hạn định cho chính nội biệt tính, xét đến như đó là hệ quả. Cương mục nào cũng khải lộ nên những biểu sinh, từ đó đi ra nội tại tính, nhưng cũng từ đó, trải qua vô số những tiếp diễn liên thông vào trong huyền nhiệm thực tại, để rồi vòng lại chính nội biệt tính như chính chu trình, mà sự kiện định hình nên nội biệt tính được đẩy lên đến một tầm cao mới. Nội biệt tính, không hẳn vì vậy, mà gây ra những điều kiện chuyên sâu, nó cũng chỉ là cương mục trong rất nhiều những biểu sinh, từ chính những gì mang tính hệ quả đi ra từ thực tại mà thôi (không phải ra như xét đến vị trí là không bao chứa). Nội biệt tính bao chứa những sự dự trù hay phân bổ nào đó về lại/đổ xô vào. Nội biệt tính xăm xoi nên điều gì đó, mà nó cho là cấp cho vô số những dữ kiện để định hình nên điều gì thật sự thú vị hơn rất nhiều. Bên trong hay bên ngoài, đến nó, được nói ở đây, không chỉ vào vị trí mà đối tượng được đứng, để chịu sự nhìn nhận về nó không đương mức ở, như là bản thể tôi đang vun vén trong mình từng ngày. Nội biệt tính phản phục nên để ngẫu sinh ra thành nội tại tính? Hay ngược lại, nội tại tính quy phục nội biệt tính? Ở trong chiều hướng nào, mỗi cách giải quyết cũng chỉ là mỗi một cách nhìn nhận mà thôi, nhưng xét đến trên tính mặc định của thực tại thì phân trùng nào mà cương mục biệt loại cũng đều chứa đựng những ý nghĩa (tất nhiên, mọi ý nghĩa đều luôn được biểu sinh một cách tràn trề).

Đa không gian luôn được đặt định như một hệ quả của công cuộc đem lại những hệ quả thực sự thông suốt, trong lộ trình diễn giải ý hướng tính về các khả năng giao cấu thành phần lưu vong của chính những tha thể trên vũ trụ cổ điển. Tha thể chính là những “alter ego” mà mọi sự biểu sinh của nó có thể nói là ngang bằng với chính đối tượng của nó, coi như đó là chủ thể. Tha thể dựa vào những phân vùng thiết định, do đó, hạn định nên bên trong không gian cổ điển những khả độ. Đa không gian như là chính viễn tượng mà cách/sự hiểu về tha thể có được dữ kiện về chúng được dồi dào hơn và như là chính khi đó, nó (đa không gian) dường như đã là một hiện trình cho những tha thể đó rồi. Bằng với sự chỉ dẫn trên lộ trình diễn giải về đa không gian thì cũng tương đương như thế, trong mọi cung cách diễn giải về những tha thể. Đa không gian là điều kiện cũng như hệ quả, để những khả thể tự biểu kiến lấy chính nó khi cho ra đời những tha thể. Ở đây, không nói về chủ thể thì nói qua tha thể, cũng đã chứa đựng trong nó cả chủ thể rồi. Tha thể chẳng khác gì là những chủ thể khả năng cả, do đó, tha thể được hiện diện như chính bản thân hữu tại thể trình xuất ra ở thế giới, tại đó. Đa không gian chính là hệ quả của lộ trình diễn giải đối với/về chính những chủ thể khả năng. Mặc định thực tại chính là đa không gian qua cách thức diễn giải đó. Mặc định còn là cách mà công cuộc diễn giải về chính bức tranh của những thành phần lưu vong trên vũ trụ cổ điển, không gì khác ngoài những tha thể. Chính xác, đa không gian trong tính liên đới với hệ quả cho ra đời những biểu sinh lưu vong, chính là căn tố chủ đạo của mặc định đích thân thực tại này. Mặc định thực tại, không thể được coi là khép lại, vì nó đã đầy tràn, mà mọi sự tham gia/nhập cuộc để nhìn nhận về nó, với tư cách là những người đồng thoại ở trong vai trò ngôi hai, cũng khó có thể thay đổi nó đi được theo hướng đối thoại mà sự tin tưởng ở chính nơi bản thân ta là hướng mặc định đó, đi theo những chủ kiến của mình. Hay là, trong cái cách mà mình đứng ở ngôi ba, xét đến biểu hiện một trong những khả năng hữu thể của mình được dẫn khởi qua mức độ tại vị chủ thể, thì cũng như, đứng ở vị trí an toàn để thưởng thức hay nhìn ngắm về phía cái mà được xem như quá đỗi trác tuyệt đến như thế, không gì khác ngoài sự mặc định chính quy của thực tại.

Nó là công cuộc được đem lại từ đó những hệ quả. Nhưng bất kì hệ quả nào cũng được cả sao? Dĩ nhiên, là đối với chính hệ quả mà ta mong muốn là cần được có nhất, ít ra là như thế. Khi chính diễn giải mang ý hướng tính về các khả năng giao cấu thành phần lưu vong của tha thể trên vũ trụ cổ điển. Vũ trụ cổ điển là điểm đồng phôi duy nhất, mà mọi sự ngưng trùng về nó, từ đó, khả dĩ đến những đặc cách đối với mọi phong thái, mà được kể đến như chính quy của phông nền thực tại này. Lộ trình diễn giải ý hướng tính về chất chứa những cấu nạp, mang tính khả năng luôn là cách thức nhìn nhận có ý nghĩa nhất về hệ hình đa không gian, mang bản chất là phông nền thực tại hạn độ trên chính những tha thể biểu sinh nơi thực tại. Vũ trụ cổ điển không phải là thực tại. Thế giới, có ở đâu đó, mà mang sự cấp ý nghĩa cho mọi biểu sinh, để từ đó, dật ứng nên tất cả mọi cấu hình thì đều vì, dường như tất cả là như thế luôn hướng đến khả năng giao cấu thành phần lưu vong chính những tha thể trên vũ trụ cổ điển. Đi từ bất kể điều gì, mà thành phần lưu vong đó, không được xem/coi như là điều đồng phôi, đem ra quy kết mang tính thẩm định chung. Bước sang lộ trình diễn giải tiếp theo, hẳn sẽ là hệ hình đa không gian được thể hiện một cách rõ ràng, hơn nữa, khi được đẩy đến trung tâm với những biểu sinh của những tha thể, đóng vai trò làm nội ứng trong vô vàn cung cách hướng định đến những phần cung ứng về phía thế giới, khác thế giới đang là như thế này, hay ngoài ra những giới hạn mà đường cong khép kín luôn khi nào cũng bao bọc, nơi chính bản thân vũ trụ cổ điển này. Mặc định của thực tại, chính vì vậy, mà luôn mong muốn được gia tăng không ngừng những khả năng cấp ý nghĩa cho chính nó. Hiệu ứng chuyển động của bất kì mỗi một biểu sinh nào đấy, cũng đều mang nghĩa là khải ứng nên với điều gì đó, coi như là tương đồng khi mà chính mặc định như thế, bởi mặc định, cũng là như thế đó. Không thể diễn giải trong những luận lí vòng quanh, để rồi ưng đưa cảm tính chủ quan đặt đâu đó chỗ nào cũng được, nghĩa là sự cấp phát ý nghĩa đối với những biểu sinh, từ phía tha thể được hạn định trên vũ trụ cổ điển, tất cả đều coi như đó là những gì hằng mong mỏi/mong muốn. Biểu sinh được gia bội thành những nấc bậc, mà căn nguyên để dẫn khởi nên chính những khả năng cho hữu thể, biểu lộ qua khả thể thành những chủ thể và tha thể (gọi tóm lại, cả chủ thể và cả tha thể này là những chủ thể khả năng, như thể ở điểm nhìn này, chủ thể cổ điển sẽ mất đi) gói trọn trong bước định hình mang tất cả mọi hiển trình cho/về tính quảng diễn khả cấu thực tại tự tồn này.

 

Phạm Tấn Xuân Cao
Số lần đọc: 1812
Ngày đăng: 15.03.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Linh hồn là gì? - Cư sĩ Minh Đạt
Tại sao Tân Hình Thức? - Nguyễn Đức Tùng
Mê ở Ta Bà, sực nhớ quê hương là Cực Lạc - Hồ Dụy
Ý thiền trong thơ Nguyễn Trãi - Tâm Nhiên
Sơ thảo tư duy của Heidegger về bản chất tự do của con người - Võ Công Liêm
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 4] - Phạm Tấn Xuân Cao
Giữa triết học và hư cấu - Võ Công Liêm
Hamvas Béla - một linh hồn lạc lõng - Cư sĩ Minh Đạt
Mạn đàm về Tết Nguyên Đán và nghệ thuật tạo hình về bức tranh "Ngựa và thiếu nữ tinh sương" của Họa sĩ Đinh Cường Năm Giáp Ngọ 2014 - Quỳnh Thi
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 3] - Phạm Tấn Xuân Cao