Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
674
116.463.360
 
Giết con chim nhại
Phạm Văn

Harper Lee

 

 

 

 

 

 

 

 

Bản dịch của Phạm Văn

2013

 

 

 

 

 

Harper Lee

 

Nelle Harper Lee sinh ngày 28/4/1926, tại Monroeville, Alabama. Bà là con út trong gia đình có 5 anh chị em, cha là Amasa Coleman Lee, và mẹ là Frances Cunningham Finch. Mẹ bà là nội trợ; cha làm luật sư, chủ một tờ báo ở địa phương và cũng là dân biểu trong quốc hội tiểu bang từ 1926 đến 1938.

Năm 1944, sau khi xong trung học ở Monroeville, bà theo học Huntingdon College, Montgomery. Từ 1945 đến 1949 bà chuyển sang học luật tại University of Alabama ở Tuscaloosa, rồi học một mùa hè ở Oxford University, Anh quốc. Khi trở lại học luật ở Alabama được thêm một khoá, bà bỏ ngang và tới New York làm thư ký để theo đuổi nghề viết văn. Năm 1959, bà theo người bạn thời thơ ấu là Truman Capote (được cho là hình ảnh của Dill trong tác phẩm của bà) tới Holcombe, Kansas, để giúp tìm tài liệu cho Capote viết cuốn In Cold Blood (1966).

To Kill A Mockingbird (1960, giải Pulitzer 1961) là cuốn tiểu thuyết duy nhất của bà. Năm 1962, kịch bản do Horton Foote viết cho bộ phim cùng tên đoạt giải Oscar. Năm 1987, vở kịch do Christopher Sergel viết dựa trên tác phẩm được trình diễn lần đầu ở London, và sau năm 1990 thị trấn Monroeville tổ chức diễn hằng năm trên quảng trường và trong toà án của mình, với các diễn viên là dân địa phương.

 

 

 

 

 

 

 

Về bản dịch tiếng Việt

 

Vào khoảng năm 2000, vì lời khuyến khích của một học sinh lớp 10 ở California chúng tôi bắt đầu dịch To Kill A Mockingbird của Harper Lee, và đến nay mới tạm xong! Mặc dù chuyện xảy ra ở một vùng quê khá xa lạ trong tiểu bang Alabama hồi thập niên 1930, học sinh Mỹ có thể tương đối dễ dàng nhập vào bối cảnh lịch sử, địa lý, văn hoá, xã hội trong tác phẩm và hiểu thái độ của các nhân vật, qua lời kể của một đứa bé gái còn học tiểu học, giỏi quan sát và trực tính, đôi khi ngô nghê vì hay bắt chước cách nói phức tạp của ông bố luật sư.

Tuy nhiên, học sinh ở An Giang chẳng hạn có thể sẽ gặp một số bỡ ngỡ về đời sống và phong tục ở Mỹ. Bản dịch này nhắm đến các học sinh Việt Nam, vì thế sẽ có chú thích để phần nào đáp ứng cho nhu cầu ấy. Chú thích có thể sẽ thừa hoặc thiếu, và dĩ nhiên chú thích cũng là chỗ để người dịch ghi lại những gì đã phải tra cứu từ các trang mạng và sách vở, nhằm làm rõ bản gốc hoặc vẫn còn hoài nghi.

Một điểm có lẽ cần nói đến trong tác phẩm này là hai đứa bé Scout và Jem của gia đình Finch thường gọi thẳng tên cha là “Atticus” và tên bà người làm lớn tuổi là “Cal”, gọi trống không. Người Việt có thể lạ đối với cách xưng hô này, nhưng trong nhiều gia đình Mỹ cách nói đó là bình thường, biểu lộ sự thân mật và gần gũi.

Bản dịch Giết con chim nhại dựa theo bản in của Warner Books, New York, 1982.

Tháng 9 năm 2013

Phạm Văn

 

 

 

Maycomb theo bản vẽ của enotes, http://fitzgeraldenglish

.wikispaces.com/Map+of+Maycomb,+Alabama

 

 

 

 

 

Phần 1

 

1

 

Lúc sắp mười ba tuổi, anh Jem của tôi bị gãy tay nặng lắm ở chỗ cùi chỏ. Sau khi chỗ gãy lành lại, và khi đã bớt sợ là không bao giờ chơi banh bầu dục[1] được nữa, Jem chẳng mấy khi áy náy về thương tật của anh. Tay trái anh hơi ngắn hơn tay phải. Khi anh đứng hay đi, lưng bàn tay anh thẳng góc với thân mình, ngón tay cái song song với đùi. Anh không thèm để ý tới, miễn là anh còn có thể ném và đá banh.

Nhiều năm trôi qua đủ để có thể nhìn lại, đôi khi chúng tôi bàn cãi về những biến cố dẫn tới tai nạn của anh. Tôi cho rằng tại nhà Ewell gây nên cớ sự hết cả, nhưng Jem, lớn hơn tôi bốn tuổi, nói nguyên cớ đã có trước đó từ lâu. Anh nói nó khởi sự từ hồi mùa hè Dill đến với chúng tôi, lúc Dill lần đầu gợi ý chúng tôi nhử cho Boo Radley ra ngoài.

Tôi nói nếu anh muốn nhìn bao quát sự việc thì nó thật sự bắt đầu từ Andrew Jackson[2]. Nếu tướng Jackson không xua bộ lạc Creek lên thượng nguồn thì Simon Finch sẽ chẳng bao giờ chèo ghe ngược sông Alabama, rồi như vậy thì chúng tôi ở đâu? Chúng tôi đã quá lớn để dàn xếp một vụ cãi cọ bằng nắm đấm, vì vậy chúng tôi hỏi ý Atticus. Cha chúng tôi nói cả hai đều đúng.

Là dân miền Nam, một vài người trong gia tộc tôi cảm thấy xấu hổ vì tổ tiên chúng tôi chẳng ai có thành tích là đã theo phe bên này hay bên kia của trận Hastings[3]. Chúng tôi chỉ có Simon Finch, một ông bào chế thuốc kiêm bẫy thú lột lông gốc ở Cornwall[4], mà lòng mộ đạo của cụ chỉ chịu thua tính keo kiệt. Hồi còn ở bên Anh, Simon bực mình vì những người nhận là tín đồ phái Giám Lý[5] bị các đạo hữu cấp tiến hơn của họ ngược đãi, và vì Simon tự nhận là tín đồ phái Giám Lý, cụ tìm đường vượt Đại Tây Dương tới Philadelphia, từ đó tới Jamaica, rồi tới Mobile, và ngược lên Saint Stephens[6]. Nhớ điều John Wesley phê phán về thói lắm lời trong buôn bán, Simon kiếm được bộn bạc trong nghề thuốc, nhưng cụ không vui với nghề này, vì sợ bị cám dỗ làm những điều mà cụ biết là không làm rạng danh Chúa, như đeo vàng và mặc y phục đắt tiền. Vì thế, sau khi quên đi châm ngôn của sư phụ mình về việc sở hữu nô lệ, Simon mua ba người nô lệ, và với sự trợ giúp của họ, cụ tạo dựng trang trại trên bờ sông Alabama, cách Saint Stephens khoảng bốn chục dặm[7] trên thượng nguồn. Cụ trở lại Saint Stephens chỉ một lần, để kiếm một bà vợ, và cùng bà tạo dựng một dòng họ có lắm con gái. Simon sống thọ đáng nể và chết giàu.

Đàn ông trong gia tộc có lệ ở lại trang trại của Simon, trại Bến Finch, và sống bằng nghề trồng bông vải. Trại có thể tự túc: khiêm tốn so với các điền trang lớn xung quanh, nhưng Bến Finch sản xuất được mọi thứ cần cho cuộc sống, ngoại trừ nước đá, bột mì và các loại y phục, phải mua của tàu từ Mobile chạy ngược sông lên.

Simon hẳn phải nhìn cuộc xáo động giữa hai miền Bắc Nam[8] với nỗi thịnh nộ bất lực, vì nó tước mất của con cháu cụ hết mọi thứ trừ đất đai. Nhưng truyền thống sống nhờ đất vẫn duy trì liên tục đến tận thế kỷ hai mươi, trước khi cha tôi, Atticus Finch, đi Montgomery[9] học luật, và em trai ông đi Boston[10] học thuốc. Chị Alexandra của họ là người duy nhất trong gia tộc ở lại Bến Finch: bà cưới một ông lầm lì, hầu như suốt ngày nằm trên võng cạnh bờ sông tự hỏi mấy sợi dây giăng câu của ông đã có cá đớp hết chưa.

Khi cha tôi được nhận vào luật sư đoàn, ông trở về Maycomb và bắt đầu hành nghề. Maycomb cách Bến Finch khoảng hai mươi dặm về phía đông và là thủ phủ của quận hạt Maycomb. Văn phòng Atticus trong toà án chỉ có cái giá treo mũ, một ống nhổ, bàn cờ đam và Bộ Luật Alabama mới tinh. Hai thân chủ đầu tiên của ông là hai người cuối cùng bị treo cổ trong nhà tù hạt Maycomb. Atticus đã cố thúc giục họ chấp nhận sự khoan hồng của bên công tố cho họ nhận tội ngộ sát để giữ tính mạng, nhưng họ là con nhà Haverford, ở hạt Maycomb cái tên này đồng nghĩa với thằng ngốc. Trong một vụ hiểu lầm nảy sinh từ việc bị coi là cầm nhầm một con lừa cái, bọn nhà Haverford kết liễu đời ông thợ rèn chính của Maycomb. Họ khinh suất tới nỗi phạm tội trước mặt ba nhân chứng, và nhất quyết rằng lời biện hộ thằng-chó-đẻ-rước-vạ-vào-thân là đủ cho bất kỳ ai. Họ nhất định cãi vô tội đối với án cố sát, vì thế Atticus chẳng làm được gì nhiều cho các thân chủ của mình, ngoại trừ có mặt lúc họ ra đi từ giã cõi đời. Vụ đó chắc là nguyên cớ cho nỗi chán ghét ghê gớm của cha tôi đối với nghề luật sư hình sự.

Trong năm năm đầu ở Maycomb, Atticus sống hết sức tằn tiện; mấy năm sau ông đầu tư tiền kiếm được cho em ông đi học. John Hale Finch trẻ hơn cha tôi mười tuổi, chọn học y khoa vào lúc bông gòn hết đáng trồng; nhưng sau khi giúp chú Jack[11] khởi nghiệp, Atticus bắt đầu có thu nhập phải chăng bằng nghề luật. Ông thích Maycomb, ông sinh ra và lớn lên ở hạt Maycomb; ông biết dân mình, họ biết ông; và vì Simon Finch sinh sản mạnh nên Atticus có liên hệ máu mủ hay thông gia với gần hết mọi gia đình trong thị trấn.

*

Maycomb là một thị trấn cổ, nhưng ngay từ khi tôi biết, nó đã là một thị trấn cổ phát chán. Vào mùa mưa đường phố biến thành bùn đỏ, cỏ mọc trên vỉa hè, toà án sũng nước trong quảng trường. Chẳng hiểu sao dạo ấy trời nóng hơn: một con chó mực khốn khổ trong ngày hè, mấy con la trơ xương buộc vào khung chiếc xe hơi[12] đứng đuổi ruồi dưới bóng râm oi bức của đám cây sồi trên quảng trường. Cổ áo hồ cứng của đàn ông rũ xuống lúc chín giờ sáng. Các bà tắm trước buổi trưa, sau giấc ngủ ba giờ chiều, và lúc đêm xuống trông như cái bánh mềm ăn lúc uống trà, lấm tấm mồ hôi và phấn thơm ngọt ngào.

Hồi đó người ta cử động chậm chạp. Họ thong thả đi qua quảng trường, la cà ra vào các cửa hiệu quanh đó, tà tà trong mọi việc. Một ngày hai mươi bốn tiếng nhưng dường như dài hơn. Chẳng có gì vội, vì chẳng có chỗ nào để đi, chẳng có gì để mua và không có tiền để mua, chẳng có gì để xem bên ngoài địa phận hạt Maycomb. Nhưng đó là thời kỳ lạc quan mơ hồ của một số người: hạt Maycomb vừa được bảo rằng chẳng có gì để sợ ngoại trừ chính nỗi sợ.[13]

Chúng tôi sống trên con phố dân cư chính của thị trấn – Atticus, Jem và tôi, thêm bà bếp Calpurnia của chúng tôi. Jem và tôi thấy hài lòng về cha mình: ông chơi với chúng tôi, đọc cho chúng tôi, và giữ một khoảng cách lịch thiệp với chúng tôi.

Calpurnia lại là chuyện khác. Bà toàn xương xẩu và gai góc; bà cận thị; bà nhíu mắt; bàn tay bà to như vạt giường và cứng gấp đôi. Bà luôn ra lệnh cho tôi ra khỏi bếp, hỏi tại sao tôi không ngoan như Jem dù bà biết anh ấy lớn tuổi hơn, và gọi tôi về nhà khi tôi chưa sẵn sàng về. Cuộc chiến giữa bà và tôi bi hùng và nghiêng lệch. Calpurnia luôn luôn thắng, phần lớn vì Atticus luôn luôn về phe với bà. Bà ở với chúng tôi từ khi Jem sinh ra, và trong đầu tôi luôn luôn có sự hiện diện chuyên chế của bà.

Mẹ chúng tôi mất khi tôi hai tuổi, vì thế tôi không hề cảm thấy thiếu vắng bà. Bà thuộc dòng họ Graham ở Montgomery; Atticus gặp bà khi ông được bầu vào quốc hội tiểu bang lần đầu. Hồi đó ông ở tuổi trung niên, bà kém ông mười lăm tuổi. Jem là sản phẩm của năm đầu tiên họ lấy nhau; bốn năm sau tôi ra đời, và hai năm sau mẹ chúng tôi chết vì một cơn đau tim bất ngờ. Người ta nói gia đình bà có bệnh này. Tôi không nhớ bà, nhưng tôi nghĩ Jem nhớ. Anh nhớ rõ bà, và đôi khi giữa lúc đang chơi anh thở dài thườn thượt, rồi bỏ đi chơi một mình phía sau nhà để xe. Khi anh ấy như thế, tôi biết không nên quấy rầy anh.

Khi tôi sắp lên sáu và Jem sắp mười tuổi, đường ranh giới mùa hè của chúng tôi (trong tầm gọi của Calpurnia) là nhà bà Henry Lafayette Dubose cách một căn về phía bắc, và nhà Radley cách hai căn phía nam. Chúng tôi chưa bao giờ có ý định vi phạm các ranh giới này. Nhà Radley là nơi cư ngụ của một thực thể bí ẩn, chỉ cần mô tả nó là đủ cho chúng tôi ngoan nhiều ngày liên tiếp; còn bà Dubose thì hoàn toàn ghê rợn.

Mùa hè năm đó Dill đến với chúng tôi.

Một sáng sớm lúc chúng tôi bắt đầu trò chơi hằng ngày ở sân sau, Jem và tôi nghe tiếng động trong mảnh đất trồng bắp cải nhà cô Rachel Haverford bên cạnh. Chúng tôi tới hàng rào kẽm để coi có con cún nào không – con chó săn chuột của cô Rachel sắp sinh – thay vào đó chúng tôi thấy một đứa đang ngồi nhìn chúng tôi. Lúc nó ngồi, nó không cao hơn bụi cải bao nhiêu. Chúng tôi đăm đăm nhìn nó tới khi nó nói: “Ê.”

Jem vui vẻ đáp: “Ê mày.”

Nó nói: “Tao là Charles Baker Harris. Tao biết đọc.”

Tôi nói: “Thì sao?”

”Tao nghĩ tụi mày muốn biết tao biết đọc. Tụi mày có cái gì cần đọc thì tao đọc cho…”

Jem hỏi: “Mày mấy tuổi, bốn tuổi rưỡi hả?”

“Sắp lên bảy.”

Jem nói: “Xì, vậy thì đâu có gì lạ,” anh hất ngón cái về phía tôi, “Con Scout đằng này biết đọc từ hồi mới sinh ra, mà nó chưa đi học đâu nhe. Mày sắp bảy tuổi mà coi mày nhỏ chút xíu.”

Nó nói: “Tao nhỏ con nhưng tao lớn tuổi.”

Jem vuốt tóc ra sau để nhìn rõ hơn. Anh nói: “Sao mày không qua bên này, Charles Baker Harris? Chúa ơi, tên với họ.”

“Cũng hổng tức cười gì hơn tên mày. Dì Rachel nói tên mày là Jeremy Atticus Finch.”

Jem cau có nói: “Tao đủ lớn để nhét tên tao vô. Tên mày dài hơn mày. Dám cá là dài hơn ba tấc.”

Dill vừa xoay xở dưới hàng rào vừa nói: “Người ta gọi tao là Dill.”

Tôi nói: “Mày leo qua dễ hơn chui bên dưới. Mày ở đâu tới?”

Dill quê ở Meridian, Mississippi[14], qua nghỉ hè với dì nó là cô Rachel, và từ nay mỗi mùa hè nó sẽ qua Maycomb. Gia đình nó gốc Maycomb, mẹ nó làm việc cho một ông thợ chụp hình ở Meridian, bà đã nộp ảnh nó đi dự thi Trẻ Em Đẹp và thắng năm đô la. Bà cho Dill số tiền đó, nó dùng tiền để đi xem xi nê hai chục lần.

Jem nói: “Ở đây không có xi nê, ngoại trừ thỉnh thoảng có mấy phim Giê-su trong toà án. Mày có xem được phim nào khá không?”

Dill đã xem phim Dracula, một tiết lộ khiến Jem bắt đầu nhìn nó với vẻ nể nang. Anh nói: “Kể cho tụi tao nghe đi.”

Dill là một quái nhân. Nó mặc quần ngắn vải lanh màu xanh cài cúc vào áo sơ mi, tóc nó trắng như tuyết dính vào đầu như lông vịt. Nó lớn hơn tôi một tuổi nhưng tôi cao vượt hẳn nó. Khi nó kể chuyện cũ cho chúng tôi, cặp mắt xanh của nó lúc sáng lúc tối; tiếng cười của nó bất ngờ và vui; nó có thói quen kéo mấy sợi tóc bò liếm ở giữa trán.

Sau khi Dill cho Dracula tiêu tùng thành bụi đất, Jem nói phim nghe hay hơn sách, tôi hỏi Dill ba nó đâu: “Mày hổng nói gì về ổng.”

“Tao không có ba.”

“Ổng chết hả?”

“Không…”

“Vậy nếu ổng chưa chết thì mày phải có ba chứ?”

Dill đỏ mặt, và Jem bảo tôi im, một dấu hiệu xác nhận là đã khảo sát xong và thấy Dill chấp nhận được. Sau đó mùa hè trôi qua trong niềm vui thú thường lệ. Vui thú thường lệ là: cải thiện căn nhà trên cây của chúng tôi nằm giữa hai cây xoan sinh đôi khổng lồ ở sân sau, cãi nhau om xòm, diễn hết mấy vở trong các tiết mục kịch của chúng tôi dựa trên tác phẩm của Oliver Optic, Victor Appleton và Edgar Rice Burroughs[15]. Trong việc này chúng tôi may mắn có Dill. Nó đóng những vai trước kia nhét cho tôi – con khỉ đột trong Tarzan, ông Crabtree trong Anh em nhà Rover, ông Damon trong Tom Swift. Vì thế chúng tôi dần dà biết Dill là một tay phù thủy Merlin[16] có sẵn ngay bên mình, đầu nó đầy những dự tính lập dị, những khao khát kỳ lạ và những tưởng tượng quái đản.

Nhưng đến cuối tháng Tám, các tiết mục của chúng tôi trở nên nhạt nhẽo vì đã diễn đi diễn lại vô số lần, chính lúc đó Dill gợi ý chúng tôi nhử cho Boo Radley ra khỏi nhà.

Nhà Radley làm Dill mê mẩn. Bất chấp những lời cảnh cáo và giải thích của chúng tôi, căn nhà đó hút nó như mặt trăng hút nước, nhưng hút nó không quá cây cột đèn ở góc đường cách cổng nhà Radley một khoảng an toàn. Nó sẽ đứng đó, vòng tay ôm cây cột mập bự, đăm đăm nhìn và tò mò.

Nhà Radley nhô ra khúc quẹo gắt quá khỏi nhà chúng tôi. Đi về phía nam sẽ gặp hàng hiên; lề đường uốn dọc theo lô đất. Căn nhà thấp, hồi xưa sơn trắng, hiên trước sâu vào, các cửa chớp màu xanh lục nhưng từ lâu đã sạm màu như mảnh sân đá xám bao quanh. Ván lợp mục nước mưa nằm oằn trên mái hiên; mấy cây sồi che khuất ánh nắng. Hàng cọc rào còn sót lại đứng chuếnh choáng canh giữ sân trước – một cái sân “quét” không bao giờ được quét – nơi cỏ miến và cỏ cúc mọc đầy.

Trong nhà có con ma độc địa. Người ta nói nó có thật, nhưng Jem và tôi chưa bao giờ thấy nó. Người ta kể ban đêm khi trăng lặn nó ra khỏi nhà, nhìn lén qua cửa sổ. Khi cây đỗ quyên của thiên hạ bị đông cứng trong đợt rét đột ngột, đó là vì nó hà hơi lên cây. Mọi tội lặt vặt lẻn lút ở Maycomb đều do nó làm. Có lần thị trấn hoảng kinh vì ban đêm xảy ra một loạt biến cố ghê rợn: gà qué và chó mèo của thiên hạ bị tùng xẻo; mặc dù thủ phạm là Addie Khùng, về sau hắn tự trầm ở Vũng xoáy Barker, nhưng người ta vẫn nghi cho nhà Radley và không muốn bỏ mối ngờ vực ban đầu của họ. Ban đêm dân da đen không đi ngang nhà Radley, họ băng qua lề đường đối diện và vừa huýt sáo vừa bước. Sân trường Maycomb sát phía sau lô đất Radley; những cây hồ đào cao trong sân nuôi gà nhà Radley rụng hạt xuống sân trường, nhưng bọn trẻ không đụng tới: hạt hồ đào nhà Radley giết mày chết. Quả bóng chày đánh vào sân Radley là coi như mất và khỏi hỏi.

Nỗi bất hạnh của nhà đó khởi đầu từ nhiều năm trước khi Jem và tôi sinh ra. Nhà Radley được khắp thị trấn chào đón, nhưng họ sống cô lập, một lối sống không thể tha thứ ở Maycomb. Họ không đi nhà thờ, vốn là thú giải trí chính ở Maycomb, mà thờ phượng tại nhà. Bà Radley hiếm hoi năm thì mười hoạ băng qua đường để dự bữa cà phê giữa buổi sáng với láng giềng, và chắc chắn chưa bao giờ tham gia nhóm truyền giáo. Mỗi sáng ông Radley bước ra thị trấn lúc mười một rưỡi và trở về lập tức lúc mười hai giờ, đôi khi cầm một túi giấy nâu mà láng giềng đoán là đựng thức ăn mua cho gia đình. Tôi không hề biết ông cụ Radley sống bằng nghề gì – Jem nói ông ta “mua bông gòn”, một từ lịch sự để chỉ chẳng làm gì – nhưng ông bà Radley đã sống ở đó với hai người con trai từ hồi nảo hồi nào chẳng ai nhớ.

Ngày Chúa nhật nhà Radley đóng kín cửa chớp và cửa ra vào, lại thêm một điều xa lạ nữa với lối sống Maycomb: cửa đóng chỉ có nghĩa là bệnh hay thời tiết lạnh. Khác với mọi ngày, chiều Chúa nhật là lúc để trịnh trọng thăm viếng nhau: các bà mặc áo nịt, các ông mặc áo vét, trẻ con mang giày. Nhưng chiều Chúa nhật mà leo lên bậc thềm trước nhà Radley rồi gọi “Ê” là điều hàng xóm của họ chưa từng làm. Nhà Radley không có cửa lưới. Một lần tôi hỏi Atticus nhà đó đã bao giờ có cửa lưới không, Atticus nói có, nhưng trước khi tôi sinh ra.

Theo truyền thuyết ở lối xóm, hồi anh con út nhà Radley độ tuổi thiếu niên, anh quen với mấy đứa nhà Cunningham ở Old Sarum, một gia tộc đông đúc và khó hiểu sống trên mạn bắc quận hạt, họ lập thành một thứ gần như băng đảng chưa từng thấy ở Maycomb. Họ chẳng làm gì nhiều, nhưng đủ để thị trấn bàn tán và cảnh giác công khai ở ba buổi giảng trong nhà thờ: họ lảng vảng quanh tiệm cắt tóc; Chúa nhật họ lên xe buýt đến Abbottsville rồi đi xem xi nê; họ dự các buổi khiêu vũ tại ổ cờ bạc Dew-Drop Inn & Fishing Camp bên cạnh bờ sông của quận hạt; họ táy máy thử rượu lậu. Không ai ở Maycomb đủ can đảm để bảo ông Radley rằng thằng con của ông đang giao du với bọn xấu.

Một đêm, trong cơn cao hứng quá độ, bọn thiếu niên mượn được chiếc xe cũ rồi chạy lùi vòng quanh quảng trường. Bọn họ không chịu để cho ông tuần cảnh già lụ khụ Conner của Maycomb bắt giữ, mà nhốt ông vào nhà xí bên ngoài toà án. Thị trấn quyết định phải ra tay. Ông Conner nói ông biết hết từng đứa trong bọn, và cương quyết bảo đảm không cho đứa nào thoát tội, vì thế bọn thiếu niên ra trình diện toà vi cảnh vì tội gây náo loạn, phá rối trật tự, hành hung và bạo hành, và dùng ngôn ngữ lăng mạ và tục tĩu trước sự hiện diện và trong tầm nghe của phụ nữ. Ông toà hỏi ông Conner tại sao ông kể thêm tội cuối cùng, ông Conner nói tụi nó chửi lớn tới nỗi ông chắc chắn là mọi bà ở Maycomb đều nghe. Ông toà quyết định đưa bọn thiếu niên ấy tới trường dạy nghề của tiểu bang. Người ta đôi khi đưa bọn thiếu niên tới đó chẳng vì lý do nào khác hơn là cho chúng có chỗ ăn ở tử tế: nó chẳng phải là nhà tù và chẳng có gì để xấu hổ. Ông Radley lại nghĩ là ở tù và xấu hổ. Nếu ông toà thả Arthur, ông Radley cam đoan Arthur sẽ không gây rắc rối nữa. Biết rằng lời nói của ông Radley là giấy bảo lãnh, ông toà vui lòng thả.

Mấy đứa kia vô trường dạy nghề và được học trường cấp hai tốt nhất của tiểu bang; một đứa trong bọn rốt cuộc còn cố học xong trường kỹ sư ở Auburn. Ngày trong tuần cũng như Chúa nhật cửa nhà Radley đóng kín, và suốt mười lăm năm chẳng thấy đứa con trai của ông Radley đâu nữa.

Nhưng đến một hôm, Jem gần như không nhớ hôm nào, có vài người, trừ Jem, thấy và nghe Boo Radley. Anh nói Atticus chẳng bao giờ nói gì nhiều về nhà Radley; mỗi khi Jem hỏi, câu trả lời duy nhất của Atticus là con lo việc của con và để nhà Radley lo việc nhà họ, họ có quyền lo việc của họ; nhưng khi chuyện ấy xảy ra, Jem kể Atticus lắc đầu nói “Ưm, ưm, ưm.”

Vì thế Jem biết chuyện phần lớn là nhờ cô Stephanie Crawford, một cô hàng xóm cáu kỉnh lắm lời, cô nói cô biết toàn bộ sự việc. Theo cô Stephanie, Boo ngồi ở phòng khách cắt mấy bài trong tờ Maycomb Tribune để dán vào cuốn vở của mình. Ông bố bước vô phòng. Khi ông Radley đi ngang, Boo đâm cây kéo vào chân bố mình, rút kéo ra, chùi kéo lên quần, rồi tiếp tục việc của anh ta.

Bà Radley chạy ra đường hét lên rằng Arthur sắp giết cả nhà, nhưng khi ông cảnh sát trưởng đến nơi, ông thấy Boo vẫn ngồi trong phòng khách cắt tờ Tribune. Hồi đó anh ta ba mươi ba tuổi.

Cô Stephanie kể rằng người ta gợi ý là một mùa ở Tuscaloosa[17] có thể tốt cho Boo, nhưng ông cụ Radley nói nhà Radley không có ai phải vô nhà thương điên. Boo không điên, nhiều khi nó chỉ lên cơn. Ông Radley thừa nhận nhốt Boo là phải, nhưng khăng khăng rằng Boo không có tội: nó không phải là kẻ tội phạm. Ông cảnh sát trưởng chẳng nỡ lòng nào giam anh ta trong tù bên cạnh đám da đen, vì thế Boo bị nhốt trong tầng hầm toà án.

Vụ đưa Boo từ tầng hầm về nhà chỉ lờ mờ trong trí nhớ của Jem. Cô Stephanie Crawford nói một số người trong hội đồng thị trấn bảo ông Radley là nếu ông không đem Boo về thì Boo sẽ chết vì ẩm mốc. Vả lại, Boo đâu có thể sống bám mãi vào lòng quảng đại của quận hạt được.

Không ai biết ông Radley doạ dẫm cách nào để giữ Boo khuất mắt mọi người, nhưng Jem nghĩ ông Radley xích anh ta vào giường gần như suốt ngày. Atticus nói không, không phải như thế, có nhiều cách khác để biến người ta thành bóng ma.

Đầu óc tôi nhốn nháo mỗi khi thấy bà Radley thỉnh thoảng mở cửa trước bước ra mép hàng hiên, đổ nước lên mấy cây chuối hoa của bà. Nhưng mỗi ngày Jem và tôi đều thấy ông Radley đi bộ vào thị trấn rồi về. Ông gầy da bọc xương, cặp mắt trong suốt, trong tới nỗi không phản chiếu ánh sáng. Gò má ông nhô cao, miệng ông rộng, môi trên mỏng, môi dưới dày. Cô Stephanie Crawford nói ông thẳng tới nỗi xem lời Chúa là phép tắc duy nhất của ông, và chúng tôi tin cô, vì dáng ông Radley thẳng như cây thông nòng súng.

Ông chẳng bao giờ nói với chúng tôi. Khi ông đi ngang, chúng tôi sẽ cúi mặt xuống nói: “Chào ông”, và ông sẽ ho đáp lời. Người con lớn của ông Radley sống ở Pensacola[18]; Giáng sinh ông ta về nhà, và là một trong số rất ít người chúng tôi thấy ra vào căn nhà đó. Từ ngày ông Radley đem Arthur về nhà, thiên hạ nói căn nhà đó chết.

Nhưng một hôm Atticus bảo rằng ông sẽ cho chúng tôi đứ đừ nếu chúng tôi làm ồn trong sân, và ông giao cho Calpurnia phận sự phạt thay ông lúc ông vắng mặt nếu bà nghe chúng tôi gây tiếng động. Ông Radley sắp chết.

Ông Radley không vội chết. Những băng ngựa gỗ chắn ngang đầu đường trước lô đất Radley, rơm trải xuống vỉa hè, xe cộ bị đổi hướng qua con đường phía sau. Bác sĩ Reynolds đậu xe hơi trước nhà chúng tôi rồi đi bộ qua nhà Radley mỗi khi ông ghé đến thăm bệnh. Nhiều hôm Jem và tôi rón rén quanh sân. Cuối cùng mấy băng ngựa gỗ được đem đi, và chúng tôi đứng trên hiên trước nhìn ông Radley đi chuyến cuối cùng ngang nhà chúng tôi.

Calpurnia trầm ngâm phun nước bọt xuống sân và thì thầm: “Đi rồi kẻ tồi tệ nhất mà Chúa đã ban cho cuộc sống.” Chúng tôi ngạc nhiên nhìn bà, vì Calpurnia hiếm khi phê bình cách sống của người da trắng.

Bà con lối xóm nghĩ Boo sẽ xuất hiện sau khi ông Radley xuống ba thước đất, nhưng một chuyện khác xảy ra: anh của Boo từ Pensacola trở về thế chỗ ông Radley. Khác biệt duy nhất giữa ông ta và ông bố là tuổi tác. Jem nói ông Nathan Radley cũng “mua bông gòn”. Tuy nhiên, ông Nathan đáp lời khi chúng tôi chào, và đôi khi chúng tôi thấy ông từ thị trấn trở về với tờ tạp chí trong tay.

Chúng tôi càng kể nhiều cho Dill về nhà Radley thì nó càng muốn biết, nó càng đứng ôm cột đèn ở góc đường lâu bao nhiêu thì nó càng thắc mắc bấy nhiêu.

Nó lẩm bẩm: “Không biết hắn làm gì trong đó. Có vẻ hắn sẽ thò đầu ra cửa.”

Jem nói: “Ừ, bảo đảm hắn ra ngoài lúc trời tối như mực. Cô Stephanie Crawford kể một lần cô thức giấc lúc nửa đêm thấy hắn nhìn cô xuyên qua cửa sổ… nói đầu hắn như cái sọ người nhìn cô. Ban đêm mày chưa bao giờ thức dậy nghe tiếng hắn à, Dill? Hắn đi như vầy nè…” Jem lết bàn chân trên sỏi. “Mày nghĩ coi tại sao ban đêm cô Rachel khoá chặt cửa? Nhiều buổi sáng tao thấy dấu chân hắn trong sân sau nhà tao, một đêm tao nghe hắn cào lưới cửa sau, nhưng lúc Atticus ra tới nơi thì hắn đã đi mất tiêu.”

Dill nói: “Không biết bộ dạng hắn thế nào?”

Jem tả một tướng mạo hợp lý của Boo: xét theo dấu chân, Boo cao khoảng một thước chín mươi lăm; hắn ăn sống thịt sóc và bất kỳ con mèo nào hắn bắt được, đó là lý do tay hắn vấy máu – nếu ăn sống thịt thú vật thì không bao giờ rửa sạch máu. Mặt hắn có vết sẹo dài lởm chởm cắt ngang; răng hắn vàng mục; mắt hắn lồi, và gần như lúc nào hắn cũng chảy nước dãi.

Dill nói: “Mình thử nhử hắn ra ngoài. Tao muốn thấy bộ dạng hắn.”

Jem nói nếu Dill muốn chết thì nó chỉ cần tới gõ cửa trước.

Cuộc đột kích đầu tiên của chúng tôi xảy ra chỉ vì Dill đánh cuộc với Jem cuốn Con ma xám[19] lấy hai cuốn Tom Swift: Jem sẽ thua vì anh không qua nổi cổng nhà Radley. Cả đời Jem chưa bao giờ từ chối một thách thức nào.

Jem suy nghĩ ba ngày. Tôi đoán anh thích giữ danh dự hơn là giữ cái đầu của anh, vì Dill làm anh chấp nhận dễ dàng. Ngày đầu Dill nói: “Mày sợ.” Jem nói: “Hổng sợ, chỉ tôn trọng thôi.” Hôm sau Dill nói: “Mày sợ tới nỗi thậm chí không dám thò ngón cẳng cái vô sân trước.” Jem nói anh nghĩ là anh không sợ, cả đời anh mỗi hôm đi học đều đi ngang nhà Radley.

Tôi nói: “Lần nào cũng chạy.”

Nhưng đến hôm thứ ba Dill tóm được anh, khi nó bảo Jem rằng dân Meridian chắc chắn không nhát như dân Maycomb, rằng nó chưa hề thấy dân nào nhát như dân Maycomb.

Điều này đủ để Jem bước thẳng đến góc đường, rồi ngừng lại dựa cột đèn nhìn cánh cổng lắt lẻo như khùng trên bản lề tự chế.

Khi chúng tôi đến nhập bọn, Jem nói: “Dill Harris, tao hy vọng cái đầu mày hiểu thủng ra là hắn sẽ giết hết tụi mình không chừa đứa nào. Đừng trách tao khi hắn móc mắt mày. Mày đầu têu, nhớ lấy.”

Dill kiên nhẫn lẩm bẩm: “Mày vẫn sợ.”

Jem muốn Dill biết một lần này cho xong là anh không sợ bất kỳ cái gì. “Chỉ vì tao không nghĩ được cách nào nhử hắn ra mà tụi mình không bị hắn bắt.” Vả lại, Jem còn phải nghĩ tới con nhỏ em của anh nữa.

Khi anh nói thế, tôi biết anh sợ. Jem có con nhỏ em để nghĩ tới khi tôi thách anh nhảy từ nóc nhà xuống, anh hỏi: “Nếu tao chết thì mày ra làm sao?” Rồi anh nhảy, đáp xuống không thương tích, và ý thức trách nhiệm của anh trốn biệt cho tới khi anh đương đầu với nhà Radley.

Dill hỏi: “Mày chạy làng hả? Nếu mày bỏ cuộc thì…”

Jem nói: “Dill, trong mấy vụ này mày phải suy nghĩ. Để tao nghĩ một lát… đại khái giống như làm cho con rùa thò ra…”

Dill hỏi: “Làm cách nào?”

“Đốt que diêm bên dưới nó.”

Tôi bảo Jem nếu anh đốt nhà Radley thì tôi sẽ mách Atticus.

Dill nói đốt que diêm bên dưới con rùa là độc ác.

Jem làu bàu: “Hổng độc ác, chỉ thuyết phục nó thôi… khác với mày bỏ nó vô lửa.”

“Làm sao mày biết một que diêm hổng làm nó đau?”

Jem nói: “Rùa không có cảm giác, đồ ngu.”

“Mày có bao giờ là rùa chưa, hả?”

“Trời trăng ơi, Dill! Bây giờ để tao suy nghĩ… coi bộ mình có thể lung lay hắn…”

Jem đứng trầm ngâm lâu tới nỗi Dill nhượng bộ thêm một chút: “Tao sẽ không nói mày chạy làng, và sẽ đổi cho mày cuốn Con ma xám chỉ cần mày tới đụng vô cái nhà.”

Jem sáng lên: “Đụng cái nhà thôi hả?”

Dill gật.

“Bây giờ chắc chắn chỉ vậy thôi nhe? Tao không muốn mày réo thêm chuyện gì khác ngay sau khi tao quay lại.”

Dill nói: “Ừ, chỉ vậy thôi. Hắn có thể ra đuổi bắt mày lúc hắn thấy mày trong sân, khi đó Scout với tao sẽ nhảy lên đè hắn xuống cho tới khi tụi mình bảo được với hắn là mình sẽ không làm hại hắn.”

Chúng tôi rời góc phố, băng qua con đường nhỏ trước nhà Radley, rồi ngừng ở cổng.

Dill nói: “Tới đi chứ, Scout với tao ở ngay sau lưng mày.”

Jem nói: “Tao sẽ tới, đừng thúc tao.”

Anh bước tới góc lô đất, rồi lại quay về, nghiên cứu địa thế trơ trụi như thể đang tìm cách tốt nhất để xâm nhập, vừa cau mày vừa gãi đầu.

Khi ấy tôi cười nhạo anh.

Jem mở tung cánh cổng, chạy tới bên hông nhà, dùng lòng bàn tay vỗ nó rồi chạy ngược về vượt qua chúng tôi, không chờ xem vụ đột nhập của anh có thành công hay không. Dill và tôi theo sát gót anh. Sau khi an toàn trên hiên nhà mình, hổn hà hổn hển, chúng tôi quay nhìn lại.

Căn nhà cũ vẫn thế, rũ rượi và bệnh hoạn, nhưng khi nhìn chăm chú tới cuối đường chúng tôi nghĩ mình thấy một cánh cửa chớp bên trong lay động. Lách cách. Một lay động rất nhỏ, hầu như không thấy, rồi căn nhà lặng yên.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2

 

Đầu tháng Chín Dill chia tay chúng tôi để về lại Meridian. Chúng tôi tiễn nó lên chuyến xe đò năm giờ, tôi đau khổ vì vắng nó cho đến khi chợt nhớ là một tuần nữa mình sẽ bắt đầu đi học. Đời tôi chưa bao giờ mong đợi điều gì bằng đi học. Mùa đông tôi thường lên căn nhà trên cây giờ này sang giờ khác nhìn qua tới sân trường, theo dõi đám con nít bằng chiếc ống nhòm phóng lớn gấp đôi mà Jem đã cho tôi, học các trò chơi của tụi nó, ngó theo cái áo khoác đỏ của Jem len lỏi trong đám chơi bịt mắt bắt dê, thầm kín chia sẻ những rủi ro và chiến thắng nho nhỏ của tụi nó. Tôi ao ước được nhập bọn với chúng.

Jem hạ cố dẫn tôi đến trường ngày đầu tiên, một việc thường do cha mẹ làm, nhưng Atticus nói Jem muốn chỉ cho tôi biết chỗ lớp học của tôi. Tôi nghĩ có tiền bạc trao tay trong vụ này, vì lúc chúng tôi chạy lon ton qua góc đường ngang nhà Radley tôi nghe tiếng leng keng khác thường trong túi Jem. Khi chúng tôi bước chậm lại ở ven sân trường, Jem cẩn thận giải thích là khi ở trường tôi đừng quấy rầy anh, tôi đừng tới anh để đòi diễn một màn trong cuốn Tarzan và Người Kiến, đừng làm anh ngượng vì nhắc tới cuộc sống riêng tư của anh, cũng đừng lẽo đẽo theo anh lúc ra chơi hay buổi trưa. Tôi phải bám với tụi lớp một và anh sẽ dính với đám lớp năm. Nói tóm lại, tôi phải để anh yên.

Tôi hỏi: “Anh muốn nói là mình không được chơi nữa hả?”

Anh nói: “Mình vẫn chơi như cũ khi mình ở nhà, nhưng rồi mày sẽ thấy… ở trường học thì khác.”

Chắc chắn là khác. Chưa hết buổi sáng đầu tiên mà cô giáo Caroline Fisher đã lôi tôi lên trước lớp, lấy thước khẻ lòng bàn tay tôi, rồi bắt tôi đứng trong góc cho tới trưa.

Cô Caroline chưa quá hai mươi mốt tuổi. Cô có mái tóc nâu đỏ tươi, má hồng, móng tay sơn đỏ thắm. Cô còn đi giày cao gót và mặc áo đầm sọc đỏ trắng. Cô trông giống và có mùi như giọt thuốc bạc hà. Cô ở trọ bên kia đường dưới chúng tôi một nhà, trong căn phòng mặt tiền trên lầu của cô Maudie Atkinson, và khi cô Maudie giới thiệu chúng tôi với cô, Jem mê mẩn mất mấy ngày.

Cô Caroline viết tên cô bằng chữ in lên bảng đen rồi nói: “Câu này nói cô là cô Caroline Fisher. Cô gốc ở Bắc Alabama, hạt Winston.” Cả lớp thì thào e sợ, liệu cô có mang thói lập dị đặc biệt của vùng đó hay không. (Khi Alabama tách khỏi Liên Bang ngày 11 tháng Giêng năm 1861, hạt Winston tách khỏi Alabama, và mọi đứa con nít ở hạt Maycomb đều biết vụ này). Bắc Alabama đầy các tập đoàn rượu[20], bọn Đại La[21], công ty thép, đảng viên Cộng hoà[22], giáo sư đại học, và bọn không có gốc gác.

Cô Caroline bắt đầu ngày học bằng cách đọc cho chúng tôi truyện con mèo. Mấy con mèo chuyện trò dông dài, mặc quần áo xinh xắn và sống trong căn nhà ấm áp bên dưới bếp lò. Đến đoạn bà Mèo gọi cửa hàng dược phẩm đặt mua món chuột mạch nha tẩm sô cô la, cả lớp ngọ nguậy như cái thùng đầy giun nho. Cô Caroline hình như không biết tụi nhỏ học lớp một mặc áo vải bố và váy bằng vải bao bột mì rách rưới phần lớn đã chặt cây bông gòn và cho heo ăn từ lúc mới biết đi, chúng vô cảm với thứ văn chương hư cấu. Cô Caroline đọc đến cuối truyện rồi nói: “, ôi chao, thích không chứ?”

Sau đó cô lên bảng viết các mẫu tự khổng lồ bằng chữ in vuông vắn, rồi quay xuống lớp hỏi: “Có em nào biết đây là cái gì không?”

Tất cả đều biết; phần lớn tụi học lớp một năm ngoái đã ở lại lớp.

Tôi đoán cô chọn tôi vì cô biết tên tôi. Khi tôi đọc bảng chữ cái, lông mày cô hơi nhíu lại, và sau khi bắt tôi đọc lớn gần hết cuốn Em Tập Đọc và bảng giá thị trường chứng khoán trên tờ Mobile Register, cô khám phá ra tôi biết chữ và nhìn tôi càng với vẻ không ưa. Cô Caroline bảo tôi nói với cha tôi đừng dạy tôi nữa, vì như thế sẽ rắc rối cho việc đọc của tôi.

Tôi ngạc nhiên nói: “Dạy em? Cô Caroline, ổng chưa dạy em cái gì. Atticus hổng có thời giờ dạy em cái gì.” Khi cô Caroline mỉm cười lắc đầu, tôi nói thêm: “Sao nè, buổi tối ổng đừ tới nỗi chỉ ngồi đọc trong phòng khách thôi.”

Cô Caroline tử tế hỏi: “Nếu ông ấy không dạy em thì ai dạy? Phải có người dạy. Em đâu có sinh ra là đọc được tờ Mobile Register.”

“Jem nói em như vậy mà. Anh ấy đọc trong sách nói em là Bullfinch[23] thay vì là Finch. Jem nói tên em thật ra là Jean Louise Bullfinch, em bị đánh tráo lúc mới sinh, chứ thật ra em là…”

Cô Caroline rõ ràng nghĩ tôi đang nói dóc. Cô bảo: “Mình đừng để trí tưởng tượng của mình chạy lung tung, em à. Bây giờ em nói ba em đừng dạy em nữa. Tốt nhất là tập đọc với đầu óc còn mới mẻ. Em nói với ba là từ nay cô sẽ đảm nhận việc dạy đọc và sẽ cố cứu vãn thiệt hại…”

“Thưa cô?”

“Ba em không biết cách dạy. Bây giờ em về chỗ ngồi được rồi.”

Tôi lí nhí xin lỗi và về chỗ để ngẫm nghĩ tội của mình. Tôi chưa bao giờ chủ tâm tập đọc, nhưng chẳng hiểu sao tôi đã mê mải trái phép xem mấy tờ nhật báo. Trong những giờ đi nhà thờ dài đăng đẵng – phải chăng tôi đã học lúc ấy? Tôi không nhớ có khi nào không đọc được các bài thánh ca. Bây giờ tôi buộc phải nghĩ đến, tự nhiên tôi biết đọc, giống như biết cài đũng bộ áo lót liền quần mà không cần ngoái lại, hay thắt hai cái nơ với mớ dây giày rối. Tôi không nhớ nổi lúc nào mấy hàng chữ trên ngón tay di động của Atticus tách thành những từ rời, nhưng tôi đã đăm đăm nhìn hàng chữ trong mọi buổi tối của đời mình, khi lắng nghe tin tức hằng ngày, khi nghe Dự luật sắp ban hành thành Luật, khi nghe nhật ký của Lorenzo Dow[24] – nghe bất kỳ cái gì Atticus đang tình cờ đọc khi tôi bò vào lòng ông mỗi tối. Tôi chẳng bao giờ thích đọc mà chỉ sợ mình không theo kịp ngón tay. Người ta đâu có thích thở.

Tôi biết mình đã làm cô Caroline khó chịu, vì thế tôi được yên thân nhìn ra cửa sổ cho tới giờ ra chơi khi Jem kéo tôi ra khỏi tụi lớp một trong sân trường. Anh hỏi tôi xoay xở ra sao. Tôi kể cho anh.

“Nếu không bị bắt ở lại thì em đã đi về. Jem, cái cô mắc dịch đó nói Atticus dạy em đọc và bảo ổng phải thôi…”

Jem an ủi: “Đừng lo, Scout. Cô giáo tụi tao nói cô Caroline đang đưa ra cách dạy mới. Cô ấy học cách đó trong trường đại học. Chẳng mấy chốc tất cả các lớp đều học cách đó hết. Theo cách đó mày không cần phải học bằng sách nhiều… giống như nếu mày muốn học về con bò thì mày đi vắt sữa bò, hiểu không?”

“Hiểu, Jem, nhưng em đâu có muốn học về con bò, em…”

“Mày phải học. Mày phải biết về con bò, ở hạt Maycomb thì trâu bò quan trọng lắm.”

Tôi đành phải hỏi Jem là anh điên rồi hay sao.

“Đồ cứng đầu, tao chỉ cố nói cho mày cái cách người ta mới dùng để dạy lớp một. Cách đó là Hệ thống Thập phân Dewey[25].”

Chưa bao giờ nghi vấn những lời tuyên bố của Jem, tôi thấy bây giờ chẳng có lý do gì để hoài nghi. Hệ thống Thập phân Dewey một phần nào gồm có cô Caroline phe phẩy trước mặt chúng tôi mấy tấm thẻ in chữ “mèo”, “chuột”, “người”. Hình như cô chẳng mong chờ chúng tôi có ý kiến, và lớp học im lặng đón nhận những phát giác đầy ấn tượng này. Tôi chán, vì thế tôi bắt đầu viết thư cho Dill. Cô Caroline bắt gặp tôi đang viết, cô bảo tôi nói với cha tôi ngưng dạy tôi viết. Cô nói: “Với lại lớp một mình không viết, mình tập đồ. Đến lớp ba các em mới tập viết.”

Đây là tội của Calpurnia. Tôi đoán vào những ngày mưa tôi phải tập viết để khỏi làm bà phát điên lên. Bà bày việc tập viết cho tôi bằng cách nguệch ngoạc các mẫu tự đậm nét lên đầu tấm bảng, rồi chép lại một chương Kinh Thánh bên dưới. Nếu tôi bắt chước được nét chữ của bà, bà thưởng cho tôi một lát bánh mì phết bơ và đường. Trong việc dạy dỗ của Calpurnia không có chuyện tình cảm: ít khi tôi làm bà hài lòng và ít khi bà thưởng cho tôi.

Cô Caroline nói: “Em nào về nhà ăn trưa giơ tay lên,” làm gián đoạn nỗi phẫn uất mới của tôi đối với Calpurnia.

Đám trẻ trong phố giơ tay, và cô nhìn khắp chúng tôi.

“Em nào mang thức ăn trưa theo thì để lên bàn của mình.”

Các xô mật mía chẳng hiểu từ đâu xuất hiện, và trần nhà lấp lánh ánh kim loại. Cô Caroline đi ngược xuôi các dãy bàn nhìn chăm chú xoi mói vào các xô đựng thức ăn trưa, gật đầu nếu thức ăn làm cô hài lòng, hơi cau mày trước thứ khác. Cô dừng lại ở bàn của Walter Cunningham. Cô hỏi: “Thức ăn của em đâu?”

Mặt Walter Cunningham cho cả lớp một biết nó bị giun móc. Bàn chân không giày của nó cho chúng tôi biết vì sao nó có giun. Người bị giun móc đi chân đất trên sân gia súc và bãi tắm heo. Nếu Walter có giày thì nó sẽ xỏ giày hôm tựu trường rồi cất đi cho đến giữa mùa đông. Nhưng nó mặc áo sơ mi sạch và bộ áo liền quần chắp vá gọn gàng.

Cô Caroline hỏi: “Sáng nay em quên mang thức ăn trưa à?”

Walter nhìn thẳng trước mặt. Tôi thấy bắp thịt trên cái hàm gầy guộc của nó co giật.

Cô Caroline hỏi: “Sáng nay em quên phải không?” Hàm Walter lại co giật.

Cuối cùng nó lẩm bẩm: “Dạ-ạ.”

Cô Caroline đi về bàn của cô rồi mở ví. Cô bảo Walter: “Hai mươi lăm xu đây[26]. Hôm nay đi ăn dưới phố. Ngày mai em trả lại cô.”

Walter lắc đầu. Nó lè nhè nho nhỏ: “Dạ không, cám ơn cô.”

Giọng cô hơi có vẻ sốt ruột: “Đây, Walter, đến cầm lấy.”

Walter lại lắc đầu.

Khi Walter lắc đầu đến lần thứ ba, có đứa xì xào: “Nói cho cô nghe đi, Scout.”

Tôi quay lại thấy hầu như cả đám dân trong phố và toàn bộ phái đoàn đi xe buýt[27] đang nhìn tôi. Cô Caroline và tôi đã nói chuyện với nhau hai lần rồi, và tụi nó nhìn tôi với niềm tin ngây thơ rằng sự quen biết đó giữa cô với tôi sẽ dẫn đến hiểu nhau.

Tôi tốt bụng đứng lên vì Walter: “À… thưa cô Caroline?”

“Chuyện gì vậy, Jean Louise?”

“Thưa cô Caroline, nó là thằng Cunningham.”

Tôi ngồi xuống.

“Gì vậy, Jean Louise?”

Tôi nghĩ mình nói đã đủ rõ. Đối với cả bọn chúng tôi như thế đủ rõ: Walter Cunningham ngồi đó nói dóc tổ. Nó đâu có quên đem bữa ăn trưa, nó không có bữa trưa. Hôm nay nó không có, ngày mai cũng không, và cả hôm sau nữa. Có lẽ trong đời nó chưa từng thấy ba đồng hai mươi lăm xu cùng một lúc bao giờ.

Tôi cố gắng một lần nữa: “Thưa cô Caroline, Walter là một thằng nhà Cunningham.”

“Xin lỗi, em nói gì, Jean Louise?”

“Đâu có gì mà xin lỗi, thưa cô, ít lâu nữa cô sẽ biết hết dân trong hạt. Nhà Cunningham chẳng bao giờ cầm cái gì mà họ không trả lại được… không cầm giỏ quyên góp trong nhà thờ, không cầm tem phiếu[28]. Họ không bao giờ cầm bất kỳ cái gì của bất kỳ ai, họ xoay xở với cái gì họ có. Họ không có nhiều, nhưng họ cố xoay xở.”

Hiểu biết đặc biệt mà tôi có được về gia tộc Cunningham – chỉ một nhánh thôi – là nhờ chuyện xảy ra hồi mùa đông năm ngoái. Cha của Walter là một thân chủ của Atticus. Một đêm, sau cuộc nói chuyện rầu rĩ trong phòng khách nhà chúng tôi về vấn đề thứ tự thừa kế của ông, trước khi về ông Cunningham nói: “Ông Finch, tôi không biết bao giờ có thể trả công cho ông được.”

Atticus nói: “Đừng lo chuyện đó, Walter.”

Khi tôi hỏi Jem thứ tự thừa kế là gì, Jem tả nó giống như tình trạng mình bị kẹt đuôi trong khe nứt. Tôi hỏi Atticus liệu có bao giờ ông Cunningham trả công cho mình không.

Atticus nói: “Không trả bằng tiền, nhưng ba sẽ nhận được thù lao trước cuối năm. Con cứ chờ xem.”

Chúng tôi chờ xem. Một buổi sáng Jem và tôi thấy đống củi ở sân sau. Sau đó một bao hạt hạnh xuất hiện trên thềm sau. Giáng sinh thấy một thùng dây leo và cọng ô rô để trang hoàng. Mùa xuân năm đó khi chúng tôi thấy một bao cói đầy củ cải, Atticus nói ông Cunningham đã trả cho mình quá nhiều.

Tôi hỏi: “Tại sao ông ấy trả cho ba như vậy?”

“Vì đó là cách duy nhất ông ấy có thể trả cho ba. Ông ấy không có tiền.”

“Mình có nghèo không, Atticus?”

Atticus gật đầu: “Mình đúng là nghèo.”

Mũi Jem nhăn lại. “Mình có nghèo như nhà Cunningham không?”

“Không nghèo như thế. Cunningham là dân quê, nông dân, họ bị nặng nhất trong vụ thị trường chứng khoán sập[29].”

Atticus nói những người làm văn phòng nghèo vì nông dân nghèo. Vì hạt Maycomb là vùng nông nghiệp, bác sĩ, nha sĩ, luật sư khó kiếm được năm mười xu. Vấn đề thứ tự thừa kế chỉ là một phần lo lắng của ông Cunningham. Mấy mẫu đất không gặp vấn đề thừa kế thì đã bị cầm cố sát sàn sạt, và số tiền ít ỏi ông kiếm được phải dùng để trả vào tiền lãi. Nếu biết giữ miệng thì ông Cunningham có thể kiếm được việc làm ở Sở Phát triển Lao động[30], nhưng như thế đất đai của ông sẽ bị hoang phế vì ông phải bỏ mặc nó, và ông thà nhịn đói để giữ đất và đi bầu theo ý ông. Atticus nói ông Cunningham thuộc loại bướng bỉnh không chịu thay đổi.

Vì nhà Cunningham không có tiền trả luật sư, họ đành trả cho chúng tôi bằng những món họ có. Atticus nói: “Con có biết bác sĩ Reynolds cũng hành nghề giống như vậy không? Ông ấy tính công mỗi lần đỡ đẻ cho một số bà bằng một thúng khoai tây. Cô Scout này, nếu cô chịu chú ý thì tôi sẽ nói cho cô vấn đề thứ tự thừa kế là gì. Định nghĩa của Jem đôi khi chỉ suýt soát đúng.”

Nếu tôi có thể giải thích những điều này cho cô Caroline thì lẽ ra tôi sẽ tránh cho mình được một số phiền phức và khỏi làm cô Caroline mất thể diện sau đó. Nhưng tôi không đủ khả năng giải thích sự việc rõ ràng như Atticus, vì thế tôi nói: “Cô làm nó xấu hổ, cô Caroline. Walter chẳng có đồng hai mươi lăm xu nào ở nhà để trả cho cô, mà cô thì không xài củi đốt lò.”

Cô Caroline đứng chết sững, rồi nắm cổ áo tôi lôi ngược về bàn cô. Cô nói: “Jean Louise, sáng nay cô chịu em hết nổi rồi. Em làm cái gì cũng tréo ngoe, em à. Đưa tay ra.”

Tôi nghĩ cô sẽ phun nước bọt vào tay tôi, đó là lý do duy nhất mọi người ở Maycomb chìa tay ra: đó là cách đóng dấu giao kèo miệng theo truyền thống lâu đời. Tự hỏi cô và tôi đã thoả thuận điều gì, tôi quay nhìn tụi trong lớp để tìm câu trả lời, nhưng cả lớp bối rối nhìn lại tôi. Cô Caroline cầm cây thước lên cho tôi sáu cái khẻ nhẹ và nhanh, rồi bảo tôi đứng vào góc. Một trận cười ồ nổi lên khi rốt cuộc cả lớp chợt hiểu cô Caroline đã phạt tôi.

Khi cô Caroline doạ sẽ cho cả lớp cùng chung số phận, tụi lớp một lại cười ầm, và chỉ nguội lạnh lại khi bóng cô Blount trùm lên tụi nó. Cô Blount là dân Maycomb chưa thạo bí mật của Hệ thống Thập phân, cô xuất hiện ở cửa lớp, tay chống nạnh tuyên bố: “Nếu tôi nghe một tiếng động nào nữa từ phòng này thì tôi sẽ đốt rụi mọi người trong đây. Cô Caroline, lớp sáu không chú ý học hình tháp được vì tiếng ầm ĩ này!”

Tôi tạm trú trong góc không lâu. Nhờ tiếng chuông cứu, cô Caroline nhìn cả lớp xếp hàng ra ăn trưa. Vì là đứa cuối cùng rời phòng, tôi thấy cô ngồi phịch xuống ghế, gục đầu trong cánh tay. Giá mà cô cư xử thân thiện hơn với tôi thì tôi đã cảm thấy tội nghiệp cô. Cô thuộc loại nhỏ bé xinh xắn.

 

 

 

 

 

3

 

Tôi khá mãn nguyện lúc tóm được Walter Cunningham trong sân trường, nhưng khi tôi đang chà mũi nó dưới đất, Jem đi ngang qua bảo tôi ngừng lại. Anh nói: “Mày lớn hơn nó.”

Tôi nói: “Nó gần bằng tuổi anh. Nó làm em làm cái gì cũng tréo ngoe.”

“Buông nó ra, Scout. Tại sao vậy?”

Tôi nói: “Nó không có thức ăn trưa,” rồi tôi giải thích chuyện tôi can dự vào vụ ăn uống của Walter.

Walter đã lồm cồm dậy và đứng im nghe Jem và tôi. Nắm tay nó đã hơi cong lên như thể chờ trận tấn công của hai đứa chúng tôi. Tôi sấn tới để đuổi nó đi, nhưng Jem đưa tay ra ngăn tôi lại. Anh xem xét Walter với vẻ thăm dò. Anh hỏi: “Ba mày là ông Walter Cunningham ở Old Sarum hả?” Walter gật.

Walter trông như thể được nuôi bằng thức ăn cho cá: mắt nó xanh như mắt Dill Harris, có viền đỏ và chảy nước. Mặt nó nhợt nhạt, ngoại trừ chỗ đầu mũi ướt hồng. Nó mò mẫm sợi dây đeo bộ áo liền quần, bồn chồn khều cái móc kim loại.

Jem bỗng nhe răng cười với nó. Anh nói: “Về nhà ăn trưa với tụi tao, Walter. Tụi tao hân hạnh tiếp mày.”

Mặt Walter sáng lên, rồi tối sầm lại.

Jem nói: “Ba tụi tao là bạn với ba mày. Con Scout này nó điên… nó không đánh mày nữa đâu.”

Tôi nói: “Chuyện đó em không chắc à.” Jem tự ý hứa thay tôi làm tôi khó chịu, nhưng giờ nghỉ trưa quý báu đang trôi qua. “Ừ Walter, tao không nhào tới mày nữa đâu. Mày thích món đậu bơ không? Bà Cal nhà tao là đầu bếp thượng thặng.”

Walter đứng ỳ tại chỗ, cắn môi. Jem và tôi bỏ cuộc, nhưng khi chúng tôi về gần đến nhà Radley, Walter gọi: “Ê, tao tới!”

Khi Walter bắt kịp chúng tôi, Jem vui vẻ trò chuyện với nó. Anh vừa chỉ nhà Radley vừa thân mật nói: “Ngáo ộp sống trong đó. Có nghe nói tới nó chưa, Walter?”

Walter nói: “Tao có nghe. Năm đầu tiêng tới chường tao ăng mấy hạt hồ đào suýt chết… người ta nói nó tẩn thuốc độc rồi liệng qua hàng rào chường.”

Lúc này Jem có vẻ ít sợ Boo Radley nhờ có Walter và tôi đi bên cạnh. Thật vậy, Jem đâm ra khoác lác, anh bảo Walter: “Tao đã có lần đi tuốt vô cái nhà đó.”

Tôi nói với mây trên trời: “Ai đã có lần đi tuốt vô cái nhà đó thì đừng nên chạy mỗi lần đi ngang nó nữa.”

“Ai chạy vậy, cô Đứng Đắn?”

“Anh chứ ai, mỗi khi hổng có ai đi với anh.”

Lúc chúng tôi về đến bậc thềm trước nhà, Walter đã quên nó là một thằng Cunningham. Jem chạy vào bếp xin Calpurnia dọn thêm một đĩa nữa, chúng tôi có bạn. Atticus chào hỏi Walter và bắt đầu thảo luận với nó về chuyện mùa màng mà cả Jem lẫn tôi đều không hiểu.

“Thưa ông Finch, lý do cháu không qua được lớp một là vì mỗi mùa xuân cháu phải ở ngoài đồng giúp tía đốn cây, nhưng bây giờ ở nhà có một lý do khác là kích thước thửa ruộng.”

Tôi hỏi: “Có phải nhà mày trả cho ổng thúng khoai tây không?” Nhưng Atticus nhìn tôi lắc đầu.

Trong khi Walter chất đống thức ăn lên đĩa của nó, nó và Atticus trò chuyện với nhau như hai người lớn khiến Jem và tôi ngạc nhiên. Atticus đang giải thích cặn kẽ các khó khăn của nghề nông thì Walter xen vào hỏi nhà có mật đường không. Atticus gọi Calpurnia, bà mang bình xi rô vào. Bà đứng chờ cho Walter tự rót. Walter rót ngập ngụa xi rô lên rau và thịt trên đĩa nó. Có lẽ nó đã rót luôn vào ly sữa nếu tôi không hỏi mày làm cái quái gì vậy.

Cái đĩa lót bằng bạc kêu lách cách khi nó đặt bình xi rô xuống, rồi nó lập tức đặt hai tay lên đùi. Sau đó nó cúi đầu.

Atticus lại nhìn tôi lắc đầu. Tôi phản đối: “Nhưng mà nó dìm ngập thức ăn của nó trong xi rô. Nó rót tràn lên…”

Ngay lúc đó Calpurnia yêu cầu tôi có mặt trong bếp.

Bà thịnh nộ, và khi nổi cơn tam bành thì văn phạm của Calpurnia trở nên lạng quạng. Khi yên bình, văn phạm của bà đúng như bất cứ ai ở Maycomb. Atticus nói Calpurnia có học nhiều hơn phần lớn những người da màu.

Bà nhíu mắt nhìn xuống tôi, những lằn nhỏ xíu quanh mắt bà đậm lại. Bà thì thầm một cách dữ tợn: “Có một số người hổng ăng như mình, nhưng hổng ai khiến cô cãi với họ tại bàng ăng khi họ hổng ăng như cô. Thằng nhỏ đó là bạng cô và níu nó muốn ngốn cái khăng bàng thì cô để nó ngốn, cô nghe chưa?”

“Cal, nó hổng phải là bạn, nó chỉ là một thằng Cunningham…”

“Im miệng cô! Hổng cầng biếc nó là ai, bất kỳ ai đặt chưn vô nhà này đều là bạng cô, và đừng để tui bắc gặp cô phê bình kiểu cách của họ làm như cô cao quý ghê gớm lắm! Nhà cô có thể khá hơn Cunningham, nhưng cái cách cô coi khinh họ thì hổng ra cái gì… níu cô hông biết cách cư xử ở bàng ăng thì cô có thể cứ việc ngồi đây ăng trong bếp!”

Calpurnia tống tôi qua cánh cửa lắc vào phòng ăn bằng một cái đét nhức nhối. Tôi lấy đĩa của mình rồi vào ăn xong bữa trong bếp, nhưng nhờ vậy tôi không bị bẽ mặt phải đối diện với họ nữa. Tôi bảo Calpurnia cứ chờ đấy, tôi sẽ sửa lưng bà: một ngày nào bà không để ý, tôi sẽ bỏ đi tự trầm ở Vũng xoáy Barker rồi khi đó bà sẽ hối hận. Ngoài ra, tôi nói thêm, hôm nay bà đã làm tôi gặp một rắc rối: bà đã dạy tôi viết và đó là lỗi của bà. Bà nói: “Đừng bắng nhắng.”

Jem và Walter trở lại trường trước: tôi ở lại sau để bàn với Atticus về tội của Calpurnia cũng đáng để chạy nước rút một mình qua nhà Radley. Tôi kết luận: “Dù sao đi nữa thì bà thích Jem hơn thích con,” và đề nghị Atticus cho bà cuốn gói ngay đừng mất thời giờ.

Giọng Atticus rắn đanh: “Con có bao giờ nghĩ là Jem không làm bà lo bằng phân nửa con hay không? Ba không có ý định đuổi bà, cả bây giờ và sau này. Không có Cal một ngày thôi thì mình cũng không xoay xở được, con có bao giờ nghĩ tới chưa? Con cứ nghĩ xem Cal đã làm được bao nhiêu thứ cho con, con nghe lời bà, con hiểu chưa?”

Tôi quay lại trường và tiếp tục ghét Calpurnia cho tới khi có tiếng thét thất thanh phá tan nỗi uất ức của mình. Tôi nhìn lên thấy cô Caroline đang đứng giữa phòng, mặt cô tràn ngập nỗi kinh hoàng. Hình như trước đó cô đã hồi tỉnh lại đủ để kiên nhẫn hành nghề.

Cô hét: “Nó còn sống!”

Toàn bộ tụi con trai trong lớp đồng loạt chạy tới giúp cô. Tôi nghĩ, Chúa ơi, cô ấy sợ con chuột. Thằng Little Chuck Little có lòng nhẫn nại phi thường với mọi sinh vật, nó nói: “Nó đi hướng nào, cô Caroline? Cho tụi em biết nó đi đâu, nhanh lên! D.C….” nó quay qua thằng phía sau, “D.C., đóng cửa lại rồi mình bắt nó. Nhanh lên, cô ơi, nó đi đâu?”

Cô Caroline không chỉ ngón tay run run xuống sàn hay lên bàn, mà chỉ một đứa to kềnh càng tôi không biết. Mặt thằng Little Chuck cau lại, rồi nó dịu dàng nói: “Cô muốn nói nó à, thưa cô? Dạ-ạ, nó còn sống nhăn. Nó làm cô sợ à?”

Cô Caroline tuyệt vọng nói: “Cô vừa mới đi ngang thì nó bò ra khỏi tóc nó… bò ra khỏi tóc nó…”

Little Chuck cười toe toét: “Hổng có gì mà phải sợ con chí, cô ơi. Cô chưa bao giờ thấy chí à? Nào, cô đừng sợ, cô cứ đi về bàn cô rồi dạy cho tụi em thêm chút nữa.”

Little Chuck Little cũng là một đứa trong đám không biết bữa ăn sắp tới của nó từ đâu ra, nhưng nó là đứa lịch thiệp bẩm sinh. Bàn tay nó đỡ dưới cùi chỏ cô, rồi dắt cô Caroline tới trước lớp. Nó nói: “Nào đừng lo nữa, cô ơi. Hổng cần sợ con chí. Em đi kiếm cho cô ly nước lạnh.”

Chủ nhà con chí không tỏ một chút xíu quan tâm nào về vụ náo loạn nó đã gây ra. Nó mò mẫm chỗ da đầu phía trên trán, tìm thấy vị khách của nó rồi cấu giữa ngón cái và ngón trỏ.

Cô Caroline nhìn diễn tiến đó với vẻ u mê kinh hãi. Little Chuck đem cái ly giấy đựng nước vào, cô uống với vẻ biết ơn. Cuối cùng cô lấy lại được giọng. Cô hỏi nhỏ nhẹ: “Tên em là gì?”

Thằng nhỏ chớp mắt: “Ai, tui hả?” Cô Caroline gật.

“Burris Ewell.”

Cô Caroline soát lại cuốn sổ điểm danh. “Cô có một em mang họ Ewell ở đây, nhưng không có tên… em đánh vần tên em cho cô nhé?”

“Hổng biết đánh vần làm sao. Ở nhà gọi tui là Burris.”

Cô Caroline nói: “Nào, Burris. Cô nghĩ chiều nay nên cho em về sớm. Cô muốn em về nhà gội đầu.”

Cô lấy trong bàn ra một cuốn sách dày, lật mấy trang rồi đọc một hồi. “Một cách chữa ở nhà tốt cho… Burris, cô muốn em về nhà gội đầu bằng xà bông kiềm. Khi gội xong thì em bôi dầu hôi lên da đầu.”

“Để làm chi, thưa cô?”

“Để khử… à, chí rận. Burris, em biết mấy em khác có thể bị lây, em đâu có muốn vậy phải không?”

Thằng nhóc đứng lên. Nó là đứa ở dơ nhất mà tôi từng thấy. Cổ nó xám đen, lưng bàn tay mốc meo, ngón tay nó đen đến tận chỗ thịt mềm. Từ khoảng sạch bằng nắm tay trên mặt nó, nó soi mói nhìn cô Caroline. Không ai để ý đến nó, có lẽ vì cô Caroline và tôi đã giải trí cho cả lớp gần hết buổi sáng.

Cô Caroline nói: “Burris, ngày mai làm ơn tắm rửa trước khi em trở lại lớp.”

Thằng nhỏ cười một cách lỗ mãng: “Cô khỏi biểu tui dìa, thưa cô. Tui sắp dìa rồi… tui ở tù đủ cho năm nay rồi.”

Cô Caroline có vẻ bối rối. “Em nói vậy nghĩa là làm sao?”

Thằng nhỏ không trả lời. Nó khịt mũi khinh khỉnh.

Một đứa lớn tuổi trong lớp trả lời: “Thưa cô, nó là một thằng Ewell,” và tôi tự hỏi lời giải thích này có thất bại như cố gắng của tôi hay không. Nhưng cô Caroline hình như muốn nghe. “Cả trường đầy tụi nó. Mỗi năm tụi nó tới trường ngày đầu tiên rồi biến. Cô giám thị bắt được tụi nó tới vì cô doạ thưa ông cảnh sát trưởng, nhưng cô ấy bỏ ý định giữ tụi nó lại. Cô ấy coi như đã làm đúng luật bằng cách ghi tên tụi nó vô sổ điểm danh, rồi lùa tụi nó tới đây ngày tựu trường. Coi như cô cứ ghi tụi nó vắng mặt cả năm...”

Cô Caroline hỏi với vẻ quan tâm thật sự: “Nhưng còn ba má nó?”

Câu trả lời là: “Hổng có má, còn tía tụi nó hay gây sự.”

Burris Ewell khoái chí vì lời kể. Nó niềm nở nói: “Tới bi giờ tui đã đi học bữa đầu tiên của lớp một được ba năm rồi. Nếu năm nay tui thông minh thì người ta chắc cho tui lên lớp hai…”

Cô Caroline nói: “Làm ơn ngồi xuống, Burris,” ngay tích tắc cô nói câu đó tôi biết cô đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Thái độ hạ cố của thằng nhỏ lập tức biến thành tức giận.

“Cô thử bắt tui ngồi xuống coi, thưa cô.”

Little Chuck Little đứng lên. Nó nói: “Cứ để nó đi đi, thưa cô. Nó là thằng cục súc, một thằng cực kỳ cục súc. Nó có thể định gây sự, mà ở đây có mấy đứa nhỏ.”

Little Chuck thuộc đám nhỏ con nhất, nhưng khi Burris Ewell quay qua nó, tay phải Little Chuck thò vào túi. Nó nói: “Coi chừng, Burris. Tao giết mày lẹ như chớp. Bây giờ cút về nhà.”

Burris có vẻ sợ một đứa thấp bằng nửa nó, và cô Caroline lợi dụng lúc nó lưỡng lự, cô nói: “Burris, đi về. Nếu em không về cô sẽ gọi hiệu trưởng. Thế nào cô cũng phải báo cáo vụ này.”

Thằng nhóc khịt mũi rồi lừ đừ ung dung đi ra cửa.

Ra tới chỗ xa an toàn, nó quay lại hét: “Báo cáo đi đồ trời đánh! Chưa có con mụ cô giáo thò lò mũi xanh nào bắt được tui làm gì! Cô hổng bắt được tui đi đâu hết, thưa cô. Cô nhớ lấy, cô hổng bắt được tui đi đâu hết!”

Nó chờ tới khi chắc chắn là cô khóc, lúc đó nó lết ra khỏi trường.

Lập tức chúng tôi bu quanh bàn cô, cố gắng đủ kiểu để dỗ cô. Nó là một đứa thật cục súc… hèn hạ… cô đâu có tới để dạy mấy đứa như vậy… Maycomb hổng có kiểu đó đâu cô Caroline, hổng phải thiệt mà… bây giờ cô đừng bực dọc nữa, thưa cô. Cô Caroline, sao cô không đọc truyện cho tụi em? Sáng nay truyện con mèo đó thiệt hay…

Cô Caroline mỉm cười, xì mũi, nói: “Cám ơn các em,” rồi bảo chúng tôi phân tán ra. Cô mở cuốn sách và làm lớp một hoang mang vì truyện kể dài dòng về một con cóc sống trong hành lang.

Khi tôi đi ngang nhà Radley lần thứ tư trong ngày hôm đó – hai lần phi nước đại – nỗi buồn của tôi đậm thêm để phù hợp với căn nhà. Nếu cả năm học đầy kịch tính như ngày đầu, có lẽ sẽ hơi thú vị, nhưng viễn ảnh chín tháng nhịn đọc và viết làm tôi nghĩ tới bỏ trốn.

Đến chiều tối phần lớn kế hoạch ra đi của tôi đã hoàn tất; khi Jem và tôi đua nhau chạy trên vỉa hè để đón Atticus từ chỗ làm về, tôi không gắng sức đua với anh lắm. Thói quen của chúng tôi là chạy đón Atticus ngay khi thấy ông vòng qua góc bưu điện đằng xa. Atticus hình như đã quên vụ xấu hổ hồi trưa của tôi; ông hỏi lung tung về trường học. Câu trả lời của tôi nhát gừng, và ông không gặng hỏi tôi nữa.

Có lẽ Calpurnia cảm thấy ngày hôm nay của tôi là một ngày u ám; bà cho phép tôi xem bà chuẩn bị bữa ăn tối. Bà nói: “Nhắm mắt lại rồi há miệng ra, tôi sẽ làm cho cô ngạc nhiên.”

Bà ít khi làm bánh da lợn giòn, bà bảo chẳng lúc nào có thời giờ, nhưng hôm nay bà thư thả vì cả hai đứa chúng tôi đi học. Bà biết tôi thích bánh da lợn giòn.

Bà nói: “Hôm nay tôi nhớ cô. Nhà vắng chẳng có ai, vì thế lúc hai giờ tôi phải bật radio.”

“Sao vậy? Jem với cháu hổng bao giờ ở trong nhà trừ khi trời mưa.”

Bà nói: “Tôi biết. Nhưng một trong hai cô cậu luôn luôn trong tầm gọi. Tôi không biết mỗi ngày tôi mất bao nhiêu thời giờ chỉ để gọi cô cậu. Ôi dào,” bà vừa nói vừa đứng lên khỏi cái ghế trong bếp, “tôi chắc là đủ thời giờ để làm một chảo bánh da lợn giòn. Bây giờ cô chạy đi chỗ khác để tôi dọn bữa ăn tối ra bàn.”

Calpurnia cúi xuống hôn tôi. Tôi chạy đi, tự hỏi cái gì ám bà. Bà muốn lấy lại cảm tình với tôi, thế thôi. Bà luôn luôn khắt khe với tôi, rốt cuộc bà đã thấy cái lỗi hay cau có của bà. Bà hối hận và quá cứng đầu không chịu thú nhận. Còn tôi thì đã mệt vì các tội của ngày hôm nay.

Sau bữa ăn tối, Atticus cầm tờ báo rồi ngồi xuống gọi: “Scout, sẵn sàng đọc chưa?” Chúa Trời đưa thử thách quá sức chịu đựng của tôi, thế là tôi đi ra hàng hiên phía trước. Atticus theo sau tôi.

“Có chuyện gì không ổn à, Scout?”

Tôi bảo Atticus là tôi cảm thấy không khoẻ lắm, và nghĩ rằng nếu ông bằng lòng thì tôi sẽ không đi học nữa.

Atticus ngồi xuống ghế xích đu rồi vắt tréo chân. Ngón tay ông mò mẫm túi áo để đồng hồ; ông nói đó là cách duy nhất để ông có thể suy nghĩ. Ông thân mật ngồi yên chờ tôi, và tôi tìm cách củng cố vị thế của mình. “Ba chẳng bao giờ đến trường mà vẫn ổn thoả, vì vậy con cũng cứ ở nhà. Ba có thể dạy con như ông nội dạy ba với chú Jack.”

Atticus nói: “Không, ba không làm được. Ba phải đi làm kiếm tiền. Hơn nữa, người ta sẽ bỏ tù ba nếu ba giữ con ở nhà… tối nay cho con một liều thuốc tiêu rồi ngày mai đi học.”

“Con cảm thấy khoẻ, thật mà.”

“Ba cũng nghĩ thế. Nào, có chuyện gì?”

Từng chút từng chút, tôi kể cho ông mọi tai hoạ trong ngày, “… rồi cô nói ba dạy con sai hết, vì thế từ nay mình không được đọc nữa, không bao giờ nữa. Làm ơn đừng bắt con đi học nữa nhe ba.”

Atticus đứng lên đi tới cuối hàng hiên. Sau khi xem xét xong giàn cây hoa tím, ông rảo bước lại phía tôi.

Ông nói: “Trước tiên, nếu con biết một mẹo nhỏ, Scout, con sẽ hoà hợp dễ hơn rất nhiều với mọi loại người. Con sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu thiên hạ cho đến khi con xem xét sự việc từ quan điểm của họ…”

“Là gì, ba?”

“… đến khi con leo vô chỗ của họ rồi từ đó đi ra.”

Atticus nói hôm nay tôi đã học được nhiều thứ, và bản thân cô Caroline cũng học được vài điều. Chẳng hạn cô ấy biết đừng đưa cái gì cho một đứa Cunningham, nhưng nếu Walter và tôi đặt mình vào vị trí của cô, chúng tôi sẽ thấy đó là một sai lầm mà cô không cố ý. Chúng tôi không thể đòi trong một ngày cô biết hết mọi cách thức của Maycomb, và chúng tôi không thể trách cô khi cô không biết.

Tôi nói: “Con sẽ bị kìm kẹp. Con đâu có biết là đừng nên đọc cho cô, nhưng cô trách con… ồ Atticus, con không phải đi học!” Tôi háo hức vì chợt nảy ra một ý. “Nhớ thằng Burris Ewell không? Nó chỉ đi học ngày đầu tiên. Cô giám thị cho là đã làm đủ luật khi ghi tên nó vào sổ điểm danh…”

Atticus nói: “Con làm như vậy không được, Scout. Đôi khi thà là bẻ cong luật lệ một chút trong trường hợp đặc biệt. Trong trường hợp con, luật lệ vẫn gắt gao. Vì vậy con phải đi học.”

“Con không thấy tại sao con phải đi học khi nó được miễn.”

“Thế thì nghe đây này.”

Atticus nói ba thế hệ nhà Ewell đã xấu mặt ở Maycomb. Theo ông nhớ thì chưa ai trong nhà đó từng làm việc một ngày lương thiện. Ông nói một dịp Giáng sinh nào đó, khi đi vứt cây Giáng sinh, ông sẽ dắt tôi theo cho tôi thấy nơi và cách họ sống. Họ là người, nhưng họ sống như thú. Atticus nói: “Họ có thể đi học bất cứ lúc nào họ muốn, nếu họ thấy có tí ti ý muốn học. Có nhiều cách dùng vũ lực bắt họ đến trường, nhưng ép những người như nhà Ewell vào hoàn cảnh mới thì là vớ vẩn…”

“Nếu ngày mai con không đi học, ba sẽ ép con.”

Atticus khô khan nói: “Mình tạm gác vụ đó qua một bên. Con là cô Scout Finch, thuộc loại người bình thường. Con phải tuân theo luật.” Ông nói nhà Ewell là thành viên của một xã hội ngoài lề chỉ bao gồm nhà Ewell. Trong một số tình huống nào đó người bình thường thận trọng cho phép họ có một số đặc quyền bằng cách là đành nhắm mắt trước một số hành động của nhà Ewell. Họ không phải đi học là một. Một đặc quyền khác là ông Bob Ewell, cha của Burris, được phép săn và bẫy ngoài mùa săn bẫy.

Tôi nói: “Atticus, như vậy là xấu.” Trong hạt Maycomb, săn ngoài mùa là một tội nhẹ đối với pháp luật, nhưng là một tội tử hình dưới mắt công chúng.

Cha tôi nói: “Đúng là trái luật, và đúng là xấu, nhưng khi một kẻ dùng tiền cứu trợ để mua rượu lậu thì con cái hắn chỉ có cách khóc vì đói. Ba không biết có ông chủ đất nào quanh đây thấy bực dọc mấy đứa nhỏ đó vì cha chúng bắn mấy con thú.”

“Ông Ewell không nên làm như vậy…”

“Dĩ nhiên ông ta không nên, nhưng ông ta sẽ không bao giờ thay đổi cách sống. Con có trút bất bình của mình lên đám con ông ấy không?”

Tôi lẩm bẩm: “Không thưa ba,” và cố kháng cự lần cuối, “Nhưng nếu con vẫn phải đi học thì mình không bao giờ được đọc nữa…”

“Chuyện đó thật sự làm phiền con phải không?”

“Vâng, thưa ba.”

Khi Atticus nhìn xuống tôi, tôi thấy mặt ông mang một vẻ luôn làm tôi háo hức. Ông hỏi: “Con có biết thoả hiệp là gì không?”

“Bẻ cong luật hả?”

Ông nói: “Không phải, nó là một thoả thuận đạt được bằng cách hai bên cùng nhượng bộ. Nó như thế này. Nếu con chịu nhận là cần phải đi học thì mỗi tối mình sẽ tiếp tục đọc như mình vẫn đọc. Chịu chứ?”

“Chịu thưa ba!”

Khi ông thấy tôi chuẩn bị phun nước bọt, Atticus nói: “Mình coi như đã ký kết mà không cần theo thủ tục thường lệ.”

Lúc tôi mở cánh cửa lưới phía trước, Atticus nói: “À này, Scout, ở trường con không nên nói gì về thoả thuận của mình đâu nha.”

“Sao lại không?”

“Ba sợ việc làm của mình sẽ bị nhà chức trách uyên bác hơn kịch liệt phản đối.”

Jem và tôi đã quen với kiểu nói chúc-thư-và-di-chúc của cha mình, và chúng tôi luôn luôn được tự do ngắt lời Atticus để đòi diễn dịch khi nó vượt quá tầm hiểu biết của mình.

“Ủa, thưa ba?”

Ông nói: “Ba chưa từng đến trường, nhưng ba có cảm giác là nếu con kể cho cô Caroline là mỗi tối mình đều đọc thì cô sẽ truy ba, mà ba không muốn cô ấy truy ba.”

Tối hôm đó Atticus làm chúng tôi giật mình từng cơn khi ông nghiêm nghị đọc mấy cột báo nói về một ông ngồi trên đỉnh cột cờ chẳng vì lý do rõ ràng nào, nhưng như thế cũng đủ lý do cho thứ Bảy kế đó Jem ở mãi trong căn nhà trên cây. Jem ngồi từ sau bữa ăn sáng đến lúc mặt trời lặn, và sẽ ở qua đêm nếu Atticus không cắt đường tiếp tế của anh. Hầu như suốt ngày tôi đã leo lên leo xuống, chạy việc vặt cho anh, cung cấp sách truyện, thức ăn thức uống, và khi tôi định mang chăn đắp cho anh ngủ đêm, Atticus nói nếu tôi đừng chú ý đến anh thì Jem sẽ xuống. Atticus nói đúng.

 

 

 

 

4

 

Những ngày đi học sau đó của tôi chẳng sáng sủa gì hơn ngày đầu. Thật vậy, đó là một Đề án vô tận dần dần biến thành một Đơn vị, trong đó hàng ngàn mét giấy thủ công và màu sáp Tiểu bang Alabama mua sắm với hảo ý dạy tôi về Sinh Hoạt Nhóm nhưng lãng phí vô ích. Đến cuối năm học đầu tiên của tôi, điều mà Jem gọi là Hệ thống Thập phân Dewey được áp dụng cho cả trường, vì thế tôi không có cơ hội so sánh nó với các phương pháp dạy học khác. Tôi chỉ có thể nhìn quanh mình: Atticus và chú tôi, hai người học tại nhà, biết hết mọi thứ - ít nhất, cái gì người này không biết thì người kia biết. Ngoài ra, tôi không thể không nhận thấy tuy cha tôi đã phục vụ nhiều năm trong quốc hội tiểu bang, lần nào cũng đắc cử mà không có đối thủ, nhưng ông chẳng biết gì về những thay đổi mà các giáo viên của tôi nghĩ là cần thiết để phát triển Tinh thần Công dân. Jem được học theo kiểu nửa-Thập-phân nửa-Mũ-phạt[31], hình như anh sinh hoạt một mình hay trong nhóm cũng đều hữu hiệu, nhưng Jem là một thí dụ dở: chẳng ai có thể sáng chế ra nổi một hệ thống kèm cặp nào ngăn cách được anh với sách. Về phần tôi, tôi chẳng biết gì ngoài những điều thu lượm được từ tạp chí Time[32] và đọc mọi thứ tôi vớ được ở nhà, nhưng khi tôi lờ đờ nhích từng li từng tí theo guồng quay của hệ thống trường học hạt Maycomb, tôi không thể không cảm thấy có ấn tượng mình bị lừa. Lừa cái gì tôi chưa biết, nhưng tôi không tin mười hai năm nhàm chán bắt buộc lại chính là điều mà tiểu bang muốn dành cho tôi.

Năm học trôi qua, được ra khỏi trường trước Jem ba mươi phút, anh phải ở lại đến ba giờ, tôi chạy qua nhà Radley hết sức nhanh, không ngừng cho đến khi về tới nơi an toàn trên hàng hiên trước nhà mình. Một buổi chiều lúc tôi chạy qua, mắt tôi bắt gặp một vật gây tò mò đến nỗi tôi hít một hơi thật sâu, nhìn quanh thật lâu, rồi quay lại.

Hai cây sồi mọc trên bìa lô đất nhà Radley; rễ cây lan ra làm vỉa hè mấp mô. Một trong hai cây có một vật khiến tôi chú ý.

Một mẩu giấy thiếc lòi ra khỏi lỗ bọng cây vừa trên tầm mắt tôi, nó nhấp nháy với tôi trong nắng chiều. Tôi nhón chân lên, vội vàng nhìn quanh một lần nữa, thò tay vào bọng cây rút ra hai miếng kẹo cao su không có giấy gói bên ngoài.

Thôi thúc đầu tiên của tôi là nhét thật nhanh nó vào miệng, nhưng tôi nhớ mình đang ở đâu. Tôi chạy về nhà, đứng trên hiên trước xem xét chiến lợi phẩm của mình. Miếng kẹo nom còn mới. Tôi ngửi nó, mùi không có vấn đề gì. Tôi liếm nó rồi đợi một lát. Khi thấy mình không chết, tôi nhét nó vào miệng: kẹo Wrigley’s Double-Mint[33].

Khi Jem về, anh hỏi tôi lấy đâu ra miếng kẹo đó. Tôi bảo anh là tôi tìm thấy nó.

“Đừng ăn những thứ mày nhặt được, Scout.”

“Cái này không nằm dưới đất mà ở trên cây.”

Jem gầm gừ.

Tôi nói: “Đúng mà. Nó thòi ra trên cái cây đằng kia, cái cây từ hướng trường đi về.”

“Nhổ nó ra ngay!”

Tôi nhổ nó ra. Dù sao mùi vị cũng đã nhạt. “Em nhai nó suốt buổi chiều mà chưa chết, cũng chẳng ốm đau gì.”

Jem dậm chân. “Mày không biết là ngay cả không được sờ mấy cái cây đằng đó hả? Mày sẽ chết nếu mày sờ!”

“Anh có lần sờ căn nhà!”

“Cái đó khác! Mày đi súc miệng ngay lập tức, nghe tao nói không?”

“Không súc cũng không nghe, nó làm mất mùi trong miệng em.”

“Mày không nghe lời thì tao sẽ mách Calpurnia!”

Thay vì gặp rắc rối với Calpurnia, tôi làm theo lời Jem bảo. Vì lý do nào đó, năm học đầu tiên của tôi đã gây nên thay đổi lớn trong mối liên hệ giữa bà với tôi: sự chuyên chế, bất công và can thiệp của Calpurnia vào việc riêng của tôi đã phai dần thành những lời càu nhàu nhẹ nhàng phản đối chung chung. Về phần mình, đôi khi tôi cố hết sức để khỏi làm bà nổi giận.

Mùa hè sắp đến; Jem và tôi sốt ruột chờ. Mùa hè là mùa thích nhất của chúng tôi, là ngủ trên chõng trong hàng hiên quây lưới phía sau, hay cố ngủ trong căn nhà trên cây; mùa hè ăn cái gì cũng ngon; nó là hàng ngàn màu sắc trong cảnh quan khô nẻ; nhưng trên hết mọi thứ, mùa hè là Dill.

Nhà chức trách thả chúng tôi sớm trong ngày học cuối, Jem và tôi cùng đi bộ về nhà. Tôi nói: “Chắc ngày mai thằng Dill về đến đây.”

Jem nói: “Có lẽ ngày mốt. Mis’sippi thả tụi nó trễ hơn một ngày.”

Khi chúng tôi đi tới mấy cây sồi ở nhà Radley, tôi giơ ngón tay lên chỉ lần thứ một trăm chỗ bọng cây mà tôi đã tìm được miếng kẹo cao su, cố làm cho Jem tin là tôi đã tìm được nó ở đó, và thấy mình chỉ ngay một miếng giấy thiếc nữa.

“Tao thấy, Scout! Tao thấy…”

Jem nhìn quanh, với tay lên, rón rén bỏ túi một gói nhỏ sáng loáng. Chúng tôi chạy về nhà, đứng trên hiên trước nhìn cái hộp nhỏ chắp vá những mẩu giấy thiếc góp nhặt từ giấy gói kẹo cao su. Nó là loại hộp đựng nhẫn cưới bọc nhung đỏ tía có cái móc tí hon. Jem bật cái móc nhỏ. Bên trong là hai đồng một xu được chùi bóng loáng, đồng này đặt trên đồng kia. Jem xem xét chúng.

Anh nói: “Đầu da đỏ[34]. Một ngàn chín trăm lẻ sáu, ê Scout, một đồng là năm một ngàn chín trăm. Hai đồng này xưa lắm rồi.”

“Một ngàn chín trăm,” tôi lặp lại. “Để xem…”

“Im, tao đang nghĩ.”

“Jem, anh có nghĩ đó là chỗ giấu của ai không?”

“Ôi dào, hổng mấy ai đi ngang đó ngoại trừ mình, trừ phi là chỗ người lớn nào…”

“Người lớn không có chỗ giấu đồ. Anh nghĩ mình có nên giữ nó không, Jem?”

“Tao không biết mình có thể làm được gì, Scout. Mình trả nó lại cho ai? Tao biết chắc như đinh đóng cột là hổng có ai đi ngang đó… Cecil đi bằng đường phía sau rồi vòng tuốt qua thị trấn để về nhà.”

Cecil Jacobs sống ở đầu phố chúng tôi bên cạnh bưu điện, mỗi ngày đi học nó cuốc bộ tổng cộng một dặm để tránh nhà Radley và nhà bà cụ Henry Lafayette Dubose. Bà Dubose sống phía trên cách chúng tôi một nhà; dư luận lối xóm nhất trí rằng bà Dubose là bà già độc ác nhất trần đời. Jem sẽ không đi ngang nhà bà nếu không có Atticus bên cạnh.

“Anh nghĩ mình nên làm gì, Jem?”

Người nào tìm được thì người ấy giữ, trừ phi có ai trưng ra giấy tờ sở hữu. Thỉnh thoảng hái một nụ hoa trà, vắt một ngụm sữa nóng từ con bò của cô Maudie Atkinson vào một ngày hè, tự tiện ăn vài quả nho xạ của thiên hạ là một phần luân thường đạo lý của chúng tôi, nhưng tiền thì khác.

Jem nói: “Thôi thế này, mình sẽ giữ nó đến khi tựu trường, khi đó sẽ đi hỏi quanh mọi người để xem là của ai. Nó có thể là của đứa đi xe buýt tới trường – hôm nay nó mong cuốn gói khỏi trường quá rồi quên. Tao biết cái này phải là của ai đó. Nó được đánh bóng quá chừng thấy không? Có người cất để dành nó.”

“Ừ, nhưng tại sao có ai muốn cất kẹo cao su như vậy? Anh biết là nó không để được lâu.”

“Tao không biết, Scout. Nhưng có người quý cái này lắm…”

“Sao vậy, Jem…?”

“À, đầu da đỏ… à, nó từ người da đỏ. Nó là bùa chú mạnh lắm, nó đem may mắn cho mày. Không như gà rán lúc mày không thèm, mà đại khái như khoẻ mạnh sống lâu, và làm được mấy bài kiểm tra sáu tuần… mấy cái này có giá trị lắm đối với ai đó. Tao sẽ cất nó trong rương của tao.”

Trước khi Jem vào phòng anh, anh nhìn nhà Radley một hồi lâu. Anh hình như lại đang suy nghĩ.

Hai ngày sau Dill đến trong hào quang rực rỡ: nó đã một mình đi xe lửa từ Meridian tới Ga Maycomb (tên xã giao thôi, vì Ga Maycomb nằm trong hạt Abbott) cô Rachel đến đó đón nó bằng chiếc tắc xi duy nhất ở Maycomb; nó đã ăn trong toa ăn; nó đã thấy hai đứa sinh đôi dính nhau xuống xe lửa ở Bay St. Louis và khăng khăng bám lấy câu chuyện của nó dù bị đe doạ. Nó đã bỏ cái quần ngắn màu xanh ghê rợn cài cúc vào áo sơ mi và mặc cái quần ngắn đúng nghĩa có thắt lưng; nó hơi nặng hơn, không cao hơn, và kể là nó đã gặp ba nó. Ba Dill cao hơn cha chúng tôi, ông ấy có bộ râu đen (nhọn), và là chủ tịch công ty Đường sắt L & N.[35]

Dill vừa ngáp vừa nói: “Tao giúp cái ông lái xe lửa một lúc.”

Jem nói: “Mày lái cái tai heo, Dill. Im đi, hôm nay mình diễn cái gì?”

Dill nói: “Tom, Sam, Dick. Mình ra sân trước nhà.” Dill muốn diễn Anh em Rover[36] vì có ba vai đáng kính. Rõ ràng nó chán đóng vai lập dị cho chúng tôi.

Tôi nói: “Tao chán mấy vai đó.” Tôi chán đóng vai Tom Rover, kẻ bỗng nhiên mất trí nhớ giữa lúc xem xi nê rồi biến khỏi kịch bản cho đến màn cuối, khi người ta tìm thấy nó ở Alaska.

Tôi nói: “Đặt một vở cho tụi mình đi Jem.”

“Tao chán bịa kịch rồi.”

Mới là ngày tự do đầu tiên mà chúng tôi đã chán. Tôi tự hỏi mùa hè sẽ mang lại gì.

Chúng tôi thả bước ra sân trước, Dill đứng nhìn xuống cuối phố tới bộ mặt ảm đạm của nhà Radley. Nó nói: “Tao-thấy-mùi-thần-chết.” Khi tôi bảo nó câm miệng lại, nó nói: “Tao ngửi thấy thật mà.”

“Mày muốn nói là khi có người sắp chết thì mày ngửi được hả?”

“Không phải, tao muốn nói là tao có thể ngửi mùi người ta rồi nói họ sắp chết hay không. Một bà già chỉ cách cho tao.” Dill nghiêng tới ngửi tôi. “Jean-Louise-Finch, ba ngày nữa mày sẽ chết.”

“Dill, nếu mày không câm miệng thì tao đánh mày què giò. Tao nói thật đấy, bây giờ…”

Jem càu nhàu: “Hai đứa im đi, tụi mày làm như tụi mày tin Nhiệt quái.”

Tôi nói: “Anh làm như anh không tin.”

Dill hỏi: “Nhiệt quái là cái gì?”

Jim hỏi Dill: “Ban đêm mày chưa bao giờ đi trên đường vắng ngang qua một chỗ nóng à? Nhiệt quái là người không lên thiên đàng được, cứ đắm mình trên đường vắng rồi nếu mày đi qua nó, khi mày chết mày cũng sẽ biến thành nó, rồi ban đêm mày sẽ lang thang hớp hơi thở người ta…”

“Làm sao mày có thể tránh đi ngang qua nó?”

Jem nói: “Mày không tránh được. Đôi khi nó vươn tuốt qua bên kia đường, nhưng nếu mày phải đi qua nó thì mày nói ‘Thiên thần sáng trí, sống chết cõi nào; tránh khỏi đường đi, đừng hớp hơi tao.’ Như vậy nó sẽ không quấn quanh người mày…”

Tôi nói: “Đừng tin lời anh ấy nói, Dill. Calpurnia nói đó là chuyện tào lao của tụi da đen.”

Jem cau có nhìn tôi, nhưng anh nói: “Ôi dào, mình có chơi cái gì hay không?”

Tôi đề nghị: “Mình chơi lăn trong bánh xe.”

Jem thở dài: “Tụi mày biết là tao lớn quá rồi.”

“Thì anh đẩy.”

Tôi chạy xuống sân sau kéo ra cái bánh xe cũ dưới gầm nhà. Tôi lăn nó tới sân trước. Tôi nói: “Em đi trước.”

Dill nói nó phải là đứa đi trước, nó vừa mới tới.

Jem làm trọng tài, thưởng tôi đi trước và Dill được lăn lâu hơn, tôi cuộn mình vào trong bánh xe.

Đến khi sự việc xảy ra tôi mới biết Jem tức vì tôi cãi anh về vụ Nhiệt quái, và anh kiên nhẫn chờ cơ hội trả đũa tôi. Anh trả đũa bằng cách dùng hết sức đẩy bánh xe xuống vỉa hè. Đất trời và nhà cửa nháo nhào thành một bảng màu điên khùng, tai tôi lùng bùng, tôi nghẹt thở. Tôi không thể đưa hai tay ra để ngừng lại, tay bị kẹt giữa ngực và đầu gối. Tôi chỉ còn hy vọng Jem sẽ chạy nhanh hơn bánh xe và tôi, hay tôi ngừng lại được nhờ một chỗ mấp mô trên vỉa hè. Tôi nghe tiếng anh phía sau, vừa đuổi theo vừa hét.

Bánh xe xóc nảy trên sỏi, tưng qua đường, đụng hàng rào và bắn tôi ra như cái nút bần lên mặt đường. Choáng váng và buồn nôn, tôi nằm yên trên xi măng lắc đầu, vỗ hai tai cho im tiếng động, và nghe giọng Jem gọi: “Scout, ra khỏi chỗ đó, nhanh lên!”

Tôi ngẩng đầu nhìn đăm đăm bậc thềm nhà Radley trước mặt. Tôi lạnh đóng băng.

Jem hét: “Nhanh lên, Scout, đừng nằm ì ra đó! Đứng lên nổi không?”

Tôi đứng lên, run rẩy tan băng giá.

Jem hò hét: “Lấy cái bánh xe! Đem nó theo! Mày đờ hết rồi hả?”

Khi định được hướng, tôi dùng hết sức chạy ngược về bọn họ bằng cặp đầu gối run rẩy của mình.

Jem hét: “Sao mày không đem nó theo?”

Tôi thét: “Tại sao anh không lấy nó?”

Jem im.

“Đi lấy đi, nó qua khỏi cổng đâu có xa. Sao vậy, anh có lần sờ căn nhà rồi mà, nhớ không?”

Jem tức giận nhìn tôi, không thể chối, chạy xuống lề đường, đắn đo ở cổng, rồi chạy vội vào lấy cái bánh xe về.

Jem đắc thắng cau mặt: “Thấy chưa? Đâu có gì. Scout, tao thề là nhiều khi mày cư xử y như con gái, thật xấu hổ.”

Còn nhiều thứ khác anh chưa biết, nhưng tôi quyết định không kể với anh.

Calpurnia xuất hiện ở cửa trước gọi: “Nước chanh! Mấy đứa vô nhà tránh cái nắng nóng đó trước khi bị thiêu sống!” Nước chanh giữa buổi sáng là một thông lệ trong mùa hè. Calpurnia đặt cái bình và ba cái ly trên hàng hiên, rồi đi lo việc của bà. Hết được Jem ưu ái không làm tôi lo lắm. Nước chanh sẽ làm anh vui vẻ lại.

Jem ực ly thứ hai rồi vỗ ngực. Anh tuyên bố: “Tao biết mình sẽ chơi trò gì. Một trò mới, một trò khác.”

Dill hỏi: “Trò gì?”

“Boo Radley.”

Nhiều khi đầu óc Jem rõ mồn một: anh nghĩ ra trò đó để cho tôi biết là anh không sợ nhà Radley trong bất kỳ hình thù hay kiểu dáng nào, để tính anh hùng gan dạ của anh tương phản với thói hèn nhát của tôi.

Dill hỏi: “Boo Radley à? Chơi cách nào?”

Jem nói: “Scout, mày có thể là bà Radley…”

“Em xin nói nếu được phép. Em không nghĩ…”

Dill nói: “Sao dzậy? Còn sợ hả?”

Tôi nói: “Ban đêm hắn có thể ra ngoài lúc mình đã ngủ hết…”

Jem xì: “Scout, làm sao hắn biết mình chơi cái gì? Vả lại, tao không nghĩ là hắn còn đó. Hắn chết lâu rồi, họ nhồi hắn lên ống khói.”

Dill nói: “Jem, mày với tao chơi, còn Scout có thể xem nếu nó sợ.”

Tôi khá chắc Boo Radley còn trong căn nhà đó nhưng không chứng minh được, và cảm thấy tốt nhất là nên im miệng nếu không tôi sẽ bị buộc tội tin Nhiệt quái, một hiện tượng không tác hại tôi lúc ban ngày.

Jem chia vai diễn cho chúng tôi: tôi là bà Radley, việc duy nhất tôi phải làm là đi ra quét hàng hiên. Dill là ông cụ Radley: nó đi lên đi xuống vỉa hè và ho khi Jem nói chuyện với nó. Jem đương nhiên là Boo: anh chui dưới bậc thềm trước nhà rồi thỉnh thoảng tru tréo rống lên.

Mùa hè trôi qua, trò chơi của chúng tôi càng phát triển. Chúng tôi trau chuốt và hoàn chỉnh nó, thêm lời đối thoại và tình tiết đến khi chế ra được một vở kịch nhỏ mà chúng tôi biến đổi mỗi ngày.

Dill là đứa đóng vai phản diện chính hiệu: nó có thể nhập bất cứ vai nào giao cho nó, và có vẻ cao lớn nếu vai ác đòi hỏi chiều cao. Vai diễn càng gớm nó càng giỏi; diễn xuất ghê nhất của nó là vai ma quái. Tôi miễn cưỡng đóng các vai phụ nữ trong kịch bản. Tôi không nghĩ nó vui như kịch Tarzan, và trong mùa hè đó tôi diễn trò với ít nhiều lo ngại mơ hồ mặc dù Jem cam đoan Boo Radley đã chết, và không gì hại được tôi khi ban ngày có anh với Calpurnia còn ban đêm có Atticus ở nhà.

Jem là người hùng bẩm sinh.

Vở kịch nhỏ u sầu, thêu dệt theo chuyện ngồi lê đôi mách linh tinh vặt vãnh và truyền thuyết trong xóm: bà Radley xinh đẹp trước khi cưới ông Radley rồi mất sạch tiền. Bà cũng móm gần hết, rụng tóc, và mất ngón trỏ bên phải (theo đóng góp của Dill: một đêm Boo cắn đứt ngón tay bà vì hắn không tìm được con mèo hay con sóc nào để ăn); suốt ngày bà ngồi khóc trong phòng khách, trong khi Boo lấy dao gọt dần tất cả bàn ghế trong nhà.

Ba đứa chúng tôi là bọn con nít dây dưa với rắc rối; tôi là thẩm phán toà vi cảnh, để thay đổi không khí; Dill dắt Jem về nhét dưới bậc thềm, lấy cây chổi đâm anh. Khi cần Jem sẽ tái xuất hiện trong các vai cảnh sát trưởng, dân thị trấn các loại và cô Stephanie Crawford, người có nhiều điều để nói về nhà Radley hơn bất kỳ ai ở Maycomb.

Khi diễn màn chính của Boo, Jem sẽ lẻn vào nhà, lấy trộm cây kéo trong ngăn kéo máy may lúc Calpurnia quay lưng lại, rồi ngồi cắt báo trên ghế xích đu. Dill sẽ đi ngang, đằng hắng với Jem, và Jem sẽ giả vờ đâm kéo vào đùi Dill. Từ chỗ tôi đứng, màn diễn trông rất thật.

Hằng ngày, mỗi lần ông Nathan Radley đi ngang để ra thị trấn, chúng tôi sẽ đứng yên và im lặng đến khi ông khuất dạng, rồi tự hỏi ông sẽ làm gì chúng tôi nếu ông nghi ngờ. Chúng tôi ngừng diễn khi có bất kỳ ai trong xóm xuất hiện, một lần tôi thấy cô Maudie Atkinson bên kia đường đăm đăm nhìn chúng tôi, cây kéo tỉa bờ giậu của cô lơ lửng giữa không trung.

Một hôm lúc diễn Màn XXV, Tập II vở kịch Gia Đình của Một Người[37], chúng tôi tíu tít đến nỗi không thấy Atticus đứng trên vỉa hè vừa nhìn chúng tôi vừa cầm tờ tạp chí cuộn lại vỗ lên đầu gối. Mặt trời cho thấy đã mười hai giờ trưa.

Ông hỏi: “Mấy đứa chơi trò gì vậy?”

Jem nói: “Không.”

Lời né tránh của Jem cho tôi biết trò chơi của chúng tôi là bí mật, vì thế tôi im miệng.

“Vậy thì con làm gì với cái kéo đó? Tại sao con cắt vụn tờ báo đó? Nếu là báo hôm nay thì ba cho con đứ đừ.”

“Không.”

Atticus hỏi: “Không cái gì?”

“Không, thưa ba.”

Atticus nói: “Đưa ba cây kéo đó. Nó không phải là thứ để chơi. Trò này có tình cờ dính dáng tới nhà Radley không?”

Jem đỏ mặt nói: “Không thưa ba.”

Ông nói cộc lốc: “Ba hy vọng là không,” rồi đi vào nhà.

“Je-m…”

“Im đi! Ổng vào phòng khách, trong đó ổng nghe được tụi mình.”

Khi đã ra tới chỗ an toàn ngoài sân, Dill hỏi Jem liệu chúng tôi còn chơi được nữa hay không.

“Tao không biết. Atticus không nói mình không được chơi…”

Tôi nói: “Jem, em nghĩ Atticus biết gì đó.”

“Không, ổng không biết. Nếu ổng biết ổng sẽ nói ổng biết.”

Tôi không chắc lắm, nhưng Jem nói tôi là con gái, tụi con gái cứ hay tưởng tượng vì vậy người ta ghét tụi nó, và nếu tôi bắt đầu cư xử như con gái thì tôi cứ việc đi kiếm đứa khác mà chơi.

Tôi nói: “Được rồi, vậy thì anh cứ tiếp tục, rồi anh sẽ thấy.”

Atticus là lý do thứ hai tôi muốn bỏ trò chơi này. Lý do thứ nhất có từ hôm tôi lăn vào sân trước nhà Radley. Giữa lúc váng vất cố ngăn cơn buồn nôn và tiếng Jem hét, tôi đã nghe một tiếng khác, nhỏ đến nỗi tôi không thể nghe thấy nếu tôi ở ngoài lề đường. Trong nhà có người đang cười.

 

 

 

 

 

5

 

Rốt cuộc tính mè nheo của tôi đã thắng Jem, vì tôi biết nó sẽ thắng, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi chúng tôi bớt chơi trò này một dạo. Tuy nhiên, anh vẫn cho rằng Atticus không nói chúng tôi không được chơi, vì thế chúng tôi vẫn có thể chơi; và nếu Atticus có nói chúng tôi không được chơi thì Jem cũng nghĩ ra cách lách qua: anh chỉ thay đổi tên các nhân vật và thế là chúng tôi không thể mang tội chơi bất cứ trò gì.

Dill nồng nhiệt đồng ý với kế hoạch này. Dù sao, Dill đang trở thành một thứ bực mình, quanh quẩn theo Jem. Đầu mùa hè nó đã bảo tôi cưới nó, rồi lập tức nó quên. Nó khoanh tôi lại, xem tôi như tài sản của nó, nói tôi là đứa con gái duy nhất mà nó từng yêu, rồi nó bỏ bê tôi. Tôi đánh nó te tua hai lần nhưng vô ích, nó lại càng thân với Jem hơn. Ngày qua ngày bọn họ cùng lên căn nhà trên cây để bày mưu tính kế, chỉ gọi tôi khi cần đứa thứ ba. Nhưng tôi tránh xa những âm mưu dại dột của họ ít lâu, và đau khổ vì bị gọi là con gái. Sau đó hầu hết những lúc trời chạng vạng mùa hè năm ấy tôi ngồi với cô Maudie Atkinson trên hiên trước nhà cô.

Jem và tôi vẫn được tự do chạy chơi trong sân nhà cô Maudie nếu chúng tôi tránh mấy cây đỗ quyên của cô, nhưng mối giao tiếp giữa chúng tôi với cô không rõ ràng. Trước khi Jem và Dill loại tôi ra khỏi các dự tính của họ, cô chỉ là một bà trong xóm, nhưng là một bà tương đối vô hại.

Thoả hiệp ngầm của chúng tôi với cô Maudie là chúng tôi có thể chơi trên sân cỏ nhà cô, ăn nho xạ của cô nếu chúng tôi không nhảy lên giàn cây, và thám hiểm lô đất lớn phía sau của cô, những điều kiện dễ dãi đến mức chúng tôi hiếm khi trò chuyện với cô, chúng tôi phải thận trọng giữ sự quân bình tế nhị trong mối quan hệ của mình, nhưng cách cư xử của Jem và Dill đã đẩy tôi tới gần cô.

Cô Maudie ghét căn nhà của cô; cô nói thời giờ ở trong nhà là thời giờ lãng phí. Cô là bà goá, một bà thay đổi bề ngoài như cắc kè, đội cái nón rơm cũ và mặc bộ áo liền quần của đàn ông để chăm sóc các luống hoa, nhưng sau khi tắm lúc năm giờ cô sẽ xuất hiện trên hàng hiên rồi ngự trị phố phường trong vẻ đẹp đầy quyền uy.

Cô yêu mọi thứ mọc trên đất của Chúa, ngay cả cỏ dại. Với một ngoại lệ. Nếu cô tìm thấy một lá cỏ mấu trong sân nhà thì giống như sẽ có một Trận Marne[38]: cô với cái chậu thiếc nhào xuống tấn công nó từ bên dưới bằng một chất độc mà cô nói là đủ mạnh để giết hết chúng tôi nếu chúng tôi không đứng tránh ra.

Sau khi chứng kiến cuộc chiến dai dẳng chống lại một lá cỏ cao không hơn bàn tay, tôi hỏi: “Sao cô không nhổ nó lên là xong?”

“Nhổ nó lên, nhổ nó lên, hả cháu?” Cô nhặt cái mầm èo uột lên rồi nghiến ngón cái vào thân cuống tí hon. Những hạt cực nhỏ rỉ ra. “Vì một chồi cỏ mấu có thể phá tiêu cả vườn. Coi nè. Tới mùa thu cái này khô đi rồi gió thổi nó bay khắp hạt Maycomb!” Mặt cô Maudie ví sự kiện này như trận dịch trong kinh Cựu ước.

Là dân Maycomb, nhưng cô nói năng dứt khoát. Cô gọi chúng tôi bằng cả họ tên, và khi cười cô để lộ hai cái ngạnh vàng nhỏ xíu kẹp vào răng nanh. Khi tôi tỏ ý ngưỡng mộ chúng và hy vọng về sau sẽ có vài cái, cô nói: “Coi nè.” Lưỡi cô đẩy cái cầu răng giả ra nghe lách cách, một cử chỉ tỏ lòng thân ái thắt chặt tình bạn của chúng tôi.

Lòng quảng đại của cô Maudie mở rộng ra tới Jem và Dill, mỗi khi bọn họ tạm ngưng những theo đuổi của họ: chúng tôi gặt hái những kết quả của một cô Maudie khéo léo mà cho tới nay chúng tôi chưa biết. Cô làm bánh ngon nhất xóm. Sau khi được chúng tôi tin tưởng, mỗi lần nướng bánh cô làm một cái bánh lớn và ba cái nhỏ, rồi gọi qua đường: “Jem Finch, Scout Finch, Charles Baker Harris, tới đây!” Sự mau mắn của chúng tôi luôn luôn được đền đáp.

Trong mùa hè, trời nhá nhem lâu và yên bình. Nhiều hôm cô Maudie và tôi ngồi im trên hiên nhà cô, nhìn bầu trời chuyển từ vàng sang hồng khi mặt trời lặn, nhìn đàn chim nhạn lượn thấp trên khu xóm rồi biến mất phía sau mái trường học.

Một hôm chập tối tôi nói: “Cô Maudie, cô có nghĩ Boo Radley vẫn còn sống không?”

Cô nói: “Tên ông ấy là Arthur và ông ấy còn sống.” Cô đung đưa chầm chậm trên cái ghế gỗ sồi lớn. “Cháu có ngửi thấy mùi hoa mimosa của cô không? Tối nay mùi nó tựa như hơi thở thiên thần.”

“Dạ. Làm sao cô biết?”

“Biết cái gì, cháu?”

“Biết B… ông Arthur còn sống?”

“Hỏi nghe thấy ghê. Nhưng cô cho là đề tài đó tự nó thấy ghê. Cô biết ông ấy còn sống, Jean Louise, vì cô chưa thấy ai khiêng ông ấy ra.”

“Có thể ông ấy đã chết, rồi họ nhét ông ấy lên ống khói.”

“Cháu lấy đâu ra cái ý đó?”

“Jem nói vậy, anh ấy nghĩ họ làm vậy.”

“Xì-ì-ì. Càng ngày nó càng giống Jack Finch.”

Cô Maudie biết chú Jack Finch, em của Atticus, từ khi họ còn nhỏ. Gần như cùng tuổi, họ cùng lớn lên ở Bến Finch. Cô Maudie là con gái ông chủ đất bên cạnh, bác sĩ Frank Buford. Bác sĩ Buford làm nghề thuốc, nhưng cụ ám ảnh với mọi thứ từ đất mọc lên, vì thế cụ nghèo. Chú Jack Finch hạn chế niềm đam mê đào xới vào bồn hoa bên cửa sổ nhà chú ở Nashville[39] và giàu. Mỗi Giáng sinh chúng tôi gặp chú Jack, và mỗi Giáng sinh chú réo qua đường gọi cô Maudie tới cưới chú. Cô Maudie sẽ réo lại: “La lớn chút nữa, Jack Finch, đằng bưu điện sẽ nghe anh, tôi chưa nghe!” Jem và tôi nghĩ đó là một kiểu lạ để hỏi xin cưới một phụ nữ, nhưng dạo ấy chú Jack hơi lạ. Chú nói chú cố chọc tức cô Maudie, đã cố mà không thành công suốt bốn chục năm, nói chú là người cuối cùng trên thế gian cô Maudie chịu cưới nhưng là người đầu tiên cô muốn trêu chọc, và cách chống trả cô tốt nhất là tấn công quyết liệt, mấy chuyện đó thì chúng tôi hiểu rõ.

Cô Maudie nói: “Arthur Radley chỉ ở trong nhà, thế thôi. Nếu cháu không muốn ra ngoài thì cháu có ở trong nhà không?”

“Dạ, nhưng cháu muốn ra ngoài. Tại sao ông ấy không muốn?”

Mắt cô Maudie nhíu lại. “Chuyện đó cô cũng chỉ biết như cháu.”

“Nhưng cháu chưa hề nghe nói tại sao. Chưa ai kể cho cháu tại sao.”

Cô Maudie lắp lại cầu răng giả. “Cháu biết đấy, ông cụ Radley là tín đồ phái Baptist rửa chân…[40]

“Cô cũng vậy phải không?”

“Cái vỏ bên ngoài của cô không cứng như vậy đâu cháu. Cô chỉ là tín đồ Baptist.”

“Chẳng phải tất cả những người như cô đều tin vào rửa chân à?”

“Tin chứ. Ở bồn tắm trong nhà.”

“Nhưng bọn cháu không được rước lễ với những người như cô…”

Hình như cho rằng giải thích bình đựng nước rửa tội thô sơ dễ hơn giải thích việc rước lễ dành riêng cho mỗi giáo phái, cô Maudie nói: “Tín đồ phái rửa chân tin bất cứ cái gì đem lại niềm vui đều là tội lỗi. Cháu có biết là một hôm thứ Bảy bọn họ trong rừng ra rồi ghé qua đây bảo cô là cô với bông hoa của cô sẽ xuống địa ngục không?”

“Cả hoa của cô nữa à?”

“Ừ, cô nương à. Hoa sẽ thiêu luôn với cô. Họ nghĩ cô phí quá nhiều thời giờ ở ngoài trời của Chúa và không đủ thời giờ ở trong nhà của mình để đọc Kinh Thánh.”

Niềm tin của tôi vào lời giảng Phúc âm bị suy giảm vì ảo ảnh cô Maudie bị hầm đời đời trong các loại hoả ngục Tin Lành. Đúng vậy, trong miệng cô có cái lưỡi chua cay, và cô không đi làm việc thiện quanh xóm như cô Stephanie Crawford. Nhưng ai có một tí ti nhận xét cũng đều không tin cô Stephanie, trong khi Jem và tôi hết sức tin tưởng cô Maudie. Cô không bao giờ mách lỗi chúng tôi, không bao giờ chơi trò mèo vờn chuột với chúng tôi, hoàn toàn không tò mò vào đời tư của chúng tôi. Cô là bạn chúng tôi. Làm sao một sinh vật biết điều như vậy lại phải sống trong hiểm hoạ bị hành hạ đời đời thì thật không thể hiểu.

“Hổng đúng đâu, cô Maudie. Cô là một bà tốt nhất mà cháu biết.”

Cô Maudie cười toe toét. “Cám ơn cô nương. Số là tín đồ phái rửa chân nghĩ phụ nữ mặc nhiên là có tội. Cháu biết đấy, họ hiểu Kinh Thánh theo nghĩa nôm na.”

“Có phải vì vậy ông Arthur ở trong nhà để tránh xa phụ nữ?”

“Cô không biết.”

“Cháu thấy vô lý. Có vẻ như nếu ông Arthur ao ước lên thiên đàng thì ít nhất ông ấy cũng nên ra ngoài hàng hiên. Atticus nói Chúa yêu người ta như mình yêu chính mình…”

Cô Maudie ngừng đung đưa trên ghế, và giọng cô đanh lại: “Cháu còn quá nhỏ để hiểu, nhưng đôi khi Kinh Thánh trong tay người còn tệ hơn chai rượu trong tay của… ồ, của ba cháu.”

Tôi sửng sốt nói: “Atticus đâu có uống rượu. Ổng chưa bao giờ uống một giọt trong đời… à không, ổng có uống. Ổng nói có một lần ổng uống mà không thấy thích.”

Cô Maudie cười. Cô nói: “Đâu có nói về ba cháu. Cô muốn nói là nếu Atticus Finch uống rượu cho tới khi say thì ổng cũng còn dễ chịu hơn một số người lúc họ tốt nhất. Có một loại người… những người bận lo về thế giới bên kia tới nỗi họ chẳng bao giờ học cách sống ở thế giới này, cháu cứ nhìn xuống phố thì thấy.”

“Cô có nghĩ là tất cả những điều họ nói về B… ông Arthur là đúng?”

“Điều gì?”

Tôi kể cho cô.

Cô Maudie nói một cách dứt khoát: “Cái đó ba phần tư từ đám dân da màu, một phần tư từ Stephanie Crawford. Stephanie Crawford thậm chí có lần kể cho cô là nửa đêm cô ấy thức dậy thấy ông ta nhìn cô ấy qua cửa sổ. Cô nói, rồi chị làm gì, Stephanie, nhích qua một bên giường để có chỗ cho anh ta phải không? Như vậy im miệng cô ấy một dạo.”

Tôi chắc chắn là im. Giọng cô Maudie đủ để làm im miệng bất kỳ ai.

Cô nói: “Không đâu cháu, nhà đó đáng buồn. Cô nhớ Arthur Radley hồi ông ấy còn nhỏ. Ông ấy lúc nào cũng nói năng tử tế với cô, bất kể thiên hạ nói ông ấy làm gì. Nói năng tử tế theo cách ông ấy biết.”

“Cô có nghĩ ông ấy điên?”

Cô Maudie lắc đầu. “Nếu chưa điên thì bây giờ ông ấy cũng phải điên. Có những điều xảy ra cho người ta mà mình không bao giờ biết rõ. Những điều xảy ra trong nhà, đằng sau cánh cửa đóng, những bí mật…”

Cảm thấy có bổn phận bênh vực cha mình, tôi nói: “Atticus hổng bao giờ làm cái gì với Jem và cháu ở trong nhà mà ổng hổng làm ngoài sân.”

“Cháu bé ngoan ơi, cô đang nói lung tung, thậm chí chẳng nghĩ gì về ba cháu đâu, nhưng bây giờ nghĩ tới ổng cô nói điều này: Atticus Finch ở trong nhà của ổng cũng giống như ổng ở ngoài đường. Cháu muốn mang một ít bánh mới nướng về nhà không?”

Tôi muốn lắm.

*

Sáng hôm sau tôi thức dậy thấy Jem và Dill đang rì rầm nói chuyện ở sân sau. Khi tôi nhập bọn, như thường lệ bọn họ nói đi ra chỗ khác.

“Không. Sân này của em cũng bằng như của anh, Jem Finch. Em có quyền chơi trong sân cũng như anh.”

Dill và Jem chụm đầu bàn nhanh với nhau, rồi Dill cảnh cáo: “Nếu mày ở đây thì mày phải làm theo lời tụi tao bảo mày.”

Tôi nói: “Ối dào, ai mà bỗng dưng ngạo nghễ và kiêu kỳ vậy ta?”

Dill nói tiếp: “Nếu mày không chịu hứa làm theo lời tụi tao bảo mày thì tụi tao sẽ không kể cho mày biết.”

“Mày làm như tối hôm qua mày cao thêm ba tấc! Được rồi, cái gì?”

Jem thản nhiên nói: “Mình sẽ đưa thư cho Boo Radley.”

“Bằng cách nào?” Tôi cố nén nỗi kinh hoàng tự động dâng lên trong mình. Cô Maudie muốn nói cái gì cũng được – cô ấy già và nép kín trên hiên nhà cô ấy. Còn chúng tôi thì khác.

Jem sẽ gắn lá thư lên đầu cần câu rồi thò nó qua cửa chớp. Nếu ai đi ngang, Dill sẽ rung chuông.

Dill giơ tay phải lên. Trong tay nó là cái chuông bạc của mẹ tôi báo hiệu giờ ăn.

Jem nói: “Tao sẽ đi vòng qua hông nhà. Hôm qua tụi tao ở bên này đường nhìn qua, có một cửa chớp lỏng. Có lẽ ít ra tao cũng có thể dán được lá thư lên bệ cửa sổ.”

“Jem…”

“Bây giờ mày đã dự cuộc, mày không được rút ra, mày cứ phải trong cuộc, cô Đứng Đắn à!”

“Được rồi, được rồi, nhưng em không muốn canh chừng. Jem, có người…”

“Mày phải canh chừng, mày sẽ canh chừng phía sau lô đất, còn Dill xem phía trước nhà và phía đầu phố, nếu có ai tới nó sẽ rung chuông. Rõ chưa?”

“Thôi được. Anh viết gì cho hắn?”

Dill nói: “Mình sẽ thật lịch sự rủ hắn thỉnh thoảng ra ngoài, và kể cho mình là hắn làm gì trong đó… mình nói mình sẽ không làm hại hắn và sẽ mua cà rem cho hắn.”

“Mấy người hoá điên hết rồi, hắn sẽ giết mình!”

Dill nói: “Đó là ý của tao. Tao thấy nếu hắn ra ngoài ngồi một lát với tụi mình thì hắn có thể cảm thấy khá hơn.”

“Làm sao mày biết hắn cảm thấy không khá?”

“Ôi dào, mày cảm thấy thế nào nếu mày bị nhốt một trăm năm mà hổng có cái gì ăn ngoại trừ mấy con mèo? Tao dám cá là râu hắn dài xuống tới đây…”

“Như râu của tía mày hả?”

“Ổng hổng có râu, ổng…” Dill ngừng, như thể đang cố nhớ.

Tôi nói: “À há, đồ nói dóc. Mày nói ngay trước khi mày xuống xe lửa là tía mày có bộ râu đen…”

“Nếu mày nghĩ vậy thì ổng cạo hồi mùa hè năm ngoái rồi! Ừ, tao có lá thư để chứng minh… ổng cũng gửi cho tao hai đô la nữa!”

“Kể tiếp đi… tao đoán ổng còn gửi cho mày bộ đồng phục cảnh sát cưỡi ngựa nữa! Và nó hổng bao giờ tới nơi, đúng không? Mày cứ kể hoài đi, đồ con ch…”

Dill Harris có thể nói những chuyện vĩ đại nhất mà tôi từng nghe. Chẳng hạn nó đã mười bảy lần lên chiếc máy bay đưa thư, nó đã tới Nova Scotia[41], nó đã thấy con voi, và ông ngoại nó là thiếu tướng Joe Wheeler[42] có để lại cho nó thanh gươm của ông.

Jem nói: “Tụi mày im đi.” Anh chui dưới gầm nhà rồi chui ra với cây sào tre màu vàng. “Chắc cái này đủ dài để từ vỉa hè thò tới không?”

Tôi nói: “Ai đủ can đảm đi tới sờ căn nhà thì hổng nên xài cần câu cá. Sao anh không phá sập cái cửa trước xuống?”

Jem nói: “Chuyện-này-khác, tao phải nói cho mày câu này bao nhiêu lần hả?”

Dill lấy trong túi ra một mẩu giấy rồi đưa cho Jem. Ba đứa chúng tôi thận trọng đi tới căn nhà cũ. Dill ở lại cây cột đèn trên góc đường phía trước lô đất, Jem và tôi rón rén xuống vỉa hè song song với hông nhà. Tôi đi quá chỗ Jem rồi đứng nơi tôi có thể thấy qua khúc quanh.

Tôi nói: “Trống trơn. Hổng thấy bóng nào.”

Jem nhìn lên vỉa hè hướng Dill, nó gật đầu.

Jem gắn lá thư vào đầu cần câu, thò cây sào qua sân rồi đẩy tới cái cửa sổ anh đã chọn. Cây sào thiếu vài phân mới đủ, Jem cố hết sức chồm tới. Nhìn anh thọc cây sào một hồi rất lâu, tôi bỏ điểm gác của mình để đi tới anh.

Anh lẩm bẩm: “Không gỡ nó khỏi cây sào được, còn nếu gỡ nó ra thì tao không làm nó dính được. Trở lại cuối đường đi, Scout.”

Tôi đi trở lại và nhìn đăm đăm qua khúc quanh của con đường vắng. Thỉnh thoảng tôi quay lại ngó Jem, anh đang cố kiên nhẫn đặt lá thư lên bệ cửa sổ. Nó là đà bay xuống đất, Jem đâm thủng khều nó lên, cho tới khi tôi nghĩ nếu Boo Radley nhận được thư thì hắn cũng chẳng đọc được. Lúc tôi đang nhìn xuống cuối phố thì chuông báo hiệu kêu.

Rụt vai lên, tôi quay gót để đối diện Boo Radley và bộ nanh đẫm máu của hắn; thay vào đó, tôi thấy Dill đang ra sức lắc chuông vào mặt Atticus.

Jem có vẻ hãi hùng đến nỗi tôi không lòng nào bảo anh là tôi đã bảo anh. Anh lê lết kéo cây sào theo trên vỉa hè.

Atticus nói: “Đừng lắc cái chuông đó nữa.”

Dill nắm lấy quả lắc; trong cảnh im lặng sau đó, tôi ước gì nó lại tiếp tục lắc. Atticus đẩy mũ ra sau đầu rồi chống nạnh. Ông nói: “Jem, con làm gì vậy?”

“Đâu có, thưa ba.”

“Ba không muốn nghe câu đó nữa. Kể cho ba.”

“Con… tụi con chỉ định đưa cho ông Radley.”

“Con định đưa ông ấy cái gì?”

“Lá thư thôi.”

“Đưa ba xem.”

Jem thòi ra mẩu giấy bẩn. Atticus cầm lấy và cố đọc. “Tại sao các con muốn ông Radley ra ngoài?”

Dill nói: “Bọn cháu nghĩ ông ấy có thể thích bọn cháu…” rồi tắt lịm khi Atticus nhìn nó.

Ông bảo Jem: “Con à, ba sẽ nói cho con một điều và nói cho con một lần thôi: chấm dứt quấy phá ông ấy. Cả hai đứa kia nữa.”

Cái gì ông Radley làm là việc riêng của ông ấy. Nếu ông ấy muốn ra ngoài thì ông ấy sẽ ra. Nếu ông ấy muốn ở trong nhà riêng của ông ấy thì ông ấy có quyền ở bên trong mà không bị bọn trẻ con tọc mạch chú ý, đó là việc dễ dàng cho những đứa như chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy thế nào nếu ban đêm khi chúng tôi ở trong phòng mà Atticus cứ xông vào không gõ cửa? Thật vậy, chúng tôi đang làm chính điều đó đối với ông Radley. Điều ông Radley làm hình như có thể lạ đối với chúng tôi, nhưng nó hình như không lạ đối với ông ấy. Ngoài ra, phải chăng chúng tôi không hề nghĩ rằng cách liên lạc lịch sự với người khác là bằng cửa trước thay vì qua cửa sổ bên hông? Cuối cùng, chúng tôi phải tránh xa căn nhà đó cho đến khi chúng tôi được mời vào, chúng tôi không được diễn trò ngu xuẩn mà ông đã thấy chúng tôi diễn, hay trêu chọc ai trên phố này hay trong thị trấn này…

Jem nói: “Bọn con không trêu chọc ông ấy, bọn con không cười nhạo ông ấy, bọn con chỉ…”

“Thế thì hoá ra là các con đang làm chuyện đó chứ gì?”

“Trêu chọc ông ấy à?”

Atticus nói: “Không, các con phơi diễn quá khứ của ông ấy để mở mang kiến thức cho hàng xóm.”

Jem hình như hơi sưng sỉa. “Con không nói bọn con làm việc đó. Con không nói như thế!”

Atticus cười khan. Ông nói: “Con vừa mới nói với ba. Các con ngưng trò vớ vẩn này lập tức, tất cả mọi đứa.”

Jem há hốc miệng nhìn ông.

“Con muốn làm luật sư phải không?” Miệng cha chúng tôi mím chặt một cách đáng ngờ, như thể ông đang cố mím.

Jem biết rằng cãi quanh là vô ích, anh im. Khi Atticus vào nhà tìm tập hồ sơ mà ông đã quên mang đi làm sáng hôm ấy, Jem rốt cuộc nhận ra rằng anh đã rơi vào cái bẫy cũ rích của luật sư. Anh đợi cách bậc thềm trước nhà một khoảng khá xa, nhìn Atticus ra khỏi nhà đi về thị trấn. Khi Atticus đi quá tầm nghe, Jem hét theo ông: “Con đã nghĩ là con muốn làm luật sư, nhưng bây giờ thì con không chắc!”

 

 

 

 

 

 

 

 

6

 

Khi Jem xin phép cho chúng tôi được qua ngồi với Dill bên ao cá của cô Rachel vì đây là đêm cuối của nó ở Maycomb, cha chúng tôi nói: “Ừ, tạm biệt nó hộ cho ba luôn, mùa hè sang năm mình gặp lại nó.”

Chúng tôi nhảy qua bức tường thấp chia giữa sân nhà cô Rachel và lối lái xe vào nhà chúng tôi. Jem huýt sáo giọng chim cút, Dill trả lời trong bóng tối.

Jem nói: “Không một hơi gió. Coi đằng kia kìa.”

Anh chỉ về hướng đông. Vầng trăng khổng lồ đang lên sau hàng cây hồ đào của cô Maudie. Anh nói: “Nó làm cho trời có vẻ nóng hơn.”

Dill hỏi, chẳng thèm ngó lên: “Tối nay trên đó có cây thánh giá hả?” Nó đang vấn một điếu thuốc lá bằng giấy báo và sợi.

“Không, chỉ có Hằng Nga. Đừng đốt cái đó, Dill, mày làm hôi cả góc phố này bây giờ.”

Trên mặt trăng ở Maycomb có một tiểu thư. Cô ta ngồi chải tóc ở bàn trang điểm.

Tôi nói: “Tụi tao sẽ nhớ mày, nhóc ơi. Chắc là mình nên chờ xem ông Avery hả?”

Ông Avery ở trọ bên kia đường đối diện nhà bà Henry Lafayette Dubose. Ngoài việc mỗi Chúa nhật đổi bạc lẻ cho đĩa quyên tiền, mỗi đêm ông Avery chỉ ngồi trên hàng hiên đến chín giờ và hắt hơi. Một đêm nọ chúng tôi được hân hạnh chứng kiến ông biểu diễn, hình như cầm chắc là lần cuối cùng của ông, vì ông chẳng bao giờ hắt hơi như thế nữa khi chúng tôi nhìn. Tối hôm ấy Jem và tôi sắp rời bậc thềm trước nhà cô Rachel, Dill ngăn chúng tôi lại: “Ối trời ơi, coi đằng kia kìa.” Nó chỉ qua bên kia đường. Thoạt tiên chẳng thấy gì ngoài giàn cây leo che phủ hiên trước, nhưng ngó kỹ hơn chúng tôi thấy một tia nước cong từ đám lá cây đổ xuống tung toé trong vòng sáng vàng của ngọn đèn đường, từ nguồn nước tới mặt đất dường như cao khoảng ba mét. Jem nói ông Avery nhắm hụt, Dill nói chắc ông ấy uống bốn lít nước mỗi ngày, và cuộc tranh tài sau đó để quyết định khoảng cách tương đối và tài năng của mỗi đứa lại làm tôi cảm thấy bị ra rìa, vì tôi bất tài trong lãnh vực này.

Dill vươn vai ngáp, rồi nói hết sức bâng quơ: “Tao có ý kiến là mình đi dạo chơi.”

Tôi thấy giọng nó có vẻ mờ ám. Chẳng ai ở Maycomb bỗng dưng đi dạo. “Đi đâu, Dill?”

Dill hất đầu về hướng nam.

Jem nói: “Ừ.” Khi tôi phản đối, anh dịu dàng nói: “Cô Đứng Đắn không phải đi theo.”

“Anh không phải đi theo. Nhớ…”

Jem không phải là kẻ ru rú trong thất bại đã qua: hình như bài học duy nhất anh nhận được từ Atticus là phải sáng suốt trong nghệ thuật đối chất. “Scout, mình đâu có làm cái gì, mình chỉ đi tới cây cột đèn rồi quay lại thôi.”

Chúng tôi im lặng thả bước trên vỉa hè, lắng nghe tiếng ghế xích đu trên hàng hiên kẽo kẹt dưới sức nặng của xóm giềng, lắng nghe tiếng thì thầm nho nhỏ trong đêm của người lớn ở phố mình. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe cô Stephanie Crawford cười.

Dill nói: “Thế nào?”

Jem nói: “Ừ. Sao mày không về nhà đi, Scout?”

“Anh định làm gì?”

Dill và Jem chỉ định ngó trộm qua cái cửa sổ có cửa chớp lỏng để xem bọn họ có thấy được Boo Radley không, và nếu tôi không muốn đi với bọn họ thì tôi cứ về thẳng nhà và ngậm cái miệng bép xép của tôi lại, thế thôi.

“Nhưng quỷ tha ma bắt gì mà mày đợi cho đến tối hôm nay?”

Vì ban đêm không ai thấy được mình, vì Atticus sẽ vùi đầu vào sách tới nỗi không nghe Nước Trời đang đến, vì nếu Boo Radley giết mình thì mình chỉ khỏi phải đi học chứ không mất kỳ nghỉ hè, và vì đêm tối dễ thấy bên trong căn nhà tối hơn là lúc ban ngày, tôi có hiểu không?

“Jem, đừng…”

“Scout, tao bảo mày lần chót, câm mõm hay về nhà… tao thưa với Chúa là mày càng ngày càng giống con gái!”

Thế là tôi không còn lựa chọn nào khác hơn là nhập bọn với họ. Chúng tôi nghĩ nên chui dưới hàng rào dây kẽm căng cao phía sau lô đất nhà Radley, ở đó ít rủi ro bị nhìn thấy. Hàng rào bao quanh khu vườn rộng và nhà vệ sinh hẹp bằng gỗ.

Jem nâng cao sợi dây kẽm dưới cùng, ra hiệu cho Dill chui qua. Tôi theo sau rồi giữ cao sợi dây cho Jem. Anh chật vật chen qua. Anh thì thào: “Đừng gây tiếng động. Làm gì thì tụi mày cũng đừng đi vào luống rau cải, nó sẽ dựng ma dậy.”

Với ý đó trong đầu, có lẽ mỗi phút tôi đi một bước. Tôi đi nhanh hơn khi thấy xa tít phía trước Jem đang vẫy tay thúc giục dưới ánh trăng. Chúng tôi đến cái cổng ngăn giữa khu vườn và sân sau. Jem chạm tay vào cổng. Cánh cổng kẽo kẹt.

Dill thì thào: “Phun nước bọt vào.”

Tôi lẩm bẩm: “Anh dẫn tụi mình vô chỗ bí rồi, Jem. Mình không dễ gì ra khỏi chỗ này.”

“Suỵt. Phun nước bọt vào, Scout.”

Bọn tôi phun đến khô người, rồi Jem chầm chậm mở cổng, nhấc cánh cổng qua một bên, dựa nó lên hàng rào. Bọn tôi vào sân sau.

Mặt sau nhà Radley dễ sợ hơn mặt trước: hàng hiên xiêu vẹo chạy suốt chiều ngang căn nhà; hai ô cửa sổ tối nằm giữa hai cửa ra vào. Một khúc gỗ xù xì chống một đầu mái thay cho cây cột nhà. Một lò sưởi cũ bằng gang nằm trong góc hiên; bên trên nó là tấm gương của giá treo mũ phản chiếu ánh trăng một cách rùng rợn.

Jem vừa nói nhỏ vừa giơ chân lên: “Ar-r.”

“Gì vậy?”

Anh thở ra: “Gà.”

Chúng tôi buộc phải tránh những thứ không nhìn thấy ở khắp mọi phía, lại càng đúng là phải tránh khi nghe Dill thì thầm kêu Trời đằng trước. Bọn tôi bò tới bên hông nhà, vòng tới cái cửa sổ có cánh cửa chớp lủng lẳng. Bệ cửa cao hơn Jem vài phân.

Anh thì thào với Dill: “Làm kiệu cho mày lên. Chờ một chút.” Jem nắm cổ tay trái anh và cổ tay phải tôi, tôi nắm cổ tay trái tôi và cổ tay phải Jem, chúng tôi khom xuống, Dill ngồi lên cái kiệu của chúng tôi. Chúng tôi nâng nó lên, nó nắm lấy bệ cửa sổ.

Jem thì thầm: “Nhanh lên, tụi tao không giữ lâu được đâu.”

Dill đấm vai tôi, chúng tôi hạ nó xuống đất.

“Mày thấy cái gì?”

“Chẳng thấy gì. Màn cửa. Nhưng có ánh đèn nhỏ tí xíu tuốt đằng xa.”

Jem thở ra: “Bỏ chỗ này. Mình vòng lại phía sau lần nữa. Suỵt.” Anh nạt tôi, vì tôi sắp phản đối.

“Mình thử coi cái cửa sổ sau nhà.”

Tôi nói: “Dill, đừng.”

Dill ngừng lại, để Jem đi trước. Bậc cấp dưới cùng kêu kẽo kẹt lúc Jem đặt chân lên. Anh đứng yên, rồi thử sức nặng của anh từng chút. Bậc cấp lắng im. Jem bỏ hai bậc, đặt chân lên hàng hiên, cố nhoài người lên và bị lảo đảo một lúc lâu. Anh lấy lại thăng bằng, quỳ xuống. Anh bò tới cửa sổ, ngẩng đầu lên nhìn vào.

Khi ấy tôi thấy cái bóng. Bóng một người đàn ông đội mũ. Thoạt tiên tôi nghĩ nó là cái cây, nhưng trời lặng gió, và thân cây chẳng bao giờ biết đi. Hiên sau đẫm ánh trăng, cái bóng cứng như que củi băng qua hàng hiên tiến về phía Jem.

Dill là đứa kế thấy cái bóng. Nó đưa hai bàn tay lên che mặt.

Khi cái bóng băng qua Jem, Jem thấy nó. Anh đưa hai cánh tay lên che đầu rồi cứng đờ.

Cái bóng ngừng lại cách Jem khoảng một bước. Cánh tay bên hông nó vươn ra, buông xuống, rồi im. Rồi nó quay lại, băng qua Jem, bước dọc hàng hiên và khuất dạng bên hông nhà, đến rồi đi về chốn cũ.

Jem nhảy khỏi hàng hiên, phi nước đại về phía bọn tôi. Anh mở tung cánh cổng, rối rít lùa Dill và tôi qua, xua chúng tôi giữa hai luống cải sột soạt. Tới giữa luống tôi vấp; khi ngã tôi nghe tiếng súng săn vang ầm khu xóm.

Dill và Jem nhào xuống bên cạnh tôi. Jem thở hổn hển đứt quãng: “Hàng rào bên sân trường!... Nhanh lên, Scout!”

Jem nâng sợi dây kẽm dưới cùng lên, Dill và tôi lăn qua. Khi chạy được nửa đường tới chỗ trú dưới cây sồi đơn độc trong sân trường, hai đứa tôi cảm thấy Jem không theo mình. Chúng tôi chạy ngược lại và thấy anh đang vùng vẫy ở hàng rào, đá cái quần ra để thoát thân. Anh mặc quần đùi chạy tới cây sồi.

An toàn sau cây sồi, chúng tôi lịm người, nhưng đầu Jem nghĩ nhanh: “Mình phải về nhà, nếu không họ sẽ thấy thiếu mình.”

Chúng tôi chạy băng qua sân trường, bò dưới hàng rào vào Bãi Nai sau nhà chúng tôi, leo qua hàng rào phía sau vào tới thềm sau, lúc đó Jem mới cho chúng tôi ngừng lại nghỉ.

Sau khi thở lại bình thường, ba đứa chúng tôi làm bộ hết sức bâng quơ đi ra sân trước. Chúng tôi nhìn xuống cuối phố thấy bà con lối xóm tụ tập ở cổng trước nhà Radley.

Jem nói: “Mình nên xuống dưới đó. Nếu mình không ló mặt ra thì họ sẽ nghi.”

Ông Nathan Radley đang đứng trong cổng nhà ông, cây súng săn bẻ gập vắt trên cánh tay[43]. Atticus đứng bên cạnh cô Maudie và cô Stephanie Crawford. Cô Rachel và ông Avery đứng gần đó. Không ai thấy chúng tôi tiến đến.

Chúng tôi len vào bên cạnh cô Maudie, cô nhìn quanh. “Các cháu ở đâu thế, không nghe náo động à?”

Jem hỏi: “Chuyện gì vậy?”

“Ông Radley bắn một người da đen trong vườn cải của ông ấy.”

“Ồ. Ông ấy bắn trúng không?”

Cô Stephanie nói: “Không. Bắn lên trời. Làm hắn sợ tái xanh. Nói nếu có ai thấy một đứa da đen mặt trắng quanh đây thì chính là nó. Nói ông ấy còn một nòng nữa chờ nghe tiếng động kế tiếp trong vườn cải, và lần sau ông ấy sẽ không nhắm lên cao nữa, dù nó là con chó, thằng da đen, hay… Jem Finch!”

Jem kêu: “Cô?”

Atticus lên tiếng: “Quần của con đâu?”

“Quần gì, thưa ba?”

“Quần.”

Vô ích. Anh mặc quần đùi trước Chúa và mọi người. Tôi thở dài.

“À… ông Finch à?”

Trong ánh sáng chói chang của ngọn đèn đường, tôi thấy Dill đang mưu tính: mắt nó mở to, khuôn mặt ngây thơ bụ bẫm của nó tròn hơn.

Atticus hỏi: “Chuyện gì vậy, Dill?”

Nó nói mơ hồ: “À… cháu thắng nó cái quần.”

“Thắng cái quần? Cách nào?”

Tay Dill sờ gáy. Nó kéo tay ra phía trước rồi đưa lên ngang trán. Nó nói: “Tụi cháu chơi xì phé lột đồ bên cạnh ao cá đằng kia.”

Jem và tôi thở phào. Hàng xóm xem bộ hài lòng: tất cả đều cứng đơ. Nhưng chơi xì phé lột đồ là cái gì?

Chúng tôi không có cơ hội tìm hiểu, cô Rachel hú lên như còi cứu hoả của thị trấn: “Giêê-su ơơ-i, Dill Harris! Cờ bạc bên cạnh ao cá của cô hả? Ông ơi, tui sẽ lột-phé xác ông!”

Atticus cứu Dill khỏi bị tùng xẻo ngay trước mắt. Ông nói: “Khoan đã, cô Rachel. Tôi chưa hề nghe chúng chơi trò đó bao giờ. Cả ba đứa chơi bằng bộ bài à?”

Jem nhắm mắt bắt con ruồi của Dill: “Không thưa ba, chơi bằng que diêm thôi.”

Tôi bái phục anh mình. Que diêm nguy hiểm, nhưng bộ bài là chết.

Atticus nói: “Jem, Scout, ba không muốn nghe tới xì phé dưới bất kỳ kiểu nào nữa. Jem, đi qua nhà Dill lấy cái quần của con. Hai đứa tự dàn xếp với nhau.”

Khi chúng tôi chạy lon ton trên vỉa hè, Jem nói: “Đừng lo, Dill, cô ấy không phạt mày đâu. Ổng sẽ nói cho cô ấy nguôi. Ê nhóc, mày nhanh trí thật. Kìa… tụi mày nghe thấy không?”

Chúng tôi ngừng lại nghe giọng Atticus: “… chẳng nghiêm trọng gì lắm… tụi nó đứa nào cũng có lúc như thế, cô Rachel…”

Dill yên chí, nhưng Jem và tôi thì không. Sáng mai có vấn đề Jem phải trình cái quần ra.

Khi chúng tôi đến bậc thềm nhà cô Rachel, Dill nói: “Cho mày cái quần của tao.” Jem nói anh mặc không vừa, nhưng dù sao cũng cám ơn. Chúng tôi chia tay, Dill vào nhà. Rõ ràng nó nhớ là đã đính hôn với tôi, vì nó chạy ngược ra hôn tôi thật nhanh trước mặt Jem. Nó nói oang oang sau lưng chúng tôi: “Tụi mày nhớ viết thư nghe không?”

*

Nếu quần của Jem có dính yên ổn trên người anh, chúng tôi cũng không chợp mắt được gì mấy. Mỗi tiếng động ban đêm vọng tới cái chõng tôi nằm trên hiên sau nhà đều được phóng đại gấp ba lần; mỗi tiếng chân sột soạt trên sỏi là Boo Radley đang tìm cách trả thù; mỗi ông da đen đi ngang cất tiếng cười trong đêm là Boo Radley ra lùng bắt bọn tôi; côn trùng đập vào lưới cửa là ngón tay điên dại của Boo Radley đang bấu đứt tan tành sợi kẽm; mấy cây xoan dễ sợ, lởn vởn, nhúc nhích. Tôi trằn trọc nửa ngủ nửa thức cho tới khi nghe Jem thì thầm.

“Ngủ chưa, Ba Mắt[44]?”

“Anh điên à?”

“Suỵt. Đèn phòng Atticus tắt rồi.”

Dưới ánh trăng tàn, tôi thấy Jem xoay chân xuống sàn.

Anh nói: “Tao đi tìm cái quần.”

Tôi ngồi thẳng lên. “Anh không được đi. Em không cho anh đi.”

Anh xoay xở mặc áo. “Tao phải đi.”

“Anh đi thì em sẽ đánh thức Atticus.”

“Mày đánh thức thì tao giết mày.”

Tôi kéo anh xuống bên cạnh tôi trên chõng. Tôi cố nói phải trái với anh: “Jem, đến sáng ông Nathan sẽ tìm thấy cái quần. Ông ấy biết anh mất quần. Nếu ông ấy đưa quần cho Atticus thì mệt lắm, nhưng đành vậy thôi. Ngủ lại đi.”

Jem nói: “Tao biết vậy. Vì vậy tao phải đi tìm cái quần.”

Tôi bắt đầu cảm thấy buồn nôn. Trở lại chỗ đó một mình anh… tôi nhớ cô Stephanie nói: Ông Nathan còn một nòng nữa chờ nghe tiếng động kế tiếp, dù nó là ông da đen, con chó… Jem biết rõ hơn tôi.

Tôi tuyệt vọng: “Jem nè, hổng đáng. Một roi thì đau nhưng hổng đau lâu. Anh sẽ bị bắn đứt đầu, Jem. Thôi mà…”

Anh nhẫn nại thở ra. Anh thì thào: “Tao… như vậy nè, Scout. Tao nhớ Atticus chưa hề phạt tao roi nào. Tao muốn giữ nguyên như vậy.”

Một ý đáng nghĩ. Hình như cứ cách một ngày Atticus lại doạ chúng tôi một lần. “Anh muốn nói là ba chưa bao giờ bắt quả tang anh được chuyện gì hả.”

“Có lẽ vậy, nhưng… tao chỉ muốn giữ nguyên như vậy, Scout. Tối nay lẽ ra mình không nên làm trò đó, Scout.”

Tôi đoán đó là lúc Jem và tôi bắt đầu càng ngày càng ít chơi chung với nhau. Đôi khi tôi không hiểu anh, nhưng phút hoang mang của tôi ngắn ngủi. Điều này ngoài tầm hiểu của tôi. Tôi van nài: “Em xin anh, anh hổng chịu suy nghĩ chút xíu nào hay sao… một mình anh ở đó…”

“Im đi!”

“Đâu có phải ổng không thèm nói với anh nữa… em sẽ gọi ổng dậy, Jem, em thề em sẽ…”

Jem nắm cổ áo ngủ của tôi rồi siết chặt. Tôi nghẹt thở. “Vậy thì em đi với anh…”

“Đừng, mày đừng đi, mày chỉ làm ồn.”

Vô ích. Tôi mở chốt cửa sau rồi giữ cánh cửa trong khi anh rón rén xuống bậc thềm. Khi ấy chắc đã hai giờ đêm. Trăng đang lặn, bóng rèm mắt cáo mờ vào hư vô nhạt nhoà. Đuôi áo sơ mi trắng của Jem phất phới như con ma nhỏ nhảy nhót xa dần để trốn buổi bình minh sắp đến. Một ngọn gió thoảng nhẹ làm lạnh mồ hôi đang chảy xuống hai bên mặt tôi.

Tôi nghĩ anh đi lối sau, qua Bãi Nai, băng ngang sân trường rồi vòng tới hàng rào – ít ra đó là hướng anh đi. Đường đi xa hơn, vì thế chưa đến lúc để lo. Tôi chờ đến lúc để lo, và lắng nghe tiếng súng săn của ông Radley. Rồi tôi nghĩ mình nghe tiếng hàng rào sau nhà kẽo kẹt. Đó chỉ là mơ hão.

Rồi tôi nghe Atticus ho. Tôi nín thở. Đôi khi nửa đêm đi hành hương đến phòng tắm, chúng tôi thấy ông đang đọc. Ông nói ban đêm ông thường thức dậy, đến trông chừng chúng tôi, rồi đọc để ngủ lại. Tôi chờ đèn của ông bật lên, căng mắt chờ ánh đèn tràn ngập hành lang. Đèn vẫn tắt, tôi lại thở ra.

Loài bò sát đêm đã về nghỉ, nhưng mấy quả xoan chín vỗ như đánh trống lên mái nhà mỗi khi gió lay động, và bóng tối trở nên hoang vắng cùng tiếng chó sủa xa xa.

Anh ấy kìa, trở về với tôi. Áo sơ mi trắng của anh phất phới trên hàng rào sau nhà rồi từ từ lớn dần. Anh lên bậc thềm sau, chốt cửa lại, rồi ngồi bên chõng của anh. Không nói một lời, anh giơ cái quần lên. Anh nằm xuống, tôi nghe chõng anh rung rung một hồi. Lát sau anh nằm im. Tôi không nghe anh cựa quậy nữa.

 

 

 

 

 

 

7

 

Jem cấm cẳn và im thin thít cả tuần. Như Atticus đã có lần khuyên, tôi thử leo vô chỗ của Jem rồi đi: nếu tôi đã một thân một mình đi tới nhà Radley vào lúc hai giờ đêm thì đám ma tôi sẽ được cử hành chiều hôm sau. Vì thế tôi để yên Jem và cố đừng quấy rầy anh.

Ngày tựu trường đến. Lớp hai cũng tệ như lớp một, thậm chí tệ hơn – họ vẫn phe phẩy trước mặt mình mấy tấm thẻ và không cho đọc hay viết. Tiến bộ của cô Caroline ở phòng bên cạnh có thể ước tính được qua tần số tiếng cười; tuy nhiên, tụi thường xuyên ở lại lớp một đã có công giúp giữ trật tự. Điểm hay duy nhất của lớp hai là năm nay tôi phải ở lại trễ như Jem, và chúng tôi thường cùng nhau đi bộ về nhà lúc ba giờ.

Một buổi chiều lúc chúng tôi băng qua sân trường để về nhà, Jem bỗng nói: “Có một chuyện tao chưa nói cho mày.”

Vì đây là câu nói đầy đủ đầu tiên của anh trong mấy ngày qua, tôi khuyến khích anh: “Về cái gì?”

“Về tối hôm đó.”

Tôi nói: “Anh chưa bao giờ kể cái gì cho em về chuyện tối hôm đó.”

Jem xua tay gạt lời tôi nói như quạt đuổi đàn muỗi mắt. Anh lặng im một lát rồi nói: “Khi tao trở lại tìm cái quần… lúc tao tuột ra thì nó vướng một đống gỡ không ra. Khi tao trở lại…” Jem hít một hơi sâu. “Khi tao trở lại thì cái quần gấp gọn nằm vắt trên hàng rào… giống như nó đang chờ tao.”

“Vắt trên…”

Giọng Jem ỉu xìu: “Còn nữa… Về nhà tao cho mày xem. Nó được vá lại. Không như các bà may, mà như tao thử làm. Nhăn nhúm hết. Gần như…”

“… có người biết anh sẽ trở lại tìm.”

Jem rùng mình. “Như có người biết tao nghĩ gì… như có người biết tao định làm gì. Đâu có ai đoán được tao sắp làm gì trừ phi họ biết tao, phải không Scout?”

Câu hỏi của Jem là lời khẩn khoản. Tôi trấn an anh: “Không ai đoán được anh sắp làm gì trừ phi họ sống cùng nhà với anh, và ngay cả em nhiều khi cũng không biết.”

Chúng tôi đi ngang cái cây của mình. Trong bọng cây có cuộn dây xám.

Tôi nói: “Đừng lấy, Jem. Đây là chỗ giấu đồ của người ta.”

“Tao nghĩ không phải vậy đâu Scout.”

“Đúng vậy mà. Mấy đứa như Walter Cunningham tới đây mỗi lúc ra chơi để giấu đồ đạc… còn mình đi ngang rồi lấy mất của nó. Nè, mình để yên nó ở đó rồi chờ hai ngày. Nếu lúc đó nó không biến mất thì mình lấy, chịu không?”

Jem nói: “Ừ, mày có thể đúng. Chắc là chỗ của đứa nhỏ nào đó… giấu đồ để tụi lớn hơn khỏi thấy. Mày thấy là chỉ khi nhập học thì mình mới bắt gặp đồ đạc trong đó.”

Tôi nói: “Ừ, nhưng mùa hè mình chẳng bao giờ đi ngang đây.”

Chúng tôi về nhà. Sáng hôm sau cuộn dây vẫn ở chỗ chúng tôi để lại. Khi nó còn ở đó đến ngày thứ ba, Jem bỏ túi. Từ đó về sau, chúng tôi xem mọi thứ tìm thấy trong bọng cây là tài sản của mình.

*

Lớp hai chán ghê hồn, nhưng Jem cam đoan với tôi rằng càng lớn thì lớp học càng hay hơn, lúc đầu anh cũng vậy, và đến khi lên lớp sáu thì mới học được điều bổ ích. Lớp sáu hình như làm anh hài lòng ngay từ đầu: anh trải qua một Thời kỳ Ai Cập ngắn ngủi làm tôi lúng túng – anh cố hết sức đi bẹt bàn chân, đưa một tay phía trước một tay sau lưng, đặt bàn chân này sau bàn chân kia. Anh tuyên bố người Ai Cập đi kiểu đó; tôi nói nếu họ đi như vậy thì tôi không biết làm sao họ làm được cái gì, nhưng Jem nói họ đạt nhiều thành quả hơn người Mỹ, họ phát minh ra giấy vệ sinh và cách ướp xác vĩnh viễn, anh hỏi nếu họ không nghĩ ra các thứ đó thì ngày nay mình sẽ ra sao? Atticus bảo tôi cắt bỏ các tính từ đi thì tôi sẽ có sự thật[45].

*

Miền nam Alabama không có các mùa rõ rệt; mùa hè tràn vào mùa thu, và đôi khi cuối thu không có mùa đông mà chuyển thành mấy ngày xuân, rồi lại tan vào mùa hè. Mùa thu năm đó dài, không đủ mát lạnh để mặc áo khoác mỏng. Một chiều tháng Mười dịu mát Jem và tôi đang chạy lon ton trên quỹ đạo hằng ngày của mình thì cái bọng cây lại khiến chúng tôi dừng lại. Lần này trong đó có một vật màu trắng.

Jem cho tôi được vinh dự thò tay lấy: tôi lôi ra hai bức tượng nhỏ khắc bằng xà phòng. Một cái hình đứa con trai, đứa kia mặc chiếc áo đầm thô thiển.

Không kịp nhớ rằng bùa ếm là điều nhảm nhí, tôi rít lên vứt nó đi.

Jem nhặt vội nó lên. Anh hét: “Mày bị cái gì vậy?” Anh chùi sạch bụi đỏ trên hai bức tượng. Anh nói: “Hai cái này đẹp. Tao chưa từng thấy cái gì đẹp tới mức này.”

Anh hạ thấp nó xuống cho tôi xem. Đó là hai bức tượng nhỏ gần như hoàn hảo hình hai đứa nhỏ. Đứa con trai mặc quần ngắn, một lọn tóc xà phòng xoã xuống lông mày. Tôi nhìn lên Jem. Một mớ tóc nâu thẳng từ đường ngôi của anh đâm xuống. Tôi chưa bao giờ để ý nhận ra.

Jem nhìn con búp bê con gái rồi nhìn tôi. Con búp bê con gái cắt tóc ngang trán. Giống như tôi.

Anh nói: “Đây là tụi mình.”

“Anh đoán xem ai làm?”

Anh hỏi: “Quanh đây mình biết ai biết gọt?”

“Ông Avery.”

“Ông Avery chỉ biết gọt. Ý tao nói là ai biết điêu khắc.”

Ông Avery gọt trung bình mỗi tuần một que củi; ông cạo nó thành cây tăm rồi nhai.

Tôi nói: “Có ông người yêu của bà cô Stephanie Crawford.”

“Ổng khắc được, nhưng ổng sống dưới vùng quê. Ổng có bao giờ chú ý tới tụi mình hồi nào?”

“Có thể ổng ngồi trên hàng hiên nhìn tụi mình thay vì nhìn cô Stephanie. Nếu em là ông ấy thì em cũng nhìn tụi mình.”

Jem đăm đăm nhìn tôi lâu tới nỗi tôi hỏi chuyện gì, nhưng nhận được câu trả lời là Không, Scout. Khi chúng tôi về đến nhà, Jem cất hai con búp bê vào rương của anh.

Chưa đầy hai tuần sau chúng tôi tìm thấy nguyên một gói kẹo cao su, chúng tôi nhai ngon lành, sự kiện mọi thứ ở nhà Radley đều bị tẩm thuốc độc đã trôi tuột khỏi ký ức Jem.

Tuần sau bọng cây cho một tấm huy chương đã mờ. Jem đưa Atticus xem, ông nói nó là huy chương đánh vần. Trước khi chúng tôi sinh ra, các trường trong hạt Maycomb có thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Atticus nói chắc có ai làm mất nó, và bảo chúng tôi đã đi hỏi quanh chưa? Jem lén đá tôi khi tôi định nói chỗ chúng tôi tìm thấy nó. Jem hỏi Atticus có nhớ ai đã từng thắng giải không, Atticus nói không.

Của bắt được lớn nhất của chúng tôi xuất hiện bốn ngày sau. Đó là cái đồng hồ bỏ túi đã hết chạy, gắn với sợi dây đeo có con dao nhôm.

“Anh có nghĩ nó là vàng trắng không, Jem?”

“Không biết. Tao sẽ đưa cho Atticus xem.”

Atticus nói có lẽ nó đáng giá mười đô la, cả con dao và sợi dây, nếu còn mới. Ông hỏi: “Con đổi nó với ai trong trường à?”

“Ồ không, thưa ba!” Jem rút chiếc đồng hồ của ông nội mà Atticus cho Jem đeo mỗi tuần một lần nếu anh cẩn thận. Vào ngày đeo đồng hồ, Jem đi rón rén như đạp trứng gà. “Atticus, nếu ba chịu thì con đeo cái này thay thế. Có thể con sửa nó được.”

Khi cái mới thay dần chỗ đồng hồ của ông nội, và đeo nó trở thành việc phiền toái mỗi ngày, Jem không còn cảm thấy cần thiết cứ mỗi năm phút lại phải biết rõ giờ giấc.

Anh sửa cũng khá, chỉ còn sót một cái lò xo và hai mẩu nhỏ, nhưng đồng hồ không chịu chạy. Anh thở dài: “Ồ-ồ, nó sẽ không bao giờ chạy. Scout nè…?”

“Hả?”

“Mày có nghĩ là mình nên viết thư cho người để mấy thứ này cho mình không?”

“Hay lắm, Jem, mình có thể cám ơn họ… chuyện gì vậy?”

Jem nắm hai tai, đầu anh lắc qua lắc lại. “Tao không hiểu, tao không hiểu… tao không biết tại sao, Scout…” Anh nhìn qua phòng khách. “Tao nghĩ nên kể cho Atticus… không, tao nghĩ là không.”

“Em sẽ kể cho ổng hộ anh.”

“Đừng, đừng kể, Scout. Scout nè?”

“C-á-i g-ì-ì?”

Suốt buổi tối anh đã rắp ranh nói cho tôi một điều gì; mặt anh sáng lên, rồi anh chồm tới tôi, rồi anh đổi ý. Anh lại đổi ý. “Ồ, không.”

“Đây nè, mình viết thư.” Tôi dí xấp giấy với cây viết chì dưới mũi anh.

“Thôi được. Thưa ông…”

“Làm sao anh biết là ông? Em đánh cuộc là cô Maudie… đoán lâu rồi.”

“Ar-r, cô Maudie đâu có nhai kẹo cao su được…” Jem toét miệng cười. “Mày biết không, lắm khi cô ấy nói thật hay. Một lần tao mời cô ấy nhai kẹo, cô ấy nói thôi cám ơn, nói… kẹo cao su dính vòm miệng làm cô hết nói,” Jem ý tứ nói. “Như vậy nghe không ngộ hay sao?”

“Ừ, đôi khi cô ấy có thể nói nhiều thứ hay. Dù sao đi nữa, cô ấy cũng chẳng có cái đồng hồ gắn sợi dây đeo.”

Jem nói: “Thưa ông. Chúng tôi cám ơn cái… không, chúng tôi cám ơn mọi thứ mà ông đã để trên cây cho chúng tôi. Chân thành kính thư, Jeremy Atticus Finch.”

“Jem, nếu anh ký như vậy ổng sẽ không biết anh là ai.”

Jem xoá tên anh rồi viết, “Jem Finch.” Tôi ký bên dưới, “Jean Louise Finch (Scout)”. Jem bỏ lá thư vào phong bì.

Sáng hôm sau trên đường tới trường anh chạy trước rồi ngừng ở cái cây. Mặt Jem quay về phía tôi lúc anh ngẩng lên, tôi thấy anh trắng bệch.

Scout!

Tôi chạy tới anh.

Có người đã lấp xi măng đầy bọng cây của chúng tôi.

Anh thì thầm với tôi suốt trên đường tới trường: “Đừng khóc, Scout… đừng khóc nào, đừng lo…”

Khi chúng tôi về nhà ăn trưa, Jem nuốt chửng thức ăn rồi chạy ra hiên đứng trên bậc thềm. Tôi theo anh. Anh nói: “Chưa đi qua.”

Hôm sau Jem lại tiếp tục canh chừng và được đền công.

Anh nói: “Chào ông Nathan.”

Ông Nathan vừa đi ngang vừa nói: “Chào Jem, Scout.”

Jem nói: “Ông Radley.”

Ông Radley quay lại.

“Ông Radley, à… có phải ông đổ xi măng lấp cái lỗ trên cây đằng đó không?”

Ông nói: “Ừ, tao lấp nó.”

“Thưa ông, tại sao ông lấp?”

“Cây sắp chết. Mày bịt nó bằng xi măng khi nó bịnh. Mày phải biết chứ, Jem.”

Jem không nói gì về việc ấy nữa cho đến chiều tối. Khi chúng tôi đi ngang cái cây của mình, anh trầm ngâm vỗ lên chỗ xi măng, rồi lại chìm trong suy nghĩ. Hình như anh đang tự dấn sâu vào tâm trạng u uất, vì thế tôi né xa.

Như thường lệ, chập tối hôm ấy chúng tôi đón Atticus từ chỗ làm về nhà. Khi chúng tôi về đến bậc thềm nhà mình, Jem nói: “Atticus, ba thử nhìn cái cây đằng kia kìa.”

“Cây nào, con?”

“Cái cây ở góc lô đất nhà Radley từ trường đi về.”

“Ừ sao?”

“Có phải cây đó sắp chết không?”

“Sao vậy, không đâu con, ba không nghĩ vậy. Coi lá cây kìa, toàn lá xanh rậm rạp, không một mảng vàng nào…”

“Thậm chí nó cũng không bệnh à?”

“Cây đó khoẻ mạnh như con vậy Jem. Sao thế?”

“Ông Nathan Radley nói nó sắp chết.”

“Ôi dào, có thể. Ba chắc ông Radley biết nhiều về cái cây của ông ấy hơn mình.”

Atticus để chúng tôi lại hàng hiên. Jem đứng dựa vào cột nhà, cọ xát vai anh lên cột.

Tôi hỏi hết sức lịch sự: “Anh ngứa hả Jem?” Anh không trả lời. Tôi nói: “Thôi vào nhà đi, Jem.”

“Chút nữa.”

Anh đứng đó tới khi đêm xuống, và tôi chờ anh. Khi chúng tôi vào nhà, tôi thấy anh đã khóc; mặt anh bẩn bên phải, nhưng tôi nghĩ thật lạ là mình không nghe anh khóc.

 

 

 

 

8

 

Vì những lý do không thể lý giải đối với các vị tiên tri nhiều kinh nghiệm nhất ở hạt Maycomb, mùa thu năm đó chuyển sang mùa đông. Atticus nói chúng tôi có hai tuần lạnh nhất từ năm 1885 đến nay. Ông Avery nói Bia đá Rosetta[46] ghi là khi trẻ con không vâng lời cha mẹ, hút thuốc lá và đánh nhau thì các mùa sẽ biến đổi: Jem và tôi bị gánh tội góp phần làm xáo động thiên nhiên, vì thế gây bất hạnh cho láng giềng và tạo phiền toái cho chính mình.

Bà cụ Radley mất mùa đông năm ấy, nhưng cái chết của bà không gây xôn xao cho lắm – hàng xóm ít khi thấy bà, trừ lúc bà tưới mấy cây chuối hoa. Jem và tôi tin chắc rằng rốt cuộc Boo đã hại bà, nhưng Atticus từ nhà Radley về nói bà chết bình thường làm chúng tôi thất vọng.

Jem thì thào: “Hỏi ổng đi.”

“Anh hỏi ổng đi, anh lớn hơn.”

“Chính vì vậy mà mày nên hỏi ổng.”

Tôi nói: “Atticus, ba có gặp ông Arthur không?”

Atticus nghiêm khắc nhìn tôi qua tờ báo của ông: “Ba không gặp.”

Jem ngăn tôi hỏi thêm. Anh nói Atticus vẫn nhạy cảm về vụ chúng tôi với nhà Radley, và đừng nên chọc ông. Jem mơ hồ cho là Atticus nghĩ rằng mùa hè vừa rồi tối ấy chúng tôi không chỉ chơi xì phé lột đồ. Jem không có cơ sở vững chắc cho ý kiến của anh, anh nói chỉ là linh tính.

Sáng hôm sau tôi thức dậy nhìn ra cửa sổ và suýt chết vì sợ. Tiếng thét của tôi khiến Atticus từ phòng tắm chạy qua, râu còn đang cạo dở.

Tận thế, Atticus! Làm cái gì đi chứ…!” Tôi lôi ông tới chỉ cửa sổ.

Ông nói: “Đâu có. Tuyết đang rơi đó mà.”

Jem hỏi Atticus liệu tuyết còn tiếp tục rơi không. Jem cũng chưa bao giờ thấy tuyết, nhưng anh biết nó là gì. Atticus nói ông cũng chẳng biết gì hơn Jem về tuyết. “Nhưng ba nghĩ nếu tuyết ướt nặng như thế này thì trời sẽ chuyển mưa.”

Điện thoại reng, Atticus rời bàn ăn để trả lời. Lúc quay lại ông nói: “Eula May gọi. Ba lặp lại nguyên văn… ‘Vì hạt Maycomb từ năm 1885 đến nay không có tuyết, nên hôm nay nghỉ học.’”

Eula May là người trực tổng đài điện thoại chính của Maycomb. Cô được giao nhiệm vụ phổ biến các thông báo chung, lời mời dự đám cưới, bật còi cứu hoả, và hướng dẫn cấp cứu lúc bác sĩ Reynolds đi vắng.

Cuối cùng sau khi Atticus ra lệnh cho chúng tôi trật tự trở lại và bảo chúng tôi nhìn vào đĩa của mình thay vì nhìn cửa sổ, Jem hỏi: “Làm cách nào ba đắp người tuyết?”

Atticus nói: “Ba chẳng biết tí gì. Ba không muốn hai đứa thất vọng, nhưng ba ngờ là chưa chắc đủ tuyết để làm một quả cầu tuyết nữa.”

Calpurnia đi vào nói bà nghĩ nó nhớp nháp. Lúc chúng tôi chạy ra sân sau, mặt đất phủ một lớp tuyết mỏng ướt sũng.

Jem nói: “Mình không nên giẫm lên nó. Coi kìa, mỗi bước chân của mày mỗi làm phí nó.”

Tôi nhìn lại dấu chân lầy lội của mình. Jem nói nếu chúng tôi chờ cho tuyết rơi thêm thì chúng tôi có thể cạo hết nó lên làm người tuyết. Tôi thè lưỡi ra bắt một bông tuyết lớn. Nó bỏng rát.

“Jem, nó nóng!”

“Đâu phải, nó lạnh quá nên bỏng. Bây giờ đừng ăn nó, Scout, mày làm phí. Để nó rơi xuống.”

“Nhưng em muốn đi trong tuyết.”

“Tao biết rồi, mình có thể đi trên tuyết bên nhà cô Maudie.”

Jem nhảy lò cò qua sân trước. Tôi theo dấu chân anh. Khi chúng tôi tới lề đường trước nhà cô Maudie, ông Avery đến bắt chuyện. Ông có khuôn mặt hồng hào và cái bụng bự dưới thắt lưng.

Ông nói: “Thấy tụi bay làm gì chưa? Maycomb không có tuyết từ hồi Appomattox[47]. Trẻ con hư hỏng như tụi bay làm đổi hết các mùa.”

Tôi tự hỏi liệu ông Avery có biết là mùa hè vừa qua chúng tôi rất hy vọng thấy ông lặp lại màn biểu diễn của ông, và ngẫm nghĩ nếu đây là phần thưởng cho chúng tôi thì tội lỗi là điều còn phải bàn. Tôi biết ông Avery lấy đâu ra số liệu khí tượng: ông lấy trực tiếp từ Bia đá Rosetta.

“Jem Finch, ê Jem Finch!”

“Cô Maudie gọi anh kìa, Jem.”

“Các cháu chơi ở giữa sân. Gần hàng hiên có cây thạch thung dung bị chôn dưới tuyết. Đừng giẫm lên cây!”

Jem gọi to: “Vâng cô! Đẹp quá phải không, cô Maudie?”

“Đẹp cái cùi loi nè! Nếu tối nay đóng băng thì tiêu tùng hết mấy cây đỗ quyên của cô!”

Cái nón cũ che nắng của cô Maudie lấp lánh những tinh thể tuyết. Cô đang cúi trên mấy bụi cây nhỏ, bọc chúng trong bao vải đay. Jem hỏi cô làm như vậy để làm gì.

Cô nói: “Giữ cho nó ấm.”

“Bông hoa làm sao giữ ấm? Nó đâu có máu lưu thông.”

“Cô không trả lời được câu hỏi đó, Jem Finch. Cô chỉ biết nếu tối nay đóng băng thì mấy cây này chết cóng, vì vậy cô bọc nó lại. Rõ chưa?”

“Rõ, thưa cô. Cô Maudie à?”

“Cái gì, thưa cậu?”

“Scout với cháu có thể mượn một ít tuyết của cô được không?”

“Phúc đức ơi, lấy hết đi! Dưới gầm nhà có cái giỏ cũ đựng quả đào, hốt tuyết vô đó rồi khiêng hết đi.” Mắt cô Maudie nhíu lại. “Jem Finch, cháu định làm gì với tuyết của cô?”

Jem nói: “Rồi cô sẽ thấy.” Và chúng tôi ra sức chuyển tuyết từ sân nhà cô Maudie qua nhà chúng tôi, một việc rất lép nhép.

Tôi hỏi: “Mình làm gì vậy, Jem?”

Anh nói: “Rồi mày sẽ thấy. Bây giờ lấy cái giỏ khiêng hết tuyết mày cào lên ở sân sau đem ra sân trước. Nhớ đi đúng trên vết chân của mày.” Anh cẩn thận dặn.

“Mình sẽ có em bé tuyết, phải không Jem?”

“Không. Có nguyên một người tuyết. Bây giờ cật lực mà làm.”

Jem chạy vào sân sau, lấy ra cái cuốc vườn và bắt đầu đào nhanh phía sau đống củi, để qua một bên mấy con giun anh thấy. Anh vào nhà, lúc quay lại mang theo cái giỏ mây đựng quần áo giặt, đổ đất vào giỏ rồi khiêng ra sân trước.

Khi chúng tôi đã có năm giỏ đất và hai giỏ tuyết, Jem nói chúng tôi đã đủ để bắt đầu.

Tôi hỏi: “Anh không nghĩ là bẩn nhếch nhác hả?”

Anh nói: “Bây giờ thì thấy bẩn, nhưng chút nữa sẽ hết.”

Jem móc lên một ôm đất, đắp thành ụ, trên đó anh đắp thêm một ụ nữa, rồi một ụ nữa, đến khi anh tạo được một thân người.

Tôi nói: “Jem, em chưa bao giờ nghe thấy một người tuyết da đen.”

Anh càu nhàu: “Nó đen không lâu đâu.”

Jem tìm được mấy cành đào ở sân sau, bện cành lại, rồi uốn thành khung để phủ đất lên.

Tôi nói: “Ổng giống Stephanie Crawford đứng chống nạnh. Ở giữa mập với hai cánh tay hơi nhỏ.”

“Tao sẽ làm nó bự hơn.” Jem vỗ nước lên người bùn rồi đắp thêm đất. Anh trầm ngâm ngắm nghía một lát, rồi đắp một cái bụng bự bên dưới eo của hình người. Jem liếc tôi, mắt anh lấp lánh: “Ông Avery hình dáng khá giống người tuyết chứ hả?”

Jem móc một nắm tuyết rồi bắt đầu trát lên. Anh chỉ cho phép tôi trát sau lưng, chừa phần trước công chúng cho anh. Ông Avery đổi dần thành trắng.

Dùng các mẩu gỗ làm mắt, mũi, miệng và cúc áo, Jem tạo được một ông Avery nom cáu kỉnh. Một que củi là hoàn tất chân dung. Jem lùi lại nhìn sáng tạo của anh.

Tôi nói: “Đẹp lắm, Jem. Trông gần giống như ông ấy sắp nói chuyện với anh.”

Anh bẽn lẽn nói: “Thì đúng vậy phải không?”

Chúng tôi không thể đợi tới khi Atticus về ăn trưa mà gọi điện thoại nói chúng tôi có bất ngờ lớn cho ông. Ông hình như ngạc nhiên khi thấy gần hết sân sau nằm trên sân trước, nhưng ông nói chúng tôi đã làm được một việc siêu quần bạt chúng. Ông bảo Jem: “Ba không biết con làm thế nào, nhưng từ nay ba không còn lo con sẽ ra sao, con luôn luôn có sáng kiến.”

Hai tai Jem đỏ ửng vì lời khen của Atticus, nhưng anh nhìn soi mói khi thấy Atticus bước lùi lại. Atticus nhíu mắt nhìn người tuyết một lát. Ông nhe răng, rồi bật cười: “Con à, ba không biết con sẽ làm gì – kỹ sư, luật sư, hay hoạ sĩ vẽ chân dung. Con gần như phạm tội bôi nhọ ngay trong sân trước nhà. Mình phải ngụy trang anh chàng này.”

Atticus đề nghị Jem cạo bớt một chút phía trước sáng tác của anh, lấy cây chổi thay cho que củi, và mặc cho nó cái tạp dề.

Jem phân trần nếu anh sửa lại thì người tuyết sẽ lem luốc bùn và hết là người tuyết.

Atticus nói: “Ba không cần biết con làm sao, miễn là con có sửa đôi chút. Con không thể đi loanh quanh rồi làm hí hoạ bà con lối xóm.”

Jem nói: “Đâu phải tính hoạ[48]. Nó bỗng giống ông ấy thôi.”

“Ông Avery có thể không nghĩ như vậy.”

Jem nói: “Con biết rồi!” Anh chạy băng qua đường, biến mất vào sân sau nhà cô Maudie rồi đắc thắng trở về. Anh đội cái mũ che nắng của cô lên đầu ông người tuyết rồi ấn cây kéo tỉa hàng rào của cô vào khuỷu tay ông ta. Atticus nói như thế cũng được.

Cô Maudie mở cửa trước rồi đi ra hàng hiên. Cô nhìn qua chúng tôi bên này đường. Thình lình cô nhe răng cười. Cô gọi: “Jem Finch, đồ quỷ, mang trả cái mũ cho tôi, ông ơi!”

Jem ngước nhìn Atticus, ông lắc đầu. Ông nói: “Cô ấy chỉ nhắng lên thôi. Thật ra cô ấy khâm phục… thành tích của con.”

Atticus thong thả bước qua vỉa hè nhà cô Maudie, họ chuyện trò vung vẩy cánh tay, câu duy nhất tôi thoáng nghe được là “… dựng một vật hình tính lưỡng toàn trong cái sân đó![49] Atticus, anh chẳng bao giờ dạy dỗ chúng!”

Đến chiều tuyết ngừng rơi, nhiệt độ giảm thấp, và khi đêm xuống tiên đoán kinh khủng của ông Avery thành sự thật: Calpurnia đốt hừng hực tất cả lò sưởi trong nhà, nhưng chúng tôi vẫn lạnh. Tối hôm ấy Atticus về, ông nói chúng tôi đáng đời, và hỏi Calpurnia có muốn ở lại qua đêm với chúng tôi không. Calpurnia liếc lên trần nhà cao và dãy cửa sổ dài rồi nói bà nghĩ nhà của bà ấm hơn. Atticus lái xe đưa bà về.

Trước khi tôi đi ngủ, Atticus cho thêm than vào lò sưởi trong phòng tôi. Ông nói nhiệt kế chỉ chín độ âm Celsius, đó là đêm lạnh nhất mà ông biết, và người tuyết của chúng tôi bên ngoài đã bị đông cứng.

Hình như mấy phút sau tôi bị ai lay dậy. Cái áo khoác ngoài của Atticus đắp trên người tôi. “Sáng rồi à?”

“Bé con, ngồi dậy.”

Atticus đưa tôi cái áo choàng tắm và áo khoác của tôi. Ông nói: “Mặc áo choàng tắm của con vào trước.”

Jem đứng cạnh Atticus, lảo đảo và tóc rối bù. Anh giữ chặt áo khoác sát cổ, tay kia nhét vào túi áo. Trông anh to béo lạ lùng.

Atticus nói: “Nhanh lên, cưng. Giày vớ con đây.”

Tôi đờ đẫn xỏ vào. “Sáng rồi à?”

“Chưa, mới sau một giờ đêm. Nhanh lên nào.”

Cuối cùng tôi nhận ra có điều gì không ổn. “Chuyện gì vậy?”

Lúc ấy ông không phải nói cho tôi nữa. Như loài chim biết phải đi đâu khi trời mưa, tôi biết khi khu phố chúng tôi có rắc rối. Tiếng sột soạt nho nhỏ như tơ lụa và tiếng chân nhốn nháo bằn bặt làm tôi sợ khôn cưỡng.

“Nhà ai vậy?”

Atticus nhỏ nhẹ nói: “Nhà cô Maudie đấy, cưng à.”

Ở cửa trước, chúng tôi thấy lửa phun ra từ các cửa sổ phòng ăn nhà cô Maudie. Như để xác nhận điều chúng tôi thấy, còi cứu hoả của thị trấn hú lên chói lói rồi giữ ở cường độ đó, thất thanh.

Jem than vãn: “Tiêu tùng rồi phải không?”

Atticus nói: “Ba đoán vậy. Bây giờ nghe đây, cả hai đứa. Đi xuống đứng trước nhà Radley. Đừng làm vướng lối, nghe không? Xem gió thổi hướng nào?”

Jem nói: “Ồ, Atticus, chắc mình nên bắt đầu dọn đồ đạc ra chứ?”

“Chưa đâu con. Làm như lời ba. Bây giờ chạy. Trông chừng Scout, nghe chưa? Đừng để lạc nó.”

Với một cái đẩy, Atticus xua chúng tôi tới cổng trước nhà Radley. Chúng tôi đứng nhìn con phố đầy người và xe trong khi lửa lặng lẽ nuốt chửng nhà cô Maudie. Jem lẩm bẩm: “Tại sao họ không nhanh lên, tại sao họ không nhanh lên…”

Chúng tôi thấy tại sao. Chiếc xe cứu hoả cũ chết máy vì lạnh, đang được một đám người đẩy từ thị trấn đến. Khi họ gắn ống vào cột nước cứu hoả, ống vỡ bục, nước bắn lên, rơi lộp độp trên vỉa hè.

“Ồ-ồ Chúa ơi, Jem…”

Jem vòng tay ôm tôi. Anh nói: “Im, Scout. Chưa phải lúc để lo. Khi đến lúc tao sẽ cho mày biết.”

Các ông phố Maycomb trong mọi kiểu y phục và không y phục, vác bàn ghế từ nhà cô Maudie sang sân nhà bên kia đường. Tôi thấy Atticus khiêng cái ghế bập bênh bằng gỗ sồi nặng của cô Maudie, và nghĩ ông nhạy biết cứu món gì cô quý nhất.

Nhiều lúc chúng tôi nghe tiếng la hét. Rồi mặt ông Avery xuất hiện ở cửa sổ tầng trên. Ông đẩy cái nệm giường ra cửa sổ xuống đường rồi ném đồ đạc xuống tới khi người ta hét: “Xuống ngay, Dick! Cầu thang đang cháy! Ra khỏi đó, ông Avery!”

Ông Avery bắt đầu leo qua cửa sổ.

Jem hổn hển: “Scout, ông ấy mắc kẹt… Ồ Chúa ơi…”

Ông Avery bị nêm chặt. Tôi dụi đầu dưới cánh tay Jem, không nhìn nữa cho tới khi Jem thốt lên: “Ổng thoát ra rồi, Scout! Ổng khoẻ rồi!”

Tôi ngó lên thấy ông Avery băng qua hàng hiên trên lầu. Ông gác hai chân qua lan can rồi trượt xuống theo cột nhà, khi ấy ông tuột tay. Ông ngã, hét lên, và rơi vào đúng bụi gai của cô Maudie.

Bất chợt tôi nhận thấy các ông lùi xa khỏi nhà cô Maudie, di chuyển xuống đường về phía chúng tôi. Họ không còn khiêng bàn ghế nữa. Lửa đã lên quá tầng hai và liếm tới mái nhà: các khung cửa sổ đen đối nghịch với màu cam rực rỡ ở giữa.

“Jem, nó giống như quả bí đỏ…”

“Scout, nhìn kìa!”

Khói cuộn trên nhà chúng tôi và nhà cô Maudie như sương mù trên bờ sông, và các ông đang kéo ống nước tới hai nhà. Đằng sau chúng tôi, xe cứu hoả từ Abbottsville hú còi qua khúc quanh và ngừng trước nhà chúng tôi.

Tôi nói: “Cuốn sách…”

Jem hỏi: “Cái gì?”

“Cuốn Tom Swift không phải của em, mà của Dill…”

Jem nói: “Đừng lo, Scout, chưa đến lúc phải lo. Nhìn đằng kia kìa.” Anh chỉ.

Atticus đang đứng xỏ tay vào túi áo khoác giữa một nhóm bà con lối xóm. Ông có vẻ như đang xem một trận bóng bầu dục. Cô Maudie bên cạnh ông.

Jem nói: “Thấy không, ổng chưa lo.”

“Tại sao ổng hổng leo lên nóc nhà?”

“Ổng già quá rồi, leo lên ổng té gãy cổ.”

“Anh nghĩ mình có nên bảo ổng đem đồ đạc của mình ra không?”

Jem nói: “Đừng quấy rầy ổng, ổng biết khi nào đến lúc.”

Xe cứu hoả Abbottsville bắt đầu phun nước lên nhà chúng tôi; một ông lên mái để chỉ các chỗ cần nước nhất. Tôi nhìn ông Hình tính Lưỡng toàn của chúng tôi hoá đen rồi vỡ vụn; cái mũ che nắng của cô Maudie nằm trên đống đất. Tôi không thấy cây kéo tỉa hàng rào của cô. Trong hơi nóng giữa nhà chúng tôi, nhà cô Rachel và nhà cô Maudie, các ông đã cởi áo khoác và áo choàng tắm từ lâu. Họ chữa cháy trong bộ áo ngủ nhét vào quần, nhưng tôi nhận thấy mình dần dần cóng lạnh ở chỗ tôi đứng. Jem cố giữ cho tôi ấm, nhưng cánh tay anh không đủ. Tôi gỡ tay anh ra rồi ôm chặt vai mình. Sau khi nhún nhảy một lúc, tôi cảm thấy lại bàn chân mình.

Một xe cứu hoả nữa xuất hiện và ngừng trước nhà cô Stephanie Crawford. Không có cột nước cứu hoả cho một vòi nữa, người ta cố tưới ướt nhà cô bằng mấy bình chữa cháy cầm tay.

Mái tôn nhà cô Maudie ngăn bớt ngọn lửa. Căn nhà đổ xuống ầm ầm; lửa phụt ra khắp nơi, tiếp theo đó là một trận chăn mền ầm ĩ của các ông trên mái những căn nhà lân cận để dập tàn lửa và mấy miếng gỗ cháy.

Sau khi trời hừng sáng các ông bắt đầu ra về, thoạt tiên từng người, rồi từng nhóm. Họ đẩy chiếc xe cứu hoả của Maycomb trở lại thị trấn, xe Abbottsville ra về, chiếc thứ ba còn ở lại. Hôm sau chúng tôi biết nó từ Bến phà Clark đến, cách đây sáu mươi dặm.

Jem và tôi lướt qua đường. Cô Maudie đang nhìn đăm đăm cái hố đen bốc khói trong sân nhà cô. Atticus lắc đầu bảo chúng tôi là cô không muốn nói chuyện. Ông dẫn chúng tôi về, nắm vai chúng tôi đi qua con đường đóng băng. Ông nói cô Maudie bây giờ sẽ ở tạm với cô Stephanie.

Ông hỏi: “Ai muốn uống sô cô la nóng?” Tôi rùng mình khi Atticus nhóm lửa bếp lò.

Lúc chúng tôi uống cacao, tôi thấy Atticus nhìn tôi, thoạt đầu với vẻ tò mò, rồi với vẻ nghiêm nghị. Ông nói: “Ba nghĩ ba đã bảo con với Jem đứng yên một chỗ.”

“Sao vậy, bọn con đứng yên mà. Bọn con ở…”

“Thế thì cái chăn đó của ai?”

“Chăn nào?”

“Đúng đấy cô, cái chăn. Không phải chăn của mình.”

Tôi nhìn xuống thấy mình đang nắm chặt cái chăn len màu nâu mà tôi đã khoác quanh vai theo kiểu bà da đỏ.

“Atticus, con không biết, thưa ba… con…”

Tôi quay sang Jem tìm câu trả lời, nhưng Jem còn ngơ ngác hơn cả tôi. Anh nói anh không biết làm sao nó nằm đó, chúng tôi làm đúng như Atticus đã bảo, chúng tôi đứng chôn chặt bên cạnh cổng nhà Radley cách xa mọi người, chúng tôi không nhúc nhích một ly – Jem ngừng lại.

Anh ấp úng: “Ông Nathan ở đám cháy, con thấy ông ấy, con thấy ông ấy, ông ấy lôi cái nệm… Atticus, con thề…”

Atticus dần dần nhe răng cười: “Được rồi, con. Xem bộ tối hôm qua cả phố Maycomb ra ngoài, cách này hay cách khác. Jem, ba nghĩ trong tủ thức ăn có giấy gói. Đi lấy giấy gói rồi mình sẽ…”

“Atticus, không!”

Jem hình như mất trí. Anh bắt đầu tuôn bí mật của chúng tôi ra tứ tung, hoàn toàn bất chấp sự an toàn của tôi nếu không kể đến an toàn của chính anh, không bỏ sót một điều gì, bọng cây, cái quần và mọi thứ.

“… ông Nathan lấp xi măng bọng cây đó, Atticus, ổng lấp để tụi con khỏi tìm thấy món gì nữa… như thiên hạ nói, con đoán ổng điên, nhưng Atticus, con thề với Chúa là ổng chưa bao giờ làm hại tụi con, ổng chưa bao giờ làm hại tụi con, tối hôm đó ổng có thể cắt cổ con từ tai này qua tai kia, nhưng ổng lại cố vá cái quần của con… ổng chưa bao giờ làm hại tụi con, Atticus…”

Atticus nói: “Úi dà, con,” ông dịu dàng tới nỗi tôi cực kỳ phấn khởi. Rõ ràng Atticus chẳng hiểu một chữ nào Jem kể, vì ông chỉ nói: “Con nói đúng. Mình nên giữ kín chuyện này và cái chăn. Có lẽ, một ngày nào đó, Scout có thể cám ơn ông ấy đã đắp chăn cho nó.”

Tôi hỏi: “Cám ơn ai?”

“Boo Radley. Con rối rít nhìn đám cháy đến nỗi không biết ông ấy quấn chăn quanh người con.”

 Bao tử tôi hoá thành nước, và tôi suýt nôn khi Jem giơ cái chăn ra rồi rón rén đi tới tôi. “Ổng lẻn ra khỏi nhà… vòng qua… lẻn tới sát, rồi đi thế này!”

Atticus khô khan nói: “Jeremy, đừng để chuyện này cho con thêm cảm hứng lên tuốt tới cõi tiên.”

Jem cau mày: “Con sẽ không làm gì ổng,” nhưng tôi nhìn thấy mắt anh loé ra một ánh táo bạo mới. Anh nói: “Thử nghĩ coi, Scout, chỉ cần mày quay qua là mày đã thấy ổng.”

Calpurnia đánh thức chúng tôi lúc giữa trưa. Atticus đã nói chúng tôi không cần đến trường hôm ấy, vì chúng tôi sẽ chẳng học được gì sau khi mất ngủ. Calpurnia bảo chúng tôi phải cố dọn sạch sân trước.

Cái mũ che nắng của cô Maudie nằm lơ lửng trong lớp băng mỏng, như con ruồi trong hổ phách, và chúng tôi phải đào đất để lấy lại cây kéo tỉa hàng rào của cô. Chúng tôi tìm thấy cô trong sân sau nhà cô, đang nhìn đăm đăm mấy cây đỗ quyên cháy đen đông đá.

Jem nói: “Bọn cháu mang trả các thứ của cô, cô Maudie. Bọn cháu rất tiếc.”

Cô Maudie nhìn quanh, nụ cười quen thuộc thoáng qua trên mặt cô: “Xưa nay cô vẫn muốn có cái nhà nhỏ hơn, Jem Finch. Để cô có thêm sân. Cứ nghĩ xem, bây giờ cô sẽ có thêm chỗ cho cây đỗ quyên của cô.”

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Cô hổng buồn hả cô Maudie?” Atticus nói gần như tất cả tài sản của cô chỉ có căn nhà.

“Buồn à, nhỏ? Sao nhỉ, cô ghét cái chuồng bò cũ kỹ đó lắm rồi. Đã nghĩ tự mình châm lửa đốt nó cả trăm lần, nhưng sợ họ nhốt cô.”

“Nhưng…”

“Cháu đừng lo cho cô, Jean Louise Finch. Có nhiều cách xoay xở mà cháu không biết. Sao nhỉ, cô sẽ xây cho cô một cái nhà nhỏ rồi tìm hai người ở trọ và… chao ơi, cô sẽ có cái vườn đẹp nhất Alabama. Vườn Bellingrath[50] sẽ thua xa khi cô khởi sự!”

Jem và tôi nhìn nhau. Anh hỏi: “Làm sao cháy vậy, cô Maudie?”

“Cô không biết, Jem. Chắc là vì ống khói trong bếp. Tối hôm qua cô đốt lửa trong bếp để sưởi mấy cái cây trồng trong chậu. Nghe nói tối hôm qua có bạn bất ngờ hả, cô Jean Louise?”

“Làm sao cô biết?”

“Sáng nay trên đường ra thị trấn Atticus có kể cho cô. Nói thật với cháu, cô thích ở gần cháu. Và cô cũng đã đủ khôn để ứng biến[51].”

Cô Maudie khiến tôi ngạc nhiên. Hầu hết tài sản của cô đã mất và mảnh vườn yêu quý tan tành, nhưng cô vẫn chân thành và sôi nổi quan tâm đến những việc của Jem và tôi.

Cô hẳn đã thấy vẻ lúng túng của tôi. Cô nói: “Tối hôm qua cô chỉ lo đám cháy gây náo loạn nguy hiểm. Cả xóm này có thể bị cháy tiêu. Ông Avery sẽ nằm bẹp một tuần – ông ấy gan thật. Ông ấy cũng già quá rồi đâu có làm như vậy được, cô đã bảo ông ấy rồi. Khi nào cô rảnh tay và khi Stephanie Crawford không dòm ngó, cô sẽ làm cho ông ấy cái bánh kem nhiều lớp. Cái cô Stephanie đó dò hỏi công thức làm bánh của cô đã ba chục năm nay rồi, nếu cô ấy tưởng cô sẽ tiết lộ chỉ vì cô ở với cô ấy thì cô ấy nên nghĩ lại.”

Tôi ngẫm nghĩ nếu cô Maudie phân tích ra rồi cho cô Stephanie công thức, cô ấy cũng chẳng theo được. Cô Maudie một lần cho tôi xem: ngoài nhiều thứ khác, công thức còn cần một chén lớn đường.

Hôm ấy yên tĩnh. Bầu trời lạnh và trong tới nỗi chúng tôi nghe được đồng hồ toà án kêu cóc cách, cọt kẹt và ken két trước khi điểm giờ. Mũi cô Maudie có màu tôi chưa từng thấy, và tôi hỏi cô.

Cô nói: “Cô ở ngoài này từ lúc sáu giờ. Lúc này chắc đông cứng rồi.” Cô giơ hai bàn tay lên. Những lằn nhỏ xíu chằng chịt ngang dọc lòng bàn tay cô, sạm nâu vì đất và máu khô.

Jem nói: “Cô làm hư tay rồi. Sao cô không gọi một ông da màu?” Giọng anh không một chút tình nguyện khi anh nói thêm: “Hay Scout với cháu, tụi cháu có thể giúp cô.”

Cô Maudie nói: “Cám ơn cậu, nhưng cậu có việc của cậu bên đó.” Cô chỉ sân nhà chúng tôi.

Tôi hỏi: “Ý cô nói ông Hình tính đó hả? Ôi dào, bọn cháu có thể cào ông ấy trong chớp mắt.”

Cô Maudie nhìn tôi đăm đăm, môi cô mấp máy không thành lời. Bỗng dưng cô đưa tay sờ đầu rồi reo lên. Khi chúng tôi cáo biệt, cô vẫn còn khúc khích.

Jem nói anh không biết cô bị cái gì – cô Maudie vẫn cứ như thế.

 

 

 

 

9

 

“Thằng nhóc con, mày rút lại câu nói đó ngay!”

Tôi ban lệnh này cho Cecil Jacobs. Đây là khởi đầu thời kỳ khá nhức nhối cho Jem và tôi. Nắm tay tôi siết chặt, tôi sẵn sàng xả láng. Atticus đã hứa là sẽ cho tôi đứ đừ nếu ông còn nghe tôi đánh nhau nữa; tôi đã quá lớn tuổi và quá lớn xác để làm những trò trẻ con như thế, và tôi biết kìm lại càng sớm thì mọi người càng khoẻ. Chẳng mấy chốc tôi quên.

Cecil Jacobs làm tôi quên. Hôm trước nó tuyên bố trong sân trường là ba của con Scout Finch bào chữa cho tụi mọi đen. Tôi phủ nhận, nhưng kể cho Jem.

Tôi hỏi: “Nó nói vậy nghĩa là gì?”

Jem nói: “Tào lao. Hỏi Atticus, ổng sẽ nói cho mày nghe.”

Tối hôm đó tôi hỏi ông: “Atticus, có phải ba bào chữa cho tụi mọi đen không?”

“Dĩ nhiên. Scout, đừng dùng chữ tụi mọi đen. Nói như vậy thô tục.”

“Ở trường đứa nào cũng nói như vậy.”

“Từ nay đứa nào cũng nói như vậy, trừ một đứa…”

“Ôi dào, nếu ba không muốn con lớn lên nói kiểu đó thì tại sao ba cho con tới trường?”

Cha tôi dịu dàng nhìn tôi, vẻ thích thú hiện ra trong mắt ông. Mặc dù chúng tôi đã có thoả thuận sau vụ rắc rối trong ngày đi học đầu tiên của tôi, nhưng bằng cách này hay cách khác tôi vẫn tiếp tục vận động khỏi tới trường: đầu tháng Chín vừa rồi tôi bị mấy đợt nản chí, chóng mặt và hơi nôn nao dạ dày. Tôi thậm chí phải trả năm xu để được đặc ân cọ xát đầu mình với đầu thằng con bà nấu bếp của cô Rachel, nó bị lác đồng tiền khủng khiếp. Nhưng chẳng ăn thua gì.

Nhưng lúc này tôi đang lo một vụ khó nhá khác. “Tất cả luật sư đều bào chữa cho m… người da đen, phải không Atticus?”

“Dĩ nhiên, Scout.”

“Vậy tại sao Cecil nói ba bào chữa cho tụi mọi đen? Giọng nó nói nghe như ba đang nấu rượu lậu.”

Atticus thở dài. “Ba chỉ bào chữa cho một anh da đen – tên anh ta là Tom Robinson. Anh ta sống trong khu nhà nhỏ đi quá khỏi bãi rác của thị trấn. Anh ta là tín đồ cùng giáo phái với Calpurnia, và Cal biết rõ gia đình anh ta. Bà ấy nói họ là những người sống trong sạch. Scout, con chưa đủ lớn để hiểu một số việc, nhưng trong phố có những lời tự cao tự đại hàm ý rằng ba không nên cố bào chữa cho anh này. Đây là một vụ khác thường… đến khoá hè mới xét xử. John Taylor khá tốt bụng cho mình hoãn…”

“Nếu ba không nên bào chữa cho ông ấy, vậy tại sao ba làm?”

Atticus nói: “Vì một số lý do. Lý do chính là nếu ba không làm thì ba không thể ngẩng cao đầu trong thị trấn được, ba không thể đại diện quận hạt này trong quốc hội, thậm chí ba không thể bảo con hay Jem đừng làm việc này việc kia nữa.”

“Ý ba muốn nói là nếu ba không bào chữa cho ông đó, Jem với con sẽ không phải nghe lời ba nữa à?”

“Đại khái như thế.”

“Tại sao?”

“Vì ba không bao giờ có thể yêu cầu các con nghe lời ba được nữa. Scout, chỉ vì bản chất của nghề nghiệp, mọi luật sư trong đời mình đều lãnh ít nhất một vụ án ảnh hưởng tới bản thân mình. Ba nghĩ vụ này là vụ của ba. Ở trường con có thể nghe nói xấu về vụ này, nhưng con làm điều này cho ba nếu được: con cứ ngẩng cao đầu và hạ thấp hai cái nắm tay đó xuống. Bất kể đứa nào nói gì với con, con đừng để tụi nó làm con cáu. Thỉnh thoảng thử đổi kiểu tranh đấu bằng cái đầu con xem sao… như thế tốt, ngay cả khi cái đầu nó tìm cách khỏi đi học.”

“Atticus, mình sẽ thắng chứ?”

“Không đâu cưng.”

“Vậy thì tại sao…”

Atticus nói: “Đơn giản là vì cho dù mình đã bị đánh te tua cả trăm năm trước khi mình khởi sự thì đó cũng không phải là lý do để mình không cố thắng.”

Tôi nói: “Ba nói như cụ bác họ Ike Finch.” Cụ Ike Finch là cựu chiến binh Nam quân duy nhất còn sống của hạt Maycomb. Cụ tự đắc ghê gớm với bộ râu kiểu tướng Hood[52]. Ít nhất mỗi năm một lần Atticus, Jem và tôi đến thăm cụ, và tôi sẽ phải hôn cụ. Thật kinh khủng. Jem và tôi sẽ kính cẩn lắng nghe Atticus và cụ Ike hâm lại cuộc chiến. Cụ Ike nói: “Nghe nè, Atticus, Thoả hiệp Missouri[53] là cái làm mình te tua, nhưng nếu tao phải làm lại thì tao sẽ đi từng bước một tới đó rồi đi từng bước một trở lại, y chang như tao đã làm, và lần này mình sẽ quất tụi nó tơi bời… nào, năm 1864, lúc Stonewall Jackson[54] đã ngỏm củ tỏi – xin lỗi các cháu nha. Lúc đó Ol’ Blue Light đã lên thiên đàng, cầu xin Chúa cho sắc diện thánh thiện của ổng an nghỉ…”

Atticus nói: “Tới đây, Scout.” Tôi bò vào lòng ông rồi rúc đầu dưới cằm ông. Ông vòng tay ôm tôi và đu đưa tôi nhè nhẹ. Ông nói: “Lần này thì khác, lần này mình không đánh với Yankee[55], mà mình đánh nhau với bạn mình. Nhưng nhớ là bất kể sự việc cay đắng thế nào, họ vẫn là bạn mình và đây vẫn là quê mình.”

Với ý đó trong đầu, hôm sau tôi đối diện Cecil Jacobs tại sân trường: “Mày rút lại câu đó không, thằng nhóc con?”

Nó hét: “Mày phải bắt được tao rút lại trước đã! Người nhà tao nói tía mày đáng ghét, còn thằng mọi đen đó đáng bị treo cổ trên bồn nước!”

Tôi nhíu mắt nhìn nó, nhớ lời Atticus nói, rồi buông nắm đấm và bỏ đi. Tai tôi nghe văng vẳng “Scout là đứa chết-ết nhát-át!” Đó là lần đầu tiên tôi quay lưng với một vụ ẩu đả.

Dù sao, nếu đánh Cecil thì tôi sẽ làm Atticus thất vọng. Atticus rất ít khi yêu cầu Jem và tôi làm gì cho ông, vì thế tôi có thể chịu bị gọi là chết nhát vì ông. Tôi cảm thấy cực kỳ cao quý vì đã nhớ lời ông, và tiếp tục cao quý suốt ba tuần. Rồi Giáng sinh đến, và tai hoạ ập xuống.

*

Jem và tôi có nhiều cảm giác lẫn lộn đối với lễ Giáng sinh. Mặt ưa thích của ngày lễ là cây Giáng sinh và chú Jack Finch. Mỗi năm trước ngày Giáng sinh chúng tôi đều đón chú Jack ở Ga Maycomb, và chú sẽ ở lại với chúng tôi một tuần.

Lật qua mặt kia là tính cứng ngắc của bác Alexandra và Francis.

Tôi nghĩ nên kể thêm bác Jimmy, chồng bác Alexandra, nhưng vì ổng không bao giờ nói với tôi tiếng nào, trừ một lần bảo “Buông cái hàng rào ra,” vì thế tôi chưa hề thấy có lý do nào để chú ý tới ổng. Và cả bác Alexandra nữa. Lâu lắm rồi, trong một lần thân mật đột biến, bác gái và bác Jimmy sản xuất ra một anh con trai tên Henry, anh bỏ nhà đi ngay khi có thể đi, cưới vợ và sản xuất ra Francis. Henry và vợ gửi Francis ở nhà ông bà nội nó mỗi dịp Giáng sinh, rồi họ bỏ đi tận hưởng thú vui riêng của họ.

Bao nhiêu tiếng thở dài cũng không đủ để thuyết phục Atticus cho chúng tôi ở nhà ngày Giáng sinh. Tôi nhớ mỗi Giáng sinh chúng tôi đều tới Bến Finch. Tài nấu ăn của bác gái tạm đủ đền bù cho việc bị cưỡng bách phải sống ngày lễ thánh với Francis Hancock. Nó lớn hơn tôi một tuổi, và trên nguyên tắc tôi tránh xa nó: nó thích mọi thứ tôi chê, và ghét những thú tiêu khiển chân chất của tôi.

Bác Alexandra là chị của Atticus, nhưng khi Jem kể cho tôi chuyện bọn trẻ bị đánh tráo với anh chị em ruột, tôi tin rằng bà đã bị đổi lúc mới sinh, ông bà nội tôi có lẽ đã nhận một cô Crawford thay vì một cô Finch. Nếu tôi đã từng chứa chấp trong đầu ý niệm bí ẩn về các ngọn núi có vẻ như ám ảnh giới luật sư và quan toà, thì bác Alexandra tương tự như ngọn Everest: suốt thời thơ ấu của tôi, bác lạnh lẽo và luôn hiện diện.

Một ngày trước hôm Giáng sinh chú Jack nhảy xuống xe lửa, và chúng tôi phải chờ ông khuân vác đưa chú hai cái gói dài. Jem và tôi vẫn luôn thấy buồn cười khi chú Jack hôn phớt lên má Atticus; họ là hai người đàn ông duy nhất mà chúng tôi thấy hôn nhau. Chú Jack bắt tay Jem rồi tung tôi lên cao, nhưng không đủ cao: chú Jack thấp hơn Atticus một cái đầu; chú là em út trong gia đình, nhỏ hơn bác Alexandra. Chú và bác gái trông giống nhau, nhưng chú Jack dùng mặt chú tốt hơn: chúng tôi không bao giờ phải đề phòng cái mũi và cái cằm nhọn của chú.

Chú là một trong số ít người khoa học không hề làm tôi khiếp sợ, có lẽ vì chú chẳng bao giờ cư xử như bác sĩ. Mỗi khi chú làm một việc gì nho nhỏ cho Jem và tôi, chẳng hạn như khều cái dằm trên bàn chân, chú sẽ nói rõ ràng cho chúng tôi điều chú sắp làm, cho chúng tôi biết sẽ đau tới mức nào, và giải thích công dụng của từng cái kẹp chú dùng. Một hôm Giáng sinh tôi trốn trong góc ôm cái dằm xoáy ở bàn chân, không cho ai đến gần. Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú cứ làm tôi cười về một ông giảng đạo ghét đi nhà thờ tới mức mỗi ngày ông mặc áo ngủ đứng ở cổng, hút bình thuốc lào Ả Rập và giảng năm phút cho bất kỳ ai đi ngang muốn được an ủi tinh thần. Tôi ngưng cười để bắt chú Jack cho tôi biết khi nào rút dằm, nhưng chú đưa cây nhíp kẹp cái dằm máu me lên nói chú đã giật ra trong lúc tôi cười, điều đó người ta gọi là thuyết tương đối.

Tôi chỉ hai cái gói dài ốm nhom mà ông khuân vác đưa chú, rồi hỏi: “Cái gì trong hai cái gói đó vậy?”

Chú nói: “Không phải việc của cháu.”

Jem hỏi: “Rose Aylmer có khoẻ không?”

Rose Aylmer là con mèo của chú Jack. Nó là con mèo cái màu vàng xinh đẹp chú Jack nói là một trong số ít bà mà chú có thể chịu đựng được mãi mãi. Chú thò tay vào túi áo khoác rút ra mấy tấm ảnh. Chúng tôi trầm trồ.

Tôi nói: “Nó mập ra.”

“Chú cũng nghĩ vậy. Nó ăn hết mấy ngón tay và lỗ tai còn dư trong bệnh viện.”

Tôi nói: “A, mẹ kiếp.”

“Xin lỗi cô?”

Atticus nói: “Đừng để ý tới nó, Jack. Nó đang thử chú đấy. Cal nói nó rủa xả thông thạo cả tuần nay rồi.”

Chú Jack nhướng lông mày, không nói gì. Ngoài tính hấp dẫn tự có của mấy chữ đó, tôi đang thử một lý thuyết mơ hồ là nếu Atticus khám phá ra tôi học mấy chữ đó ở trường thì ông sẽ không bắt tôi đi học nữa.

Nhưng trong bữa ăn tối hôm ấy, khi tôi nhờ chú làm ơn chuyền món thịt heo muối mẹ kiếp đó, chú Jack chỉ tôi: “Chốc nữa cô bé gặp chú.”

Sau bữa ăn, chú Jack ra ngồi ở phòng khách. Chú vỗ đùi cho tôi tới ngồi vào lòng chú. Tôi thích ngửi mùi chú: chú có mùi chai rượu cồn và mùi ngòn ngọt dễ chịu. Chú vén mớ tóc cắt ngang trán tôi và nhìn tôi. Chú nói: “Cháu giống Atticus hơn mẹ cháu. Cháu cũng hơi lớn quá cái quần của cháu rồi.”

“Cháu nghĩ cái quần vừa lắm.”

“Bây giờ cháu thích dùng những chữ như mẹ kiếp với đồ chết tiệt phải không?”

Tôi nói chắc vậy.

Chú Jack nói: “Ồ chú không thích, trừ phi bị chọc tức ghê gớm lắm thì mới dùng. Chú sẽ ở đây một tuần, chú không muốn nghe bất kỳ chữ nào như vậy nữa trong khi chú ở đây. Scout, cháu sẽ gặp rắc rối nếu cháu đi loanh quanh nói những chữ như vậy. Cháu muốn lớn lên thành phụ nữ lịch thiệp phải không?”

Tôi nói không hẳn lắm.

“Tất nhiên cháu muốn. Bây giờ mình lại chỗ cái cây.”

Chúng tôi trang trí cây cho đến giờ ngủ, và tối hôm ấy tôi mơ tới hai cái gói dài cho Jem và tôi. Sáng hôm sau Jem và tôi nhào tới nó: nó là của Atticus, ông đã viết thư bảo chú Jack mua cho chúng tôi, và nó là món chúng tôi xin.

Khi Jem nhắm vào bức tranh trên tường, Atticus nói: “Đừng nhắm súng trong nhà.”

Chú Jack nói: “Anh phải dạy tụi nó bắn.”

Atticus nói: “Việc ấy của chú. Tôi chỉ nhượng bộ điều không thể tránh.”

Phải cần đến giọng toà án của Atticus mới lôi được chúng tôi ra xa cái cây. Ông không cho chúng tôi mang hai khẩu súng bắn hơi đến Bến Finch (tôi đã bắt đầu nghĩ tới bắn Francis) và nói nếu chúng tôi làm bậy một cái là ông sẽ tịch thu nó luôn.

Bến Finch có ba trăm sáu mươi sáu bậc từ bờ dốc cao xuống tới bờ kè. Xuôi theo dòng nước, qua khỏi bờ dốc là dấu tích của bến bông gòn hồi xưa, nơi các người da đen nhà Finch vác xuống tàu những kiện bông gòn và nông phẩm, bốc dỡ lên bờ những khối nước đá, bột và đường, nông cụ và y phục phụ nữ. Con đường lún hai vết bánh xe chạy từ bờ sông rồi biến mất giữa rừng cây tối. Cuối đường là căn nhà trắng hai tầng với hàng hiên vòng quanh trên lầu và dưới nhà. Lúc về già, ông tổ Simon Finch của chúng tôi xây nhà để làm vừa lòng bà vợ mè nheo của cụ; nhưng nhà chỉ có dãy hàng hiên là giống với các căn nhà bình thường cùng thời đại. Sắp xếp phòng ốc trong nhà Finch cho thấy sự chất phác và niềm tin tuyệt đối của Simon khi cụ đánh giá con mình.

Trên lầu có sáu phòng ngủ, bốn phòng cho tám cô con gái, một cho Welcome Finch, người con trai duy nhất, và một cho họ hàng đến thăm. Khá đơn giản; nhưng các phòng con gái chỉ có một cầu thang lên, phòng của Welcome và của khách phải đi cầu thang khác. Cầu Thang Con Gái nằm trong phòng ngủ ở tầng dưới của cha mẹ, vì thế Simon luôn luôn biết giờ đi giờ về ban đêm của các con gái cụ.

Gian bếp tách rời, nối với nhà chính bằng một lối đi hẹp lót gỗ. Sân sau có cái chuông rỉ treo trên cây cột dùng để gọi tá điền hay phát tín hiệu báo nguy. Trên mái nhà có sân vọng phu[56], nhưng chẳng có bà quả phụ nào đi trên đó – trên đó Simon kiểm soát các đốc công của cụ, nhìn tàu bè trên sông, và chõ mắt vào cuộc sống của các chủ đất xung quanh.

 Căn nhà cũng có truyền thuyết vốn có về bọn Yankee: một cô Finch mới đính hôn mặc hết áo quần tư trang của cô dâu vào người để khỏi bị bọn xâm lăng đang có mặt trong vùng tước mất; cô bị kẹt ở cửa đi tới Cầu Thang Con Gái, nhưng họ dội nước và cuối cùng đẩy cô lọt qua. Khi chúng tôi tới Bến Finch, bác Alexandra hôn chú Jack, Francis hôn chú Jack, bác Jimmy im lặng bắt tay chú Jack, Jem và tôi đưa quà cho Francis, nó đưa quà cho chúng tôi. Jem cảm thấy trưởng thành và bị hút theo người lớn, để tôi chơi với thằng cháu họ. Francis tám tuổi, tóc chải bóng mượt ra phía sau.

Tôi lịch sự hỏi: “Giáng sinh mày có quà gì?”

Nó nói: “Đúng mấy thứ tao xin.” Francis xin một cái quần ngắn tới đầu gối, một cái cặp da màu đỏ, năm cái áo sơ mi và một cái nơ tự thắt.

Tôi giả dối nói: “Thích nhỉ. Jem với tao được hai cây súng bắn hơi, Jem còn có bộ đồ thí nghiệm hoá học…”

“Chắc là đồ chơi.”

“Đâu phải, bộ thật. Anh ấy sẽ làm mực vô hình cho tao, rồi tao sẽ dùng nó để viết thư cho Dill.”

Francis hỏi như vậy để làm gì.

“Ôi dào, mày không thấy mặt nó lúc nó nhận lá thư của tao không có chữ nào trong đó à? Nó sẽ phát điên lên.”

Nói chuyện với Francis làm tôi cảm thấy như đang chìm dần xuống đáy biển. Nó là đứa chán nhất mà tôi từng gặp. Vì nó sống ở Mobile, nó không thể mách tôi với các thầy cô trong trường, nhưng nó có cách kể hết mọi chuyện nó biết cho bác Alexandra, rồi đến lượt bác trút lên Atticus, ông hoặc quên hoặc làm tôi điêu đứng, tùy theo kiểu nào ông tưởng tượng ra. Nhưng lần duy nhất tôi nghe Atticus gắt với người khác là lần tôi nghe ông nói: “Thưa chị, em cố hết sức với chúng!” Chuyện đó có liên quan tới bộ áo liền quần tôi mặc đi khắp nơi.

Bác Alexandra rất cực đoan về vấn đề quần áo của tôi. Nếu tôi mặc quần chẽn tới đầu gối thì tôi không thể nào hy vọng trở thành phụ nữ lịch thiệp; khi tôi nói tôi chẳng làm được việc gì trong bộ váy đầm, bác nói tôi không cần làm cái gì phải mặc quần tây. Quan điểm của bác Alexandra về hạnh kiểm của tôi bao gồm chơi với cái bếp nhỏ, bộ đồ uống trà, và đeo sợi dây chuyền Thêm-Một-Hạt[57] mà bác cho hồi tôi mới sinh; hơn nữa, tôi nên là tia nắng trong cuộc đời cô độc của cha mình. Tôi gợi ý rằng người ta cũng có thể là tia nắng mặc quần dài, nhưng bác nói người ta phải cư xử như tia nắng, rằng tôi sinh ra ngoan nhưng lớn lên mỗi năm mỗi tệ hơn. Bác chạm lòng tự ái của tôi và cứ làm tôi bực mình, nhưng khi tôi hỏi Atticus, ông nói trong gia đình đã đủ tia nắng và tôi cứ lo việc của tôi, ông chẳng nề hà gì lắm về kiểu cách của tôi.

Trong bữa ăn hôm Giáng sinh, tôi ngồi bên bàn nhỏ trong phòng ăn; Jem và Francis ngồi với người lớn ở bàn chính. Bác gái tiếp tục cô lập tôi sau khi Jem và Francis đã được chuyển lên bàn lớn từ lâu. Tôi thường tự hỏi bác nghĩ tôi sẽ làm gì, đứng lên rồi ném cái gì chăng? Đôi lúc tôi định xin bác cho mình ngồi ở bàn lớn với mọi người chỉ một lần thôi, tôi sẽ chứng tỏ cho bác là tôi có thể lịch lãm ra sao; xét cho cùng, mỗi ngày ở nhà tôi có thể ăn mà chẳng gây rủi ro đáng kể nào. Khi tôi năn nỉ Atticus dùng uy thế của ông, ông nói ông chẳng có thế lực gì – chúng tôi là khách, chúng tôi ngồi chỗ bác bảo chúng tôi ngồi. Ông cũng nói bác Alexandra không hiểu con gái lắm, bác chưa từng có con gái.

Nhưng tài nấu nướng của bác đủ đền bù hết cho mọi thứ: ba loại thịt, rau mùa hè trên kệ tủ thức ăn của bác; đào ngâm, hai loại bánh và món tráng miệng trái cây trộn dừa cho bữa ăn Giáng sinh giản dị. Sau đó, người lớn qua phòng khách ngồi ì ra lim dim. Jem nằm trên sàn nhà, còn tôi ra sân sau. “Con mặc áo khoác vào,” Atticus nói mơ màng, vì thế tôi không nghe thấy.

Francis ngồi bên cạnh tôi trên bậc thềm sau nhà. Tôi nói: “Ngon quá chừng.”

Francis nói: “Bà nội là đầu bếp số một. Bà sẽ dạy tao nấu.”

“Con trai không nấu ăn.” Tôi cười khúc khích khi nghĩ đến Jem đeo cái tạp dề.

Thằng cháu họ của tôi nói: “Bà nội nói tất cả đàn ông nên học nấu ăn, đàn ông nên chu đáo với vợ mình và hầu hạ khi vợ cảm thấy không khoẻ.”

Tôi nói: “Tao không muốn Dill hầu hạ tao. Thà là tao hầu hạ nó.”

“Dill nào?”

“Ừ. Chưa bàn tới, nhưng tụi tao sẽ làm đám cưới ngay khi tụi tao đủ lớn. Nó hỏi cưới tao hồi mùa hè vừa rồi.”

Francis rú lên chế giễu.

Tôi hỏi: “Nó làm sao? Nó hổng có vấn đề gì.”

“Mày nói tới cái thằng nhỏ èo uột mà bà nội nói mỗi mùa hè đến ở với cô Rachel phải không?”

“Đúng nó.”

Francis nói: “Tao biết hết mọi chuyện về nó.”

“Nó làm sao?”

“Bà nội nói nó không có nhà…”

“Có, nó sống ở Meridian.”

“… nó bị chuyền từ nhà bà con này qua nhà bà con khác, cô Rachel giữ nó mỗi mùa hè.”

“Francis, tầm bậy!”

Francis nhe răng cười tôi. “Mày đôi lúc ngu hết sức, Jean Louise. Chắc mày cũng chẳng biết gì hơn.”

“Mày muốn nói gì.”

“Nếu ông cậu Atticus để mày chạy quanh với tụi chó hoang thì đó là chuyện riêng của ổng, như bà nội nói, vì vậy hổng phải lỗi tại mày. Tao chắc cũng hổng phải lỗi tại mày khi ông cậu Atticus còn yêu tụi mọi đen nữa, nhưng tao đây nói cho mày biết như vậy làm mất thể diện cả gia đình là cái chắc…”

“Francis, mẹ kiếp, mày nói cái gì vậy?”

“Thì như tao vừa nói. Bà nội nói ổng để hai đứa mày chạy rông là đã đủ tệ rồi, bây giờ ổng còn đâm ra yêu tụi mọi đen thì mình sẽ hổng bao giờ có thể đi trên phố Maycomb được nữa. Ổng đang phá tan nát gia đình, ông đang làm y chang như vậy.”

Francis đứng lên phóng xuống lối đi hẹp dẫn tới gian bếp cũ. Khi đã cách một khoảng an toàn, nó la: “Ổng chỉ là đồ yêu tụi mọi đen!”

Tôi gầm lên: “Không đúng! Tao không biết mày nói cái gì, nhưng mày câm ngay tức khắc!”

Tôi nhảy khỏi bậc thềm, chạy xuống lối đi hẹp. Tóm cổ Francis là chuyện dễ. Tôi bảo nó rút lại lời vừa nói ngay lập tức.

Francis vùng thoát ra và chạy vào gian bếp cũ. Nó hét: “Đồ yêu tụi mọi đen!”

Khi rình con mồi, tốt nhất là cứ thong thả. Lặng im, và chắc như bắp là nó sẽ hiếu kỳ rồi mò ra. Francis xuất hiện ở cửa bếp. Nó thăm dò: “Mày vẫn còn tức hả, Jean Louise?”

Tôi nói: “Hổng có gì để nói.”

Francis bước ra lối đi hẹp.

“Mày rút lại lời mày nói chứ, Fra-ancis?” Nhưng tôi ra tay quá vội. Francis lại vụt vào bếp, vì thế tôi lùi về bậc thềm. Tôi có thể kiên nhẫn đợi. Ngồi đó có lẽ được năm phút tôi nghe bác Alexandra nói: “Francis đâu?”

“Nó trong bếp đằng kia.”

“Nó biết là nó không được chơi trong đó mà.”

Francis tiến ra cửa rồi hét: “Bà nội, nó bắt cháu vào trong này, nó không cho cháu ra!”

“Chuyện gì vậy, Jean Louise?”

Tôi ngước nhìn lên bác Alexandra. “Cháu không bắt nó vào đó, thưa bác, cháu hổng có nhốt nó.”

Francis hét: “Có, nó không cho cháu ra!”

“Hai đứa cãi nhau à?”

Francis gọi: “Bà nội, Jean Louise tức cháu.”

“Francis, ra khỏi chỗ đó! Jean Louise, nếu bác nghe cháu nói một tiếng nữa thì bác sẽ mách ba cháu. Có phải bác mới nghe cháu nói mẹ kiếp lúc nãy không?”

“Dạ không.”

“Bác nghĩ bác có nghe. Bác không muốn nghe chữ đó nữa.”

Bác Alexandra là thứ nghe lén ở hiên sau. Lúc bác vừa đi khuất, Francis vênh váo đi ra nhe răng cười. Nó nói: “Đừng có cà chớn với tao.”

Nó nhảy vào sân và né xa, đá bụi cỏ, thỉnh thoảng quay lại cười nhạo tôi. Jem xuất hiện trên hàng hiên, nhìn chúng tôi rồi bỏ đi. Francis leo lên cây mimosa, tuột xuống, xỏ hai tay vào túi rồi đi dạo quanh sân. Nó nói: “Ha!” Tôi hỏi nó tưởng nó là ai, chú Jack hả? Francis nói nó nghĩ tôi đã bị mắng, tôi phải ngồi đó và để nó yên.

Tôi nói: “Tao hổng để ý tới mày.”

Francis thận trọng nhìn tôi, nghĩ rằng tôi đã chịu thua, nó ngân nga nho nhỏ “Đồ yêu bọn mọi đen…”

Lần này đốt ngón tay tôi bị rách tới xương trên răng cửa của nó. Tay trái tôi bị thương, tôi đấm bằng tay phải, nhưng không lâu. Chú Jack giữ chặt hai tay tôi bên hông rồi nói: “Đứng yên!”

Bác Alexandra săn sóc Francis, lau nước mắt cho nó bằng khăn mùi soa của bác, xoa đầu nó, vuốt má nó. Atticus, Jem, và bác Jimmy đã ra tới hiên sau lúc Francis bắt đầu la hét.

Chú Jack nói: “Ai gây sự?”

Francis và tôi chỉ nhau. Nó bù lu bù loa: “Bà nội, nó gọi cháu là con điếm rồi nhào lên cháu!”

Chú Jack hỏi: “Đúng không, Scout?”

“Cháu chắc là đúng.”

Lúc chú Jack nhìn xuống tôi, nét mặt chú giống bác Alexandra. “Cháu biết chú đã bảo cháu là cháu sẽ gặp rắc rối nếu cháu dùng những chữ như vậy phải không? Chú đã bảo cháu rồi phải không?”

“Vâng thưa chú, nhưng…”

“Ôi dào, bây giờ cháu gặp rắc rối rồi. Đứng yên đó.”

Tôi đang suy tính là đứng đó hay chạy, và nấn ná lưỡng lự hơi quá lâu: tôi xoay mình bỏ chạy nhưng chú Jack nhanh hơn. Tôi bỗng thấy mình nhìn con kiến bé tí xíu đang vật nhau với mẩu bánh mì vụn trên cỏ.

“Cháu không bao giờ nói chuyện với chú nữa cho tới chết! Cháu ghét chú, khinh chú, hy vọng ngày mai chú chết đi!” Một câu nói hình như khích lệ chú Jack hơn bất cứ cái gì. Tôi chạy tới Atticus để được an ủi, nhưng ông nói tại tôi và đã đến giờ về lắm rồi. Tôi leo vào ghế sau xe không nói từ giã ai, về đến nhà tôi chạy vào phòng mình rồi đóng sầm cửa lại. Jem định nói mấy câu tử tế, nhưng tôi không để anh nói.

Tôi xem xét vết thương, chỉ có bảy tám dấu đỏ, và khi tôi đang ngẫm nghĩ về thuyết tương đối thì có ai gõ cửa. Tôi hỏi ai đó; chú Jack trả lời.

“Đi chỗ khác đi!”

Chú Jack nói nếu tôi nói như vậy thì chú sẽ phạt tôi nữa, vì thế tôi im. Khi chú vào phòng, tôi rút vào góc, quay lưng ra chú. Chú nói: “Scout, cháu còn ghét chú à?”

“Chú cứ nói đi.”

Chú nói: “Sao thế, chú không nghĩ cháu cho là tại chú. Chú thất vọng về cháu… tại cháu gây ra và cháu biết.”

“Cháu không gây ra và cũng không biết.”

“Cưng à, cháu không được đi nói người ta là…”

Tôi nói: “Chú không công bằng, chú không công bằng.”

Lông mày chú Jack nhướng lên. “Không công bằng? Không công bằng thế nào?”

“Chú rất tốt, chú Jack, và cháu nghĩ cháu yêu chú ngay cả sau khi chú làm như vậy, nhưng chú không hiểu con nít lắm.”

Chú Jack chống tay lên hông rồi nhìn xuống tôi. “Và tại sao chú không hiểu con nít, cô Jean Louise? Cách cư xử như thế của cháu không cần phải hiểu biết nhiều. Đó là ngỗ nghịch, bừa bãi và sẵng…”

“Chú có để cháu có cơ hội nói cho chú nghe không? Cháu không có ý hỗn với chú, cháu chỉ cố nói cho chú.”

Chú Jack ngồi xuống giường. Lông mày chú nhíu lại, soi mói nhìn tôi qua hàng lông mày. Chú bảo: “Nói đi.”

Tôi hít một hơi dài. “À, thứ nhất chú không hề ngừng lại để cho cháu có cơ hội kể cho chú phía của cháu – chú mắng cháu ngay. Khi Jem với cháu cãi nhau, Atticus không hề chỉ nghe phía của Jem, ổng nghe cả phía của cháu, thứ nhì chú bảo cháu đừng bao giờ dùng những chữ như vậy trừ phi bị chọc tức ghê gớm lắm lắm, còn thằng Francis thọc cháu đủ để đánh bể sọ nó…[58]

Chú Jack gãi đầu. “Vậy phía của cháu là gì, Scout?”

“Francis gọi Atticus là một thứ mà cháu sẽ không tha nó được.”

“Francis gọi ổng là gì?”

“Đứa yêu tụi mọi đen. Cháu hổng rõ nghĩa là gì lắm, nhưng cách thằng Francis nói… cho chú biết ngay lúc này, chú Jack, cháu là đồ kh… cháu thề trước Chúa là cháu sẽ không ngồi đó mà để nó nói đụng tới Atticus.”

“Nó gọi Atticus như vậy hả?”

“Vâng thưa chú, nó gọi như vậy và nhiều thứ nữa. Nói Atticus phá hoại gia cang và để Jem với cháu chạy rông…”

Nhìn vẻ mặt chú Jack, tôi nghĩ tôi lại lãnh đủ nữa. Khi chú nói: “Mình sẽ coi lại vụ này,” tôi biết Francis sẽ lãnh đủ. “Chú có ý là tối nay ra đó.”

“Thôi chú, bỏ qua đi. Cháu xin chú.”

Chú nói: “Chú không có ý định bỏ qua. Alexandra nên biết chuyện này. Cái ý… chờ tới khi chú tóm được thằng nhóc đó…”

“Chú Jack, làm ơn hứa với cháu một điều, thưa chú. Hứa là chú sẽ không kể cho Atticus chuyện này. Ổng… ổng đã một lần yêu cầu cháu đừng để bất kỳ cái gì cháu nghe được về ổng làm cháu tức, với lại cháu thà là để ổng nghĩ tụi cháu đánh nhau vì chuyện nào khác. Xin chú hứa…”

“Nhưng chú không thích thằng Francis thoát cái tội như thế này…”

“Nó đâu có thoát. Chú nghĩ chú băng tay cháu lại được không? Nó còn hơi chảy máu.”

“Dĩ nhiên chú sẽ băng cho em bé. Chú chưa biết bàn tay nào mà chú thích băng lại bằng. Mời cô đi phía này.”

Chú Jack lịch thiệp nghiêng đầu mời tôi tới phòng tắm. Trong khi chú rửa và băng các đốt ngón tay tôi, chú giải trí cho tôi bằng câu chuyện một ông già lịch lãm cận thị buồn cười có con mèo tên Nhà Quê, khi đi ra thị trấn ổng đếm hết các khe nứt trên vỉa hè. Chú nói: “Xong rồi. Cháu sẽ có một vết sẹo rất không xứng với tiểu thư trên ngón tay đeo nhẫn cưới của cháu.”

“Cám ơn chú. Chú Jack à?”

“Việc gì, tiểu thư?”

“Con điếm là gì?”

Chú Jack nhảy qua một chuyện dài khác về một ông thủ tướng già ngồi trong Viện Thứ Dân[59] thổi lông tơ lên trời rồi cố giữ nó trên đó trong khi tất cả mọi người quanh ông đang nổi cáu. Tôi đoán chú cố trả lời câu hỏi của tôi, nhưng chú nói chẳng đâu vào đâu.

Sau đó, lúc đến giờ tôi phải ngủ, tôi xuống hành lang để uống nước và nghe tiếng Atticus với chú Jack trong phòng khách:

“Atticus, em sẽ không bao giờ lập gia đình.”

“Sao vậy?”

“Em có thể có con.”

Atticus nói: “Chú có nhiều thứ để học, Jack.”

“Em biết. Chiều nay con gái anh dạy em bài học đầu tiên. Nó nói em không hiểu con nít lắm và bảo em tại sao. Nó hoàn toàn đúng. Atticus, nó bảo em cách nên đối xử với nó như thế nào… chao ơi, em rất tiếc là đã mắng át nó.”

Atticus cười khúc khích: “Nó đáng đời, vì vậy đừng quá hối hận.”

Tôi chờ, ruột gan như lửa đốt, sợ chú Jack kể lý do đánh nhau của tôi cho Atticus. Nhưng chú không kể. Chú chỉ lẩm bẩm: “Nó dùng chữ thoá mạ hạ cấp, rõ ràng khỏi phải tưởng tượng. Nhưng nó không hiểu nghĩa của phân nửa số chữ nó nói… nó hỏi em con điếm là gì…”

“Chú có nói cho nó không?”

“Không, em kể cho nó về Lord Melbourne[60].”

“Jack! Khi một đứa trẻ hỏi chú việc gì, trời ơi, chú trả lời nó. Nhưng đừng đóng tuồng vẽ vời. Trẻ con là trẻ con, nhưng chúng có thể biết ngay câu nói lảng nhanh hơn người lớn, và lảng tránh chỉ làm chúng rối trí. Không,” cha tôi ngẫm nghĩ, “chiều nay chú trả lời đúng, nhưng lý do không đúng. Dùng chữ thô tục là một giai đoạn mà tất cả trẻ con đều trải qua, và nó sẽ bớt dần khi chúng biết là không nhờ nó mà lôi cuốn được sự chú ý. Nhưng nóng nảy thì không mất. Với những chuyện sắp xảy ra cho nó trong vài tháng tới, Scout phải học giữ cái đầu tỉnh táo và phải học sớm. Dù sao, con bé đang cố. Jem đang già giặn hơn, và hiện nay con bé theo gương anh khá tốt. Đôi lúc nó chỉ cần được nâng đỡ.”

“Atticus, anh chưa hề đánh đòn nó.”

“Tôi thừa nhận điều đó. Cho tới nay tôi xoay xở được bằng cách doạ. Jack, nó lắng nghe tôi bằng hết sức của nó. Chưa gãi ngứa được phân nửa, nhưng nó cố.”

Chú Jack nói: “Như vậy chưa đủ.”

“Đủ chứ, đủ vì nó biết tôi biết nó cố gắng. Như thế mới quan trọng. Điều tôi lo là nó với Jem sẽ phải đón nhận một số điều xấu xí khá sớm. Tôi không lo Jem không giữ được cái đầu nó tỉnh táo, nhưng Scout gặp đứa nào là nhào lên đứa đó nếu lòng tự trọng của nó bị xúc phạm…”

Tôi chờ chú Jack thất hứa. Nhưng chú vẫn không.

“Atticus, vụ này sẽ tệ tới mức nào? Anh không có nhiều cơ hội để bàn thảo.”

“Tệ như thế là hết mức rồi, Jack. Điều duy nhất mình có là lời một người da đen chống lại lời khai của Ewell. Chứng cớ tóm lại là anh-nói-tôi-nói. Khó có thể mong bồi thẩm đoàn[61] chấp nhận lời khai của Tom Robinson thay vì lời của Ewell… chú có biết nhà Ewell không?”

Chú Jack nói có, chú có nhớ họ. Chú tả họ cho Atticus, nhưng Atticus nói: “Chú biết thế hệ trước. Nhưng thế hệ hiện nay cũng thế.”

“Vậy thì anh định làm gì?”

“Tôi định làm bồi thẩm đoàn chao đảo một chút trước khi tôi kết thúc… Tuy nhiên, tôi nghĩ mình sẽ có điểm hợp lý khi kháng án. Thật ra vào lúc này tôi không thể nói chắc, Jack. Chú biết không, tôi đã hy vọng sống mãn đời mà không phải nhận một vụ án kiểu này, nhưng John Taylor chỉ tôi rồi nói ‘Chính anh.’”

“Hãy tha cho con khỏi uống chén này[62], hả?”

“Ừ. Nhưng chú nghĩ nếu không nhận, tôi còn có thể nhìn mặt con tôi không? Chú biết chuyện sắp sửa xảy ra cũng rõ như tôi, Jack, tôi hy vọng và cầu cho tôi có thể đưa Jem với Scout qua vụ này mà không cay đắng, và nhất là không lây chứng bệnh thông thường của Maycomb. Tôi sẽ không giả vờ hiểu tại sao những người biết lẽ phải lại hoá ra hoàn toàn mất trí khi có chuyện gì liên can tới một người da đen… Tôi chỉ hy vọng Jem và Scout tìm đến tôi để có câu trả lời thay vì nghe ngóng trong thị trấn. Tôi hy vọng chúng đủ tin tôi… Jean Louise đấy à?”

Tóc tôi nhảy dựng. Tôi thò đầu qua góc nhà: “Cái gì ba?”

“Đi ngủ.”

Tôi chạy nhốn nháo về phòng, leo lên giường. Chú Jack là người bạn hết sẩy không làm tôi thất vọng. Nhưng tôi không cách nào biết làm sao Atticus biết tôi đang lắng nghe, và nhiều năm sau tôi mới nhận ra rằng ông muốn tôi nghe hết từng lời ông nói.

 

 

 

 

 

10

 

Atticus yếu xìu: ông gần năm chục tuổi. Khi Jem với tôi hỏi tại sao ba già dữ vậy, ông nói ông bắt đầu trễ, và chúng tôi cảm thấy nó làm cho ông có vẻ kém khả năng và thiếu hùng dũng. Ông già hơn rất nhiều so với cha mẹ mấy đứa học cùng trường chúng tôi, và Jem với tôi chẳng có gì để nói về ông khi tụi bạn cùng lớp kể “Tía tao…”

Jem mê môn bóng bầu dục đến điên cuồng. Atticus có thể đứng xa chuyền bóng mà không kêu mệt, nhưng khi Jem muốn giành bóng với ông, Atticus nói: “Ba già quá rồi không chơi kiểu đó được đâu con.”

Cha chúng tôi chẳng làm gì. Ông làm việc trong văn phòng, không phải tiệm tạp hoá. Atticus không lái chiếc xe đổ rác của quận hạt, ông không là cảnh sát trưởng, ông không làm ruộng, không làm trong tiệm sửa xe, và chẳng làm bất kỳ cái gì có thể gợi lên lòng ngưỡng mộ của ai.

Ngoài ra ông còn đeo kính. Mắt trái ông gần như mù, ông nói dòng họ Finch bị trù ẻo yếu mắt bên trái. Mỗi khi muốn thấy rõ, ông quay đầu nhìn bằng mắt bên phải.

Ông không làm những gì cha của tụi học cùng trường chúng tôi làm: ông chẳng bao giờ đi săn, ông không chơi xì phé hay câu cá hay uống rượu hay hút thuốc. Ông ngồi đọc trong phòng khách.

Tuy có những đặc điểm này, ông vẫn bị chú ý nhiều hơn chúng tôi mong muốn: năm đó, trong trường có lời xì xào về việc ông bào chữa cho Tom Robinson, chẳng có lời nào khen ngợi. Sau vụ đụng độ với Cecil Jacobs, tôi cam chịu làm đứa hèn nhát, tin đồn loan truyền rằng Scout Finch sẽ không đánh lộn nữa, tía nó cấm nó. Điều này không hoàn toàn đúng: vì Atticus, tôi sẽ không đánh nhau trước công chúng, nhưng gia đình là đất riêng. Tôi sẽ thượng cẳng chân hạ cẳng tay với bất kỳ đứa bà con họ hàng nào từ ba đời trở lại. Francis Hancock biết, chẳng hạn.

Khi cho tụi tôi khẩu súng bắn hơi, Atticus không dạy tụi tôi bắn. Chú Jack dạy tụi tôi mấy kiến thức cơ bản; chú nói Atticus không thích súng. Một hôm Atticus bảo Jem: “Ba muốn con bắn mấy cái lon thiếc ở sân sau, nhưng ba biết con sẽ đi săn chim. Cứ bắn hết mấy con giẻ xanh[63] mà con muốn, nếu con bắn trúng được nó, nhưng nhớ là giết một con chim nhại[64] là tội lỗi.”

Đó là lần duy nhất tôi nghe Atticus nói làm một điều gì là tội lỗi, thế là tôi đi hỏi cô Maudie.

Cô nói: “Ba cháu nói đúng. Loài chim nhại chỉ hót cho mình thưởng thức chứ chẳng làm gì khác. Nó không ăn hết vườn của người ta, không làm tổ trong kho bắp, nó không làm cái gì ngoài việc đem cả tấm lòng hót cho mình nghe. Vì vậy giết một con chim nhại là tội lỗi.”

“Cô Maudie, xóm này già cỗi phải không?”

“Đã có ở đây xưa hơn thị trấn.”

“Không thưa cô, ý cháu nói là mấy người trên phố mình đều già. Jem với cháu là hai đứa nhỏ duy nhất quanh đây. Bà Dubose gần một trăm tuổi, còn cô Rachel cũng già khú như cô với Atticus.”

Cô Maudie chanh chua nói: “Cô không nghĩ năm chục là già lắm. Cô chưa bị đẩy trên xe lăn phải không? Cha cháu cũng thế. Nhưng cô phải nói ông trời đã khá tử tế đốt rụi cái lăng tẩm già cỗi của cô, cô già quá không chăm sóc nó nổi… có lẽ cháu nói đúng, Jean Louise, xóm này trầm lặng. Cháu chẳng mấy khi quanh quẩn với người trẻ phải không?”

“Có thưa cô, ở trường.”

“Cô muốn nói là người lớn còn trẻ. Cháu biết không, các cháu may lắm. Nhờ cha cháu lớn tuổi mà cháu với Jem có nhiều điểm lợi. Nếu cha cháu ba mươi, cháu sẽ thấy cuộc sống khác hẳn.”

“Chắc chắn cháu sẽ thấy khác. Atticus chẳng làm được cái gì…”

Cô Maudie nói: “Cháu sẽ ngạc nhiên cho xem. Ổng chưa tỏ ra đâu.”

“Ổng làm được cái gì?”

“Ồ, ổng có thể làm di chúc chặt tới nỗi không ai có thể quậy được.”

“Ôi trời…”

“Ồ, cháu có biết ổng chơi cờ đam giỏi nhất thị trấn này không? Sao nhỉ, hồi bọn cô lớn lên dưới Bến Finch, Atticus Finch có thể đánh bại bất kỳ ai ở hai bên bờ sông.”

“Chúa ơi, cô Maudie, Jem với cháu lần nào cũng thắng ổng.”

“Đã tới lúc cháu nên biết cháu thắng là vì ổng cho cháu thắng. Cháu có biết ổng còn chơi được khẩu cầm Do Thái[65] nữa không?”

Thành tích khiêm tốn này càng làm tôi thêm xấu hổ về ông.

Cô nói: “À…”

“À cái gì, cô Maudie?”

“Chẳng à cái gì. Chẳng có gì… có vẻ như thế cháu nên hãnh diện về ổng. Hổng phải ai cũng biết chơi khẩu cầm Do Thái. Bây giờ tránh đường cho mấy ông thợ mộc. Cháu về nhà đi. Cô sẽ vào đám cây đỗ quyên của cô, không trông chừng cháu được. Ván có thể rơi trúng cháu.”

Tôi đi ra sân sau thấy Jem đang mải mê cho cái lon thiếc ăn đạn, một việc có vẻ vớ vẩn khi chim giẻ xanh đầy xung quanh. Tôi trở lại sân trước và bận rộn suốt hai giờ để dựng một công sự nổi phức tạp bên cạnh hiên nhà, gồm cái bánh xe, một thùng đựng cam, sọt đựng quần áo giặt, mấy cái ghế trên hiên, và một lá cờ Mỹ nhỏ mà Jem lấy trong hộp bắp rang cho tôi.

Khi Atticus về nhà ăn trưa, ông thấy tôi lom khom nhắm qua đường. “Con đang bắn cái gì vậy?”

“Đít cô Maudie.”

Atticus quay qua thấy cái bia rộng rãi của tôi đang cúi trên bụi cây của cô. Ông đẩy mũ ra sau đầu rồi băng qua đường. Ông gọi: “Maudie, tôi nghĩ tôi nên cảnh cáo cô. Cô đang nguy lắm.”

Cô Maudie đứng thẳng lên nhìn về phía tôi. Cô nói: “Atticus, anh là đồ quỷ sứ địa ngục.”

Atticus quay về bảo tôi dỡ trại. Ông nói: “Đừng bao giờ để ba bắt gặp con nhắm cây súng đó vào ai nữa.”

Tôi ước gì ba tôi là đồ quỷ sứ địa ngục. Tôi kể vấn đề với Calpurnia. “Ông Finch hả? Sao vậy, ông ấy làm được rất nhiều việc.”

Tôi hỏi: “Như việc gì?”

Calpurnia gãi đầu. Bà nói: “Ôi dào, tôi không biết rõ lắm.”

Jem làm rõ vấn đề khi anh hỏi Atticus có chịu ra giúp các tín đồ phái Giám Lý không, Atticus nói nếu giúp thì ông sẽ gãy cổ, ông già quá rồi đâu có làm nổi chuyện đó. Các tín đồ phái Giám Lý đang cố trả hết tiền vay mua nhà thờ của họ, và họ đã thách tín đồ phái Baptist đấu một trận bóng bầu dục chạm[66]. Hình như mọi ông bố trong thị trấn đều chơi, trừ Atticus. Jem nói thậm chí anh không muốn đi, nhưng anh không thể cưỡng lại một trận đấu bóng bầu dục bất kể kiểu chơi nào, và anh ủ rũ đứng ở đường biên với Atticus và tôi để xem ông bố của Cecil Jacobs mấy lần ôm bóng vượt lằn mức cuối sân ghi điểm cho phe Baptist.

 Một hôm thứ Bảy, Jem và tôi quyết định đem khẩu súng bắn hơi đi thám hiểm để xem có thể tìm thấy con thỏ hay con sóc nào không. Khi chúng tôi đi quá nhà Radley khoảng năm trăm mét, tôi thấy Jem nhíu mắt nhìn tới cuối đường. Anh quay nghiêng đầu để ngó qua đuôi mắt.

“Ngó cái gì vậy?”

Anh nói: “Con chó già dưới kia.”

“Con Tim Johnson già phải không?”

“Ừ.”

Tim Johnson là tài sản của ông Harry Johnson, ông tài xế xe đò tuyến đường Mobile sống ở ven phía nam thị trấn. Tim là con chó săn chim màu nâu đỏ, con chó cưng của Maycomb.

“Nó đang làm gì vậy?”

“Tao không biết, Scout. Mình nên đi về.”

“Ồ Jem, đang tháng Hai[67].”

“Mặc kệ, tao cho Cal biết.”

Chúng tôi phóng về nhà rồi chạy vào bếp.

Jem nói: “Cal, bà ra ngoài vỉa hè một chút được không?”

“Cái gì vậy, Jem? Tôi đâu có ra vỉa hè mỗi lần cậu muốn được.”

“Đằng kia có con chó già bị cái gì.”

Calpurnia thở dài. “Lúc này tôi không băng chân cho con chó nào được. Trong phòng tắm có bông băng, đi mà lấy rồi cậu tự băng cho nó.”

Jem lắc đầu. “Cal, nó bệnh. Nó bị cái gì đó.”

“Nó làm gì, định cắn cái đuôi của nó hả?”

“Không, nó đang làm như thế này.”

Jem ngáp ngáp như con cá vàng, rụt vai và vặn vẹo thân mình. “Nó đang đi như vậy đó, cho dù có vẻ nó không muốn.”

Giọng Calpurnia đanh lại: “Cậu đang bịa chuyện với tôi đấy phải không, Jem Finch?”

“Không Cal, cháu thề là cháu không bịa.”

“Nó có chạy không?”

“Không, nó lết, chậm tới nỗi bà hổng thấy nhúc nhích. Nó đang tiến về hướng này.”

Calpurnia rửa tay rồi theo Jem ra sân. Bà nói: “Tôi chẳng thấy con chó nào.”

Bà đi theo chúng tôi qua khỏi nhà Radley và nhìn chỗ Jem chỉ. Tim Johnson chỉ là cái đốm nhỏ đằng xa, nhưng nó đã gần chúng tôi hơn lúc nãy. Nó bước lảo đảo, như thể hai chân bên phải của nó ngắn hơn hai chân bên trái. Nó làm tôi nhớ tới chiếc xe hơi bị lún trong bãi cát.

Jem nói: “Nó đi nghiêng hẳn một bên.”

Calpurnia nhìn đăm đăm, rồi nắm vai chúng tôi chạy về nhà. Bà đóng cánh cửa gỗ lại, đi tới máy điện thoại hét: “Cho tui văn phòng ông Finch!”

Bà hét: “Ông Finch! Cal đây. Tui thề với Chúa là có con chó dại dưới phố mình một khúc… nó đang đi tới phía này, vâng thưa ông, nó là… ông Finch, tui cam đoan nó là… con Tim Johnson già, vâng thưa ông… vâng ông… vâng…”

Bà gác máy rồi lắc đầu khi chúng tôi gặng hỏi Atticus nói gì. Bà nhấn lách cách cái móc ống nghe điện thoại rồi nói: “Cô Eula May… thưa cô, tôi vừa nói xong với ông Finch, làm ơn đừng gọi tôi nữa… nghe đây, cô Eula May, cô gọi cho cô Rachel với cô Stephanie Crawford và bất cứ ai có điện thoại trong phố này để báo cho họ là có con chó điên đang đi tới được không? Xin nhờ cô!”

Calpurnia lắng nghe. “Tôi biết là tháng Hai, cô Eula May, nhưng tôi gặp con chó điên là tôi biết liền. Cô làm ơn nhanh lên!”

Calpurnia hỏi Jem: “Nhà Radley có điện thoại không?”

Jem xem trong sổ rồi nói không. “Dù sao họ cũng chẳng ra ngoài đâu, Cal.”

“Mặc kệ, tôi đi báo cho họ.”

Bà chạy ra hiên trước, Jem và tôi theo sát gót bà. Bà la: “Cô cậu ở lại trong nhà!”

Khu xóm đã nhận được thông báo của Calpurnia. Mọi cánh cửa gỗ trong tầm mắt chúng tôi đều đóng chặt. Chúng tôi không thấy bóng dáng Tim Johnson. Chúng tôi nhìn Calpurnia vừa chạy tới nhà Radley, vừa giữ váy và tạp dề của bà cao trên đầu gối. Bà lên bậc thềm phía trước rồi đập cửa. Không nhận được câu trả lời, bà hét lớn: “Ông Nathan, ông Arthur, con chó điên đang tới! Con chó điên đang tới!”

Tôi nói: “Đáng lẽ bà nên đi vòng ra phía sau.”

Jem lắc đầu nói: “Bây giờ thì chẳng thành vấn đề.”

Calpurnia đập cửa nhưng vô ích. Chẳng ai tỏ ra biết tin báo động của bà, có vẻ chẳng ai nghe.

Khi Calpurnia chạy nước rút về tới hiên sau, một chiếc Ford màu đen vòng lên lối xe vào nhà. Atticus và ông Heck Tate bước ra.

Ông Heck Tate là cảnh sát trưởng hạt Maycomb. Ông cao như Atticus, nhưng gầy hơn. Mũi ông dài, ông đi đôi ủng có lỗ bằng kim loại sáng loáng để xỏ dây, mặc cái quần nhét vào ủng, và khoác cái áo thợ rừng. Thắt lưng ông gắn một dãy đạn. Ông mang theo khẩu súng trường nặng. Khi ông và Atticus tới hiên nhà, Jem mở cửa.

Atticus nói: “Con ở trong nhà. Nó đâu, Cal?”

Calpurnia vừa nói vừa chỉ xuống cuối phố: “Bây giờ chắc nó tới đây rồi.”

Ông Tate hỏi: “Nó không chạy chứ hả?”

“Không thưa ông, nó đang co giật, ông Heck.”

Atticus hỏi: “Mình có nên đi tìm nó không, Heck?”

“Mình nên chờ thì hơn, ông Finch. Tụi nó thường đi một đường thẳng, nhưng đâu có nói chắc được. Nó có thể đi theo khúc quanh… hy vọng như vậy, nếu không nó sẽ đi thẳng vào sân sau nhà Radley. Mình chờ một lát.”

Atticus nói: “Không nghĩ nó sẽ vào sân nhà Radley. Hàng rào chặn nó lại. Có thể nó đi dọc theo đường…”

Tôi nghĩ mấy con chó điên sùi bọt mép, chạy thật nhanh, nhảy lên cắn cổ, và tôi nghĩ chúng như thế vào tháng Tám. Nếu Tim Johnson làm như thế thì tôi sẽ đỡ sợ hơn.

Không có gì chết chóc bằng một con đường hoang vắng nằm chờ. Cây cối đứng yên, lũ chim nhại lặng thinh, các ông thợ mộc bên nhà cô Maudie đã biến mất. Tôi nghe ông Tate khịt mũi, rồi xì mũi. Tôi thấy ông chuyển khẩu súng qua khuỷu tay cong lại. Tôi thấy mặt cô Stephanie Crawford đóng khung trong ô kính cửa ra vào trước nhà cô. Cô Maudie xuất hiện đứng bên cạnh cô. Atticus đặt bàn chân lên thanh ngang của cái ghế và chậm rãi chùi bàn tay dọc bên đùi.

Ông nói khẽ: “Nó kìa.”

Tim Johnson hiện ra trong tầm mắt, ngơ ngác bước theo mép trong của khúc quanh chạy dọc bên nhà Radley.

Jem thì thào: “Nhìn nó kìa. Ông Heck nói tụi nó đi thẳng, vậy mà nó đi dọc theo đường cũng không được.”

Tôi nói: “Trông nó bệnh quá.”

“Để cái gì trước mặt nó thì nó sẽ tiến thẳng tới.”

Ông Tate đưa tay lên trán và nghiêng người tới. “Nó bị chắc rồi, ông Finch.”

Tim Johnson đang tiến tới như rùa bò, nhưng nó không chơi hay ngửi lá cây: hình như nó chăm chú đi theo một đường và được một lực vô hình thúc đẩy nó lò dò từng li về phía chúng tôi. Chúng tôi có thể thấy nó rùng mình như con ngựa đang đuổi ruồi; hàm nó há rồi ngậm; nó nghiêng một bên, nhưng bị kéo dần về phía chúng tôi.

Jem nói: “Nó đang tìm chỗ để chết.”

Ông Tate quay qua. “Nó còn lâu mới chết, Jem, nó chưa lên cơn giật.”

Tim Johnson tới ngõ ngang phía trước nhà Radley, những gì còn sót lại trong cái đầu khốn khổ của nó khiến nó ngập ngừng và có vẻ như đang cân nhắc nên theo đường nào. Nó lưỡng lự đi vài bước rồi dừng trước cổng nhà Radley; rồi nó cố quay lại, nhưng có vẻ khó nhọc.

Atticus nói: “Nó tới đúng tầm rồi, Heck. Ông nên hạ nó trước khi nó xuống ngõ ngang… có trời biết ai đang ở góc đường. Vào trong đi, Cal.”

Calpurnia mở cánh cửa lưới, cài chốt lại, rồi mở chốt, tay giữ cái chốt cửa. Bà cố dùng thân mình để che Jem và tôi, nhưng chúng tôi nhìn qua bên dưới cánh tay bà.

“Hạ nó đi, ông Finch.” Ông Tate đưa khẩu súng trường cho Atticus; Jem và tôi gần xỉu.

Atticus nói: “Đừng phí thời giờ, Heck. Nhanh đi.”

“Ông Finch, vụ này chỉ được một phát.”

Atticus cương quyết lắc đầu: “Đừng đứng ì ra đó, Heck! Nó không đợi ông cả ngày đâu…”

“Chúa ơi, ông Finch, coi chỗ nó đứng kìa! Bắn hụt là đạn đi thẳng vô nhà Radley! Ông biết tôi bắn đâu có giỏi như vậy!”

“Ba chục năm rồi tôi không bắn một phát súng…”

Ông Tate gần như ném khẩu súng dài cho Atticus. Ông nói: “Nếu bây giờ ông bắn thì tôi vẫn rất yên chí.”

Hoang mang, Jem và tôi nhìn cha mình cầm khẩu súng bước ra giữa đường. Ông bước nhanh, nhưng tôi nghĩ ông di chuyển như người bơi dưới nước: thời gian chậm lại tới mức rề rà buồn nôn.

Khi Atticus nâng kính lên, Calpurnia thì thào: “Xin chúa Giê-su phù hộ ông,” rồi bà đưa tay lên má.

Atticus đẩy kính lên trán, kính trượt xuống, ông bỏ nó xuống đường. Chung quanh yên tĩnh, tôi nghe tiếng kính vỡ. Atticus dụi mắt, xoa cằm; chúng tôi thấy mắt ông chớp nhanh.

Trước cổng nhà Radley, Tim Johnson thu vén những gì còn lại trong đầu nó. Cuối cùng nó xoay mình, tiếp tục đi theo đường cũ lên phố chúng tôi. Nó đi tới hai bước, rồi ngừng lại ngẩng đầu lên. Chúng tôi thấy thân mình nó cứng đờ.

Với những cử động nhanh tới nỗi dường như xảy ra cùng lúc, tay Atticus vừa kéo mạnh cần lên đạn vừa nâng khẩu súng lên vai.

Khẩu súng nổ giòn. Tim Johnson tưng lên, ngã lăn ra nhăn nhúm trên vỉa hè thành một đống nâu và trắng. Nó không biết cái gì đánh nó.

Ông Tate nhảy ra khỏi hàng hiên, chạy tới nhà Radley. Ông ngừng lại trước con chó, ngồi xổm xuống, quay lại vỗ ngón tay lên trán ông phía trên mắt trái. Ông gọi lớn: “Ông hơi chệch qua bên phải một chút, ông Finch.”

Atticus đáp: “Lúc nào cũng vậy. Nếu được chọn thì tôi sẽ dùng súng bắn đạn ghém.”

Ông cúi xuống nhặt kính, nghiền nát tròng kính vỡ dưới gót chân, rồi đi tới ông Tate và đứng nhìn xuống Tim Johnson.

Các cánh cửa lần lượt mở ra, khu phố dần dần hồi sinh. Cô Maudie bước xuống bậc thềm với cô Stephanie Crawford.

Jem đờ người. Tôi cấu anh để anh nhúc nhích, nhưng khi Atticus thấy chúng tôi tiến đến, ông gọi: “Đứng yên đó.”

Khi ông Tate và Atticus trở lại sân, ông Tate mỉm cười nói: “Tôi sẽ bảo Zeebo tới hốt nó. Ông chưa quên gì mấy, ông Finch. Họ nói nó chẳng bao giờ bỏ ông.”

Atticus lặng im.

Jem nói: “Atticus?”

“Ừ?”

“Không.”

“Tôi thấy nhé, Finch-một-phát!”

Atticus quay gót lại đối diện cô Maudie. Họ nhìn nhau không nói tiếng nào, rồi Atticus lên xe của ông cảnh sát trưởng. Ông gọi Jem: “Lại đây. Các con đừng tới gần con chó đó, hiểu không? Đừng tới gần nó, sống cũng như chết nó đều nguy hiểm như nhau.”

Jem nói: “Vâng thưa ba. Atticus…”

“Cái gì, con?”

“Không.”

Ông Tate nhe răng cười với Jem, và nói: “Chuyện gì vậy, nhóc tì, cháu á khẩu hả? Cháu không biết cha cháu là…”

Atticus nói: “Thôi đi, Heck, mình về lại thị trấn.”

Khi họ lái đi, Jem và tôi qua bậc thềm phía trước nhà cô Stephanie. Chúng tôi ngồi chờ Zeebo lái xe rác đến.

Jem ngồi hoang mang chết lặng, cô Stephanie nói: “Hừ, hừ, hừ, ai mà nghĩ có chó điên trong tháng Hai? Có lẽ nó hổng điên, có lẽ nó mới dở hơi. Tôi ghét nhìn cái mặt Harry Johnson lúc hắn từ chuyến xe Mobile về thấy Atticus Finch đã bắn con chó của hắn. Dám cá là nó cũng mang đầy bọ chét từ đâu đó…”

Cô Maudie nói cô Stephanie sẽ ca một giọng khác nếu Tim Johnson còn đi trên đường, và chẳng mấy chốc họ sẽ biết, họ sẽ gửi cái đầu nó tới Montgomery.

Jem nói năng trở nên mơ hồ: “Mày th-th-ấy ổng không, Scout? Mày th-ấy ổng đứng ngay đó không?... rr-ồi bất thình lình ổng lơi hết ra, rr-ồi làm như cây súng đó với ổng là một … rr-ồi ổng làm thiệt lẹ, như… tao ph-ải nhắm mười phút tr-ước khi tao bắn cái gì…”

Cô Maudie nhe răng cười ranh mãnh. Cô nói: “Ôi dào, cô Jean Louise, bây giờ còn nghĩ cha cô chẳng làm được cái gì nữa không? Còn xấu hổ về ổng không?”

Tôi ngoan ngoãn nói: “Hông.”

“Bữa hôm đó quên kể cho cháu là ngoài chơi khẩu cầm Do Thái, Atticus Finch còn là sát thủ ghê gớm nhất ở hạt Maycomb hồi thời ổng.”

Jem lặp lại: “Sát thủ…”

“Đúng vậy, Jem Finch. Chắc là bây giờ cháu sẽ đổi giọng điệu của cháu. Đúng y chang, cháu không biết biệt danh ổng là Lão-Một-Phát hồi ổng còn là thiếu niên hả? Sao nhỉ, dưới Bến lúc ổng mới lớn, nếu ổng bắn mười lăm phát mà trúng mười bốn con bồ câu thì ổng sẽ càu nhàu là phí đạn.”

 Jem lẩm bẩm: “Ổng chưa bao giờ nói gì tới chuyện đó.”

“Ổng chưa bao giờ nói gì tới chuyện đó chứ gì?”

“Chưa, thưa cô.”

Tôi nói: “Hổng biết tại sao bây giờ ổng không đi săn nữa.”

Cô Maudie nói: “Có lẽ cô có thể nói cho cháu hiểu. Dù ba cháu là cái gì thì trong tâm ổng vẫn nhã nhặn. Tài thiện xạ là món quà của Chúa, một năng khiếu… ồ, cháu phải tập luyện để thành thạo, nhưng bắn súng khác với chơi đàn dương cầm hay thứ gì đại loại như vậy. Cô nghĩ có lẽ ổng buông súng khi ổng thấy ra là Chúa đã cho ổng một lợi thế bất công đối với hầu hết các sinh vật khác. Cô đoán là ổng quyết định sẽ không nổ súng nếu không bị bắt buộc, và hôm nay ổng phải bắn.”

Tôi nói: “Coi bộ ổng sẽ tự hào.”

Cô Maudie nói: “Người biết suy nghĩ không bao giờ tự hào về tài năng của họ.”

Chúng tôi thấy Zeebo lái xe đến. Ông lấy một cây chĩa ở phía sau xe rác rồi rón rén khều Tim Johnson lên. Ông ném con chó lên chiếc xe tải, sau đó đổ cái bình bốn lít lên trên chỗ Tim ngã và xung quanh đó. Ông nói to: “Mọi người đừng tới chỗ này ít lâu nha.”

Khi chúng tôi về nhà, tôi bảo Jem là thứ Hai chúng tôi có chuyện để kể ở trường. Jem quay sang tôi.

Anh nói: “Đừng nói gì chuyện đó, Scout.”

“Cái gì? Chắc chắn em kể. Đâu có phải ba của đứa nào cũng là sát thủ ghê gớm nhất trong hạt Maycomb.”

Jem nói: “Tao nghĩ nếu ổng muốn mình biết thì ổng đã kể cho mình. Nếu ổng tự hào về chuyện đó, ổng đã kể cho mình.”

Tôi nói: “Có thể ổng quên.”

“Không đâu, Scout, có một số điều mày không hiểu. Atticus già thật, nhưng tao bất cần dù ổng chẳng làm được trò trống gì… tao sẽ bất cần dù ổng chẳng làm được cái quái gì.”

Jem nhặt một hòn đá rồi hân hoan ném tới nhà để xe. Vừa chạy theo hòn đá, anh vừa nói ngoái lại: “Atticus là một người lịch lãm, giống y chang như tao!”

 

 

 

 

 

11

 

Hồi chúng tôi còn nhỏ, Jem và tôi giới hạn sinh hoạt của mình vào khu xóm phía nam, nhưng khi tôi học lớp hai được khá lâu và trò quấy rầy Boo Radley đã trở nên lỗi thời, khu buôn bán ở Maycomb thường lôi kéo chúng tôi lên phố trên, quá khỏi lô đất nhà bà Henry Lafayette Dubose. Chúng tôi phải đi ngang nhà bà để tới thị trấn, trừ phi chúng tôi muốn đi thêm một dặm ngược đường. Những lần chạm trán ngắn trước kia với bà làm tôi hết muốn gặp bà, nhưng Jem nói tới một lúc nào đó tôi phải trưởng thành.

Bà Dubose sống một mình, nếu không kể chị da đen túc trực hầu hạ. Bà ở cách chúng tôi một căn, trong ngôi nhà có bậc thềm dốc phía trước nối với gian phụ bằng lối đi lợp mái. Bà già lắm; hầu như suốt ngày bà nằm trên giường hoặc ngồi trên xe lăn. Người ta đồn bà giấu cây súng lục CSA[68] trong đống khăn choàng khăn quấn của bà.

Jem và tôi ghét bà. Nếu chúng tôi đi qua lúc bà ngồi trên hiên nhà, chúng tôi sẽ bị bà nhìn soi mói phẫn nộ, phải chịu tra vấn dã man về hạnh kiểm của mình, và bị nghe lời tiên đoán u ám về tương lai mình, lần nào cũng không khá. Từ lâu chúng tôi đã bỏ ý qua bên kia đường khi đi ngang nhà bà, vì như thế chỉ làm bà cất cao giọng cho cả xóm nghe.

Chúng tôi không thể làm gì để vui lòng bà. Nếu tôi cố hết sức vui vẻ để nói: “Hê, bà Dubose,” tôi sẽ nghe trả lời: “Đừng có hê với tôi, đồ con gái xấu xa! Mày nói chào bà Dubose!”

Bà tai ác. Một lần nghe Jem gọi cha chúng tôi là “Atticus”, bà bị tăng áp huyết. Ngoài việc bị gọi là hai đứa đần độn hỗn xược nhất và vô lễ nhất từng đi ngang mặt bà, chúng tôi còn bị nghe rằng thật đáng tiếc khi cha chúng tôi đã không tái hôn sau khi mẹ chúng tôi mất. Bà nói chưa bao giờ có người đàn bà nào dễ thương hơn mẹ chúng tôi, và thật đau lòng khi thấy Atticus Finch để cho con cái của mẹ tôi chạy rông. Tôi không nhớ mẹ chúng tôi, nhưng Jem nhớ – đôi khi anh kể về mẹ cho tôi nghe – và anh tím mặt khi bà Dubose mắng chúng tôi câu ấy.

Sau khi sống sót qua vụ Boo Radley, con chó điên và các nỗi kinh hoàng khác, Jem quyết định rằng ngừng ở bậc thềm trước nhà cô Rachel để chờ là hèn nhát, anh ra lệnh mỗi chiều tối chúng tôi phải chạy đến tận góc bưu điện để đón Atticus đi làm về. Rất nhiều tối Atticus thấy Jem tức giận vì những lời bà Dubose nói khi chúng tôi đi qua.

Atticus sẽ bảo: “Phớt lờ đi, con à. Bà ấy là một bà cụ già, và bà ấy bị bệnh. Con cứ ngẩng cao đầu và làm một người lịch lãm. Bất kể bà ấy nói gì với con, việc của con là đừng để bà ấy làm con tức giận.”

Jem nói chắc chắn bà ấy chẳng ốm đau gì lắm, bà ấy hét to đến như thế. Khi cả ba chúng tôi đi tới nhà bà, Atticus sẽ lột mũ, lịch thiệp vẫy bà và nói: “Chào bà Dubose! Tối nay nom bà như bức tranh.”

Tôi chưa bao giờ nghe Atticus nói như bức tranh gì. Ông sẽ kể cho bà chuyện toà án, và nói ông ước mong bằng tất cả tấm lòng rằng ngày mai bà sẽ có một ngày vui. Ông sẽ đội mũ lại, nhấc bổng tôi lên vai ngay trước mặt bà, rồi chúng tôi về nhà trong ánh nhá nhem. Những lúc như thế tôi nghĩ cha tôi, một người ghét súng đạn và chưa bao giờ dự cuộc chiến nào, là người can đảm nhất trên đời.

Sau hôm sinh nhật thứ mười hai của Jem, tiền bốc cháy trong túi anh, vì thế buổi trưa chúng tôi cắm đầu ra thị trấn. Jem nghĩ anh đủ tiền mua một động cơ hơi nước nhỏ cho anh và cây gậy múa cho tôi.

Từ lâu tôi đã để mắt tới cây gậy đó: gậy bán ở tiệm V. J. Elmore, nó được trang điểm những miếng tròn lấp lánh và kim tuyến, giá mười bảy xu. Hồi đó tham vọng cháy bỏng của tôi là lớn lên múa gậy với ban nhạc Trường Trung học Hạt Maycomb. Tài năng của tôi đã phát triển tới mức tôi có thể ném một cái que lên và gần bắt được lúc nó rơi xuống, tôi đã khiến cho Calpurnia cấm tôi vào nhà mỗi khi bà thấy tôi cầm cái que trong tay. Tôi cảm thấy mình có thể vượt qua khuyết điểm này bằng cây gậy thật, và nghĩ Jem rất hào phóng khi mua một cây cho tôi.

Bà Dubose đã đóng đô trên hiên nhà bà lúc chúng tôi đi ngang.

Bà quát: “Hai đứa đi đâu giờ này? Tao chắc là trốn học. Tao sẽ gọi mách ông hiệu trưởng!” Bà đặt tay lên bánh xe của chiếc ghế lăn và biểu diễn bộ mặt hoàn toàn chính trực.

Jem nói: “À, hôm nay thứ Bảy, thưa bà Dubose.”

Bà lấp liếm: “Mặc kệ thứ Bảy. Tao không biết cha tụi bay có biết tụi bay đi đâu không?”

“Thưa bà Dubose, chúng cháu tự ra thị trấn từ khi chúng cháu cao bằng này rồi.” Jem hạ thấp lòng bàn tay xuống độ sáu tấc trên vỉa hè.

Bà hét: “Đừng có nói láo với tôi! Jeremy Finch, Maudie Atkinson cho tao biết là sáng nay mày làm gãy giàn nho cô ấy. Cô ấy sẽ mách ba mày, rồi mày sẽ ước gì mày chưa từng thấy ánh sáng mặt trời! Nếu tuần sau mày chưa bị đưa vô trường cải huấn thì tên tao không phải là Dubose!”

Từ mùa hè vừa rồi đến giờ Jem chưa hề tới gần giàn nho của cô Maudie, và biết cô Maudie sẽ không mách Atticus dù anh có làm gãy, anh phủ nhận chung chung.

Bà Dubose oang oang: “Đừng có cãi tao! Còn mày…” bà chỉ ngón tay viêm khớp vào tôi, “mày làm cái gì trong bộ áo liền quần đó? Mày lẽ ra phải mặc váy với áo lót, con tiểu thư kia! Mày lớn lên sẽ làm bồi bàn nếu không có ai sửa hạnh kiểm mày… một con Finch bồi bàn ở quán O.K. Café… ha!”

Tôi kinh hoảng. Quán O.K. Café là một cơ sở tối tăm ở phía bắc quảng trường. Tôi nắm tay Jem nhưng anh hất tôi ra.

Anh thì thầm: “Ồ, Scout, đừng chú ý đến bà ấy, cứ ngẩng cao đầu và làm một người lịch lãm.”

Nhưng bà Dubose tóm được chúng tôi: “Không chỉ một con Finch làm bồi bàn, mà còn một đứa trong toà án cãi lý cho tụi mọi đen!”

Jem sững người. Phát đạn của bà Dubose trúng đích và bà biết:

“Ừ đúng, trần gian này sẽ ra sao khi một đứa Finch đi ngược lại với nề nếp nhà nó? Tao cho tụi mày biết!” Bà đưa tay lên miệng. Khi bà lấy tay ra, một sợi nước dãi bạc trắng kéo ra theo. “Cha mày không khá hơn tụi mọi đen và thứ rác rưởi mà nó giúp!”

Jem đỏ ửng. Tôi kéo tay áo anh, và tiếng đả kích gia đình chúng tôi suy đồi đạo đức đi theo chúng tôi trên vỉa hè, giả thuyết chủ yếu của bà là phân nửa nhà Finch thế nào cũng vô nhà thương điên, nhưng nếu mẹ chúng tôi còn sống thì chúng tôi sẽ không tới nỗi gặp tình trạng đó.

Tôi không chắc Jem uất ức điều gì nhất, nhưng tôi tức đánh giá của bà Dubose về sức khoẻ tâm thần của gia đình mình. Tôi đã gần như quen nghe những lời nhục mạ nhắm vào Atticus. Nhưng đây là lần đầu tiên nghe từ một người lớn. Ngoại trừ những câu bà phê phán Atticus, lời công kích của bà Dubose chỉ là thông lệ. Mùa hè phảng phất trong không gian – mát trong bóng râm, nhưng nắng ấm, nghĩa là giờ khắc vui thích sắp đến: nghỉ học và có Dill.

Jem mua đầu máy hơi nước của anh rồi chúng tôi đi qua hiệu Elmore mua cây gậy của tôi. Jem không vui với món anh mới tậu được; anh nhét nó vào túi áo rồi im lặng bước bên cạnh tôi về nhà. Trên đường về, tôi bắt hụt cây gậy và suýt đụng ông Link Deas, ông nói: “Coi chừng chứ, Scout!”, và khi chúng tôi về đến gần nhà bà Dubose, cây gậy của tôi đã lem luốc vì bị nhặt dưới đất lên quá nhiều lần.

Bà không còn ngồi trên hiên nhà.

Nhiều năm sau, đôi khi tôi tự hỏi đích xác điều gì đã khiến Jem làm như thế, điều gì đã khiến anh cắt đứt sự ràng buộc của “Con cứ làm một người lịch lãm” và từ bỏ giai đoạn chính trực tự giác mà anh mới theo đuổi. Giống như tôi, Jem chắc đã chịu đựng nhiều chuyện vớ vẩn về việc Atticus cãi lý cho tụi mọi đen, và tôi coi việc anh giữ được bình tĩnh là điều dĩ nhiên – bản tính anh trầm tĩnh và không dễ nổi cáu. Tuy nhiên, lúc ấy tôi nghĩ cách giải thích duy nhất cho điều anh làm là anh bỗng lên cơn điên mất mấy phút.

Điều Jem làm là điều tôi dĩ nhiên cũng sẽ làm nếu tôi không bị Atticus cấm, trong đó tôi chắc có cả việc cấm đánh nhau với các bà già đáng ghét. Khi chúng tôi vừa mới tới cổng nhà bà Dubose, Jem giật lấy cây gậy của tôi rồi vừa chạy lên bậc thềm vào sân trước nhà bà vừa đập loạn xạ, quên hết điều Atticus dặn, quên rằng bà cất một khẩu súng lục dưới đống khăn choàng, quên rằng nếu bà Dubose bắn hụt thì cô Jessie người làm của bà chắc chắn không hụt.

Anh chỉ bình tĩnh lại sau khi đã chặt đứt hết ngọn các bụi hoa trà của bà Dubose, sau khi mặt đất vương vãi nụ và lá xanh. Anh đè cây gậy của tôi lên đầu gối, bẻ gãy đôi và ném xuống đất.

Lúc ấy tôi thét lên. Jem giật tóc tôi, nói anh không cần, anh sẽ làm nữa nếu có cơ hội, và nếu tôi không câm miệng anh sẽ dứt hết tóc tôi. Tôi không câm miệng và bị anh đá. Tôi mất thăng bằng ngã sấp mặt xuống. Jem cộc cằn đỡ tôi lên, nhưng có vẻ anh ân hận. Chẳng còn gì để nói.

Chiều tối hôm ấy chúng tôi không muốn đón Atticus về. Chúng tôi lẩn lút quanh bếp tới khi bị Calpurnia đuổi ra. Nhờ bùa phép sao đó, Calpurnia hình như biết hết mọi việc. Bà không là người biết xoa dịu đến nơi đến chốn, nhưng bà cho Jem miếng bánh nóng trét bơ, anh bẻ đôi chia cho tôi. Vị nó như bông gòn.

Chúng tôi vào phòng khách. Tôi nhặt tờ tạp chí bóng bầu dục, thấy ảnh Dixie Howell[69], đưa cho Jem xem và nói: “Ông này trông giống anh.” Đó là câu hay nhất tôi có thể nghĩ ra để nói với anh, nhưng chẳng được tích sự gì. Anh ngồi bên cửa sổ, khòm người trên cái ghế bập bênh, cau có, chờ đợi. Nắng phai dần.

Hai thời kỳ địa chất trôi qua, chúng tôi nghe tiếng đế giày Atticus lạo xạo trên bậc thềm trước nhà. Cánh cửa lưới đóng sầm lại, rồi một khoảng lặng – Atticus nơi giá treo mũ trong hành lang – và chúng tôi nghe ông gọi: “Jem!” Giọng ông như gió mùa đông.

Atticus bật ngọn đèn trần trong phòng khách và thấy chúng tôi ở đó, lạnh cứng. Một tay ông cầm cây gậy của tôi, núm tua vàng bẩn thỉu của nó kéo lê trên thảm. Tay kia ông đưa ra, một nắm nụ hoa trà mập ú.

Ông nói: “Jem, con chịu trách nhiệm vụ này phải không?”

“Vâng thưa ba.”

“Tại sao con làm thế?”

Jem nói nhỏ: “Bà ấy nói ba cãi lý cho tụi mọi đen và rác rưới.”

“Con làm thế này vì bà ấy nói như vậy à?”

Môi Jem cử động, nhưng không nghe tiếng anh nói “Vâng thưa ba”.

Atticus nói: “Con à, ba biết con khó chịu vì những đứa cùng tuổi nói ba cãi lý cho tụi mọi đen, như chữ con nói, nhưng làm thế này đối với một bà cụ ốm đau thì không tha thứ được. Ba thật lòng khuyên con qua nói chuyện với bà Dubose. Sau đó về thẳng nhà.”

Jem không nhúc nhích.

“Ba bảo cứ qua đi.”

Tôi theo Jem ra khỏi phòng khách. Atticus bảo tôi: “Quay lại đây.” Tôi quay lại.

Atticus cầm tờ Mobile Press lên rồi ngồi xuống cái ghế bập bênh Jem vừa bỏ trống. Dù chết tôi cũng không hiểu làm sao ông có thể lạnh lùng ngồi đó đọc báo trong khi đứa con trai duy nhất của ông rất có nguy cơ bị một khẩu súng cũ xì của quân đội miền Nam sát hại. Dĩ nhiên đôi khi Jem làm tôi cáu tới nỗi tôi có thể giết anh, nhưng xét cho cùng anh là tất cả những gì tôi có. Atticus hình như không nhận ra điều này, hoặc nếu biết thì ông cũng bất cần.

Tôi ghét ông vì thế, nhưng khi gặp rắc rối ta dễ cảm thấy mệt: chẳng mấy chốc tôi trốn trong lòng ông và cánh tay ông ôm lấy tôi.

Ông nói: “Con bự quá hết bế ru được rồi.”

Tôi nói: “Ba bất cần biết chuyện gì sẽ xảy ra cho anh ấy. Ba bắt anh qua đó để ăn đạn trong khi anh chỉ đứng ra bênh ba.”

Atticus đẩy đầu tôi vào dưới cằm ông. Ông nói: “Chưa đến lúc lo. Ba không hề nghĩ Jem là đứa vì việc này mà không giữ được cái đầu tỉnh táo – ba cứ tưởng sẽ gặp rắc rối vì con nhiều hơn.”

Tôi nói tôi không thấy tại sao chúng tôi phải giữ cái đầu mình, tôi không biết đứa nào ở trường phải giữ cái đầu của nó về bất kỳ cái gì.

Atticus nói: “Scout, đến hè con sẽ phải giữ cái đầu của con tỉnh táo về những việc còn tệ hơn nhiều… ba biết là không công bằng với con và Jem, nhưng đôi khi mình phải cố hết sức, và cách mình kiểm soát chính mình khi khó khăn ập xuống… ồ, ba chỉ có thể nói là khi con với Jem trưởng thành, có lẽ các con sẽ nhìn lại vụ này với lòng trắc ẩn và cảm thấy rằng ba đã không làm các con thất vọng. Vụ này, vụ Tom Robinson, là một vụ đi vào cốt lõi lương tâm con người… Scout, ba không thể đi nhà thờ và thờ phượng Thượng đế nếu ba không cố giúp anh này.”

“Atticus, chắc là ba phải sai…”

“Sao vậy?”

“Ồ, hình như hầu hết mọi người nghĩ họ đúng còn ba sai…”

Atticus nói: “Chắc chắn họ có quyền nghĩ như vậy, và họ có quyền đòi ý kiến của họ phải được tôn trọng hoàn toàn, nhưng trước khi ba có thể sống với người khác, ba phải sống với chính mình. Lương tâm của từng người là một thứ không bị buộc phải theo đa số.”

Khi Jem trở về, anh thấy tôi vẫn nằm trong lòng Atticus. Atticus nói: “Thế nào con?” Ông đặt tôi đứng lên, và tôi bí mật dò xét Jem. Anh hình như không sứt mẻ miếng nào, nhưng mặt anh mang một vẻ lạ lùng. Có lẽ bà ấy đã cho anh một liều thuốc rửa ruột.

“Con đã dọn sạch cho bà ấy và nói xin lỗi, nhưng con không có lỗi, và mỗi thứ Bảy con sẽ chăm sóc cây, cố làm cho nó mọc lại.”

Atticus nói: “Nói xin lỗi mà không nhận lỗi thì chẳng đi tới đâu. Jem, bà ấy già và đau ốm. Con không thể bắt bà ấy chịu trách nhiệm về điều bà ấy nói và làm. Dĩ nhiên, ba thà rằng bà ấy nói điều đó với ba hơn là với hai con, nhưng đâu phải lúc nào mình cũng được như ý mình.”

Jem hình như mê mẩn vì một đoá hồng đan trên tấm thảm. Anh nói: “Atticus, bà ấy muốn con đọc cho bà ấy.”

“Đọc cho bà ấy à?”

“Vâng, thưa ba. Bà ấy muốn mỗi chiều sau khi tan học và mỗi thứ Bảy con đến đọc lớn cho bà ấy nghe trong hai tiếng đồng hồ. Atticus, con có phải làm không?”

“Phải làm chứ.”

“Nhưng bà ấy muốn con đọc một tháng.”

“Vậy thì con đọc một tháng.”

Jem để nhẹ ngón chân cái vào giữa đoá hồng rồi đè xuống. Cuối cùng anh nói: “Atticus, ngoài vỉa hè thì được, nhưng bên trong nó… nó tối om và nổi da gà. Trên trần nhà có mấy cái bóng và đủ thứ…”

Atticus mỉm cười ghê rợn. “Như vậy khêu gợi trí tưởng tượng của con. Cứ giả vờ như con đang ở trong nhà Radley.”

*

Chiều thứ Hai sau đó, Jem và tôi leo lên bậc thềm dốc trước nhà bà Dubose rồi rón rén xuống lối đi có mái che bên ngoài. Jem trang bị cuốn Ivanhoe[70] và đầy kiến thức thượng thừa, gõ lên cánh cửa thứ hai bên trái.

Anh gọi: “Bà Dubose?”

Jessie mở cánh cửa gỗ rồi mở chốt cửa lưới.

Chị nói: “Cậu đấy à, Jem Finch? Cậu đem cả em cậu theo. Tôi không biết…”

Bà Dubose nói: “Cho cả hai đứa vào, Jessie.” Jessie cho chúng tôi vào rồi đi xuống bếp.

Mùi nồng nặc đón chúng tôi khi chúng tôi bước qua ngưỡng cửa, một mùi tôi đã gặp nhiều lần nơi các căn nhà u ám mục nước mưa bên trong có những ngọn đèn dầu, chậu nước và vải trải giường nội hoá vàng ố. Nó luôn làm tôi sợ hãi, hồi hộp, cảnh giác.

Trong góc phòng có cái giường đồng, và trên giường là bà Dubose. Tôi tự hỏi có phải bà nằm liệt đó vì hành động của Jem, và trong thoáng chốc tôi cảm thấy tội nghiệp cho bà. Bà nằm dưới đống chăn bông và có vẻ rất thân thiện.

Một giá rửa có mặt đá cẩm thạch đặt bên cạnh giường bà; bên trên giá có ly thủy tinh với cái thìa nhỏ trong ly, một cái hút nước tai màu đỏ, một hộp bông thấm nước, và chiếc đồng hồ báo thức bằng sắt có ba cái chân nhỏ xíu.

Lời chào đón của bà là “Vậy là đem con nhỏ em bẩn thỉu đó theo phải không?”

Jem lặng lẽ nói: “Em cháu không bẩn, và cháu không sợ bà,” mặc dù tôi thấy hai đầu gối anh run lẩy bẩy.

Tôi trông đợi một tràng đả kích, nhưng bà chỉ nói: “Bắt đầu đọc được rồi, Jeremy.”

Jem ngồi xuống ghế, mặt ghế đan mây, rồi mở cuốn Ivanhoe. Tôi kéo một ghế khác để ngồi bên cạnh anh.

Bà Dubose nói: “Sát lại. Đến bên cạnh giường.”

Chúng tôi kéo ghế tới. Từ trước đến nay đây là lần tôi tới gần bà nhất, và điều tôi muốn làm nhất là dời cái ghế ngược lại.

Bà thật khủng khiếp. Mặt bà có màu áo gối bẩn, khoé miệng bà lấp lánh nước chảy từ từ như tảng băng xuống các khe sâu quanh cằm bà. Những vết tàn nhang của tuổi già lốm đốm trên má, cặp mắt bà mờ nhạt có chấm con ngươi đen. Bàn tay bà nổi bướu, lớp da dưới móng mọc trùm lên móng tay. Bà không đeo hàm răng giả bên dưới, môi trên nhô ra; thỉnh thoảng bà kéo môi dưới lên hàm giả bên trên, lôi theo cái cằm của bà. Điều đó làm nước dãi chảy nhanh hơn.

Tôi không nhìn bà nhiều hơn mức cần thiết. Jem lại mở cuốn Ivanhoe ra và bắt đầu đọc. Tôi cố theo kịp anh, nhưng anh đọc quá nhanh. Khi Jem gặp một chữ anh không biết, anh nhảy bỏ, nhưng bà Dubose sẽ ngăn lại và bắt anh đánh vần nó. Jem đọc có lẽ đã được hai mươi phút, suốt lúc ấy tôi nhìn bệ lò sưởi vấy bồ hóng, ngó ra cửa sổ, nhìn bất cứ nơi nào để khỏi nhìn bà. Khi anh đọc, tôi nhận thấy những lần bắt lỗi của bà Dubose càng lúc càng ít và thưa dần, ngay cả khi Jem bỏ lửng giữa câu. Bà không còn lắng nghe.

Tôi nhìn về phía giường.

Không rõ bà đã bị chuyện gì. Bà nằm ngửa, chăn kéo lên tới cằm, chỉ thấy đầu và vai bà. Đầu bà xoay qua xoay lại chầm chậm. Thỉnh thoảng bà há lớn miệng, và tôi có thể thấy lưỡi bà nhấp nhô nhè nhẹ. Những sợi nước dãi đọng lại trên môi bà; bà sẽ nhép môi kéo chúng vào, rồi lại há miệng. Miệng bà dường như có đời sống riêng của nó. Nó sinh hoạt riêng và tách rời thân thể bà, thò ra thụt vào, như hang sò lúc thủy triều xuống. Thỉnh thoảng nó kêu “Phụp” như một chất sền sệt sắp sôi.

Tôi kéo tay áo Jem.

Anh nhìn tôi, rồi nhìn cái giường. Đầu bà xoay qua chúng tôi theo nhịp đều đặn của nó, Jem nói: “Bà Dubose, bà có sao không?” Bà không nghe anh nói.

Đồng hồ báo giờ reo lên làm chúng tôi sợ chết cứng. Một phút sau, thần kinh vẫn rộn ràng, Jem và tôi ra tới vỉa hè về nhà. Chúng tôi không chạy trốn, Jessie lùa chúng tôi ra: trước khi đồng hồ ngừng kêu, chị đã vào phòng đẩy Jem và tôi ra.

Chị nói: “Thôi ra, hai cô cậu về.”

Jem lưỡng lự ở cửa.

Jessie nói: “Đến lúc bà uống thuốc.” Khi cánh cửa đóng lại sau lưng chúng tôi, tôi thấy Jessie đi nhanh đến giường bà Dubose.

Chúng tôi về đến nhà mới ba giờ bốn mươi lăm, vì thế Jem và tôi chơi đá bóng nảy[71] trong sân sau cho tới lúc đón Atticus. Atticus có hai cây bút chì vàng cho tôi và tờ tạp chí bóng bầu dục cho Jem, tôi đoán đó là phần thưởng không lời cho buổi đọc sách ngày đầu tiên của chúng tôi với bà Dubose. Jem kể sự việc cho ông.

Atticus hỏi: “Bà có làm các con sợ không?”

Jem nói: “Không thưa ba, nhưng bà ấy gớm quá. Bà ấy như bị động kinh. Bà ấy phun nước bọt nhiều lắm.”

“Bà ấy không tránh được. Khi ốm đau, người ta đôi lúc trông không được đẹp.”

Tôi nói: “Bà ấy làm con sợ.”

Atticus nhìn tôi qua mắt kính. “Con biết là con đâu có phải đi với Jem.”

Chiều hôm sau ở nhà bà Dubose cũng như hôm đầu tiên, và các lần kế tiếp cũng thế, đến khi dần dần thành một thứ tự lớp lang: mọi việc sẽ bắt đầu bình thường – nghĩa là bà Dubose sẽ truy Jem ráo riết một lúc về các đề tài ưa thích của bà, bụi hoa trà của bà và xu hướng yêu mọi đen của cha chúng tôi; rồi bà càng lúc càng im lặng, và bỏ mặc chúng tôi. Đồng hồ báo giờ sẽ reo, Jessie sẽ xua chúng tôi ra, và giờ phút còn lại trong ngày là của chúng tôi.

Một tối tôi hỏi: “Atticus, chính xác thì đứa yêu tụi mọi đen nghĩa là gì?”

Mặt Atticus nghiêm lại. “Có người gọi con như thế à?”

“Không thưa ba, bà Dubose gọi ba như vậy. Mỗi buổi chiều bà ấy bắt đầu làm nóng máy bằng cách gọi ba như vậy. Francis gọi con như vậy hồi Giáng sinh vừa rồi, lúc đó là lần đầu tiên con nghe tới.”

Atticus hỏi: “Vì vậy con nhào lên nó hả?”

“Vâng thưa ba…”

“Vậy thì tại sao con hỏi ba về nghĩa của chữ đó?”

Tôi cố giải thích cho Atticus rằng điều Francis nói chẳng đáng gì để tôi tức mà là cách nó nói. “Giống như nó nói thò lò mũi xanh hay đại loại như vậy.”

Atticus nói: “Scout, chữ kẻ yêu tụi mọi đen chỉ là một trong những chữ chẳng có nghĩa gì… giống như chữ thò lò mũi xanh vậy thôi. Giải thích nó thật khó… những người dốt nát, rác rưởi dùng nó khi họ nghĩ một người nào đó quý mến người da đen hơn hẳn họ. Một số người như mình bỗng nhiên dùng chữ đó khi họ cần một chữ thông dụng, xấu xí để gán cho người khác.”

“Vậy thì thật sự ba không phải là kẻ yêu tụi mọi đen, phải không?”

“Chắc chắn ba yêu họ chứ. Ba cố hết sức yêu mọi người… Đôi khi ba gặp khó khăn… bé à, bị gọi bằng cái tên mà một người nào đó nghĩ là xấu thì chẳng bao giờ là nhục. Nó chỉ cho con thấy là người đó đáng thương thôi, nó không làm hại con. Vì thế đừng để bà Dubose làm con nản. Bà ấy có đủ rắc rối của bà ấy rồi.”

Một tháng sau, vào buổi chiều, lúc Jem đang cày Huân tước Walter Scout, như cách Jem gọi tên ông ta, và bà Dubose đang sửa anh từng chút, thì có tiếng gõ cửa. Bà quát: “Cứ vào!”

Atticus bước vào. Ông đi tới giường rồi cầm tay bà Dubose. Ông nói: “Cháu từ văn phòng về không gặp bọn trẻ con. Cháu nghĩ chúng nó có thể còn ở đây.”

Bà Dubose mỉm cười với ông. Dù chết tôi cũng không nghĩ ra được làm sao bà có thể chịu nói chuyện với ông trong khi bà có vẻ ghét ông đến thế. Bà nói: “Anh biết mấy giờ không, Atticus? Đúng năm giờ mười bốn phút. Đồng hồ để reo lúc năm giờ rưỡi. Tôi muốn anh biết như thế.”

Tôi bỗng cảm thấy mỗi ngày chúng tôi ở lại nhà bà Dubose mỗi lâu hơn, mỗi ngày đồng hồ báo giờ reo trễ hơn vài phút, và bà đã lên cơn động kinh từ lâu trước khi nó reo. Hôm nay bà hành Jem đã gần hai tiếng mà không tỏ ra sẽ động kinh, và tôi cảm thấy bị mắc bẫy một cách vô vọng. Đồng hồ reo là tín hiệu thả chúng tôi; nếu một hôm nó không reo thì chúng tôi làm sao?

Atticus nói: “Cháu có cảm tưởng là ngày đọc sách của Jem đã hết.”

Bà nói: “Tôi nghĩ chỉ một tuần nữa thôi, để cầm chắc…”

Jem đứng lên: “Nhưng mà…”

Atticus đưa tay ra và Jem im. Trên đường về nhà, Jem nói anh phải đọc chỉ một tháng và xong một tháng rồi, như vậy không sòng phẳng.

Atticus nói: “Chỉ có thêm một tuần nữa thôi, con à.”

Jem nói: “Không.”

Atticus nói: “Có.”

Tuần sau lại thấy chúng tôi đến nhà bà Dubose. Đồng hồ báo giờ không còn reo, nhưng bà Dubose sẽ thả chúng tôi với câu “Đủ rồi”, muộn tới nỗi Atticus đã ở nhà đọc báo lúc chúng tôi về. Mặc dù các cơn động kinh đã biến mất, trong mọi mặt bà vẫn là bà: khi Huân tước Walter Scott mô tả dài dòng các hào lũy và lâu đài, bà Dubose đâm chán và xoay ra bắt nạt chúng tôi:

“Jeremy Finch, bà đã bảo cháu là cháu sẽ hối hận vì đã phá tan mấy bụi cây hoa trà của bà. Bây giờ cháu hối hận rồi phải không?”

Jem sẽ nói anh hối hận lắm.

“Nghĩ là cháu có thể giết được Sơn Tuyết của bà phải không? Ồ, Jessie nói ngọn cây đang mọc lại. Lần sau cháu sẽ biết cách phá cho đúng, phải không? Cháu sẽ nhổ rễ nó phải không?”

Jem nói chắc chắn anh sẽ nhổ.

“Đừng có lẩm bẩm với bà, bé con! Cháu ngẩng đầu lên nói vâng thưa bà. Nhưng không chắc là cháu cảm thấy muốn ngẩng đầu, vì ba cháu như vậy mà.”

Cằm Jem sẽ ngẩng lên, và anh sẽ nhìn thẳng bà Dubose với bộ mặt không chút oán hận. Sau nhiều tuần, anh đã tập được vẻ lịch sự và dửng dưng để tỏ ra với bà khi đáp lại những lời bịa đặt sôi máu nhất của bà.

Rốt cuộc cũng đến ngày. Một chiều nọ bà Dubose nói: “Đủ rồi” và bà nói thêm, “Xong cả rồi. Cháu đi về.”

Thế là xong. Chúng tôi lao xuống vỉa hè trong niềm vui nhẹ nhõm cực độ, hò reo và nhảy nhót.

Mùa xuân năm ấy đẹp: ngày dài hơn và cho chúng tôi thời giờ chơi đùa nhiều hơn. Đầu Jem hầu như chỉ nghĩ đến những con số thống kê quan trọng của từng cầu thủ bóng bầu dục trong đại học trên cả nước. Mỗi tối Atticus sẽ đọc cho chúng tôi trang thể thao trên báo. Năm nay Alabama có thể dự Rose Bowl[72] một lần nữa, xét các đội có triển vọng được dự thì chúng tôi chẳng đọc được tên của đội nào. Một tối nọ khi Atticus đang đọc bài viết của Windy Seaton thì điện thoại reo.

Ông trả lời điện thoại, rồi đi ra giá treo mũ ở hành lang. Ông nói: “Ba qua nhà bà Dubose một lát. Ba đi không lâu đâu.”

Nhưng Atticus ở lại đến quá giờ ngủ của tôi khá lâu. Khi về ông cầm theo một hộp kẹo. Atticus ngồi xuống trong phòng khách, đặt cái hộp xuống sàn nhà bên cạnh ghế của ông.

Jem hỏi: “Bà ấy muốn gì vậy?”

Chúng tôi không gặp bà Dubose đã hơn một tháng. Bà không hề ra hàng hiên nữa khi chúng tôi đi ngang.

Atticus nói: “Bà ấy chết rồi, con à. Bà ấy mới chết mấy phút trước.”

Jem nói: “Ồ, tốt.”

Atticus nói: “Tốt là đúng. Bà ấy không còn phải chịu đau đớn nữa. Bà ấy ốm đã lâu. Con à, con không biết các cơn động kinh của bà là gì phải không?”

Jem lắc đầu.

Atticus nói: “Bà Dubose nghiện thuốc phiện. Nhiều năm nay bà ấy đã dùng thuốc phiện để giảm đau. Bác sĩ cho thuốc bà ấy. Từ đó trở đi lẽ ra bà cứ dùng thuốc và chết mà không đau đớn nhiều, nhưng bà ấy quá bướng bỉnh…”

Jem nói: “Ba nói gì?”

Atticus nói: “Trước khi xảy ra vụ phá phách của con không lâu, bà ấy đã gọi ba đến làm di chúc cho bà. Bác sĩ Reynolds bảo bà là bà chỉ còn vài tháng nữa. Việc tiền bạc của bà đã ổn thoả đâu vào đấy hết, nhưng bà nói ‘Vẫn còn một thứ chưa ổn.’”

Jem bối rối: “Chuyện gì thế?”

“Bà ấy nói bà sẽ rời thế gian này mà không vướng nợ bất cứ cái gì và bất cứ ai. Jem, khi con ốm đau như bà ấy thì dùng bất cứ thuốc gì cho dễ chịu hơn cũng đều được, nhưng bà ấy không chịu. Bà nói bà muốn cắt bỏ ràng buộc với thuốc trước khi chết, và bà đã làm như thế.”

Jem nói: “Ba nói những cơn động kinh của bà ấy là vì vậy?”

“Ừ, đúng vậy. Phần lớn những lúc con đọc cho bà, ba không nghĩ bà nghe được một chữ con đọc. Toàn bộ trí óc và cơ thể bà tập trung vào cái đồng hồ báo giờ đó. Nếu con không rơi vào tay bà thì thế nào ba cũng sẽ bảo con đến đọc cho bà. Nghe đọc sách có thể là một cách để xao lãng. Còn một lý do khác…”

Jem hỏi: “Bà ấy chết có thanh thoát không?”

Atticus nói: “Thanh thoát như hơi núi. Bà ấy hầu như tỉnh táo đến phút cuối. Tỉnh táo,” ông mỉm cười, “và gắt gỏng. Bà ấy vẫn hết lòng phản đối việc làm của ba, và nói suốt đời ba chắc phải đóng tiền bảo lãnh cho con tạm ra khỏi tù. Bà bảo Jessie soạn cho con cái hộp này…”

Atticus thò tay cầm hộp kẹo lên. Ông đưa nó cho Jem.

Jem mở hộp. Bên trong, nằm giữa đống bông gòn ẩm là một đoá hoa trà trắng phơn phớt phấn tuyệt hảo. Một đoá Sơn Tuyết.

Mắt Jem gần như trợn trừng. Anh vứt nó đi, hét lên: “Bà cụ quỷ sứ, bà cụ quỷ sứ! Tại sao bà ấy không để cho con yên?”

Trong chớp mắt Atticus đứng lên ôm anh. Jem dụi mặt vào ngực áo Atticus. Ông nói: “Suỵt, ba nghĩ đó là cách bà ấy bảo con… bây giờ mọi việc đã thanh toán ổn thoả rồi, Jem, mọi việc đã ổn thoả rồi. Con biết không, bà ấy là một phụ nữ rất cao quý.”

“Một bà cao quý?” Jem ngẩng đầu lên. Mặt anh đỏ hồng. “Sau bấy nhiêu thứ bà ấy đã nói về ba, một bà cao quý à?”

“Đúng. Bà ấy có cách nhìn riêng của bà ấy, rất khác với ba, có lẽ… con, ba đã nói với con rằng nếu con không mất bình tĩnh thì ba cũng sẽ bảo con đến đọc cho bà ấy. Ba muốn con thấy một số điều về bà… ba muốn con thấy lòng can đảm đích thực là gì, thay vì tưởng rằng can đảm là một người đàn ông với khẩu súng trong tay. Can đảm là khi con biết con sẽ bị thảm bại trước khi khởi sự, nhưng con vẫn khởi sự và làm đến rốt ráo bất kể thế nào. Con hiếm khi thắng, nhưng đôi khi con thắng. Bà Dubose thắng, với toàn bộ bốn chục ký của bà. Theo cách nhìn của bà, bà chết không vướng nợ bất cứ cái gì và bất cứ ai. Bà là người can đảm nhất mà ba biết.”

Jem nhặt hộp kẹo lên rồi ném nó vào lửa. Anh nhặt đoá hoa trà lên, và khi tôi đi ngủ tôi thấy anh vuốt ve những cánh hoa lớn. Atticus đang đọc báo.

 

 

 

 

 

Phần 2

 

12

 

 Jem mười hai tuổi. Anh bất nhất, cấm cẳn, khó sống chung. Sức ăn của anh khủng khiếp, và rất nhiều lần anh đã bảo tôi đừng lẳng nhẳng quấy rầy anh. Tôi bàn với Atticus: “Chắc anh ấy bị sán lãi?” Atticus nói không, Jem đang lớn. Tôi phải kiên nhẫn với anh và càng ít làm phiền anh càng tốt.

Jem thay đổi chỉ mới mấy tuần nay. Bà Dubose chưa lạnh dưới mồ - Jem hình như biết ơn tôi đã đi cùng anh đến đọc cho bà. Hình như bỗng nhiên Jem có một số nguyên tắc lạ lùng và định áp đặt cho tôi: vài lần anh còn quá đáng tới mức bảo tôi phải làm gì. Sau một lần cãi nhau, Jem hét: “Tới lúc mày bắt đầu làm con gái và cư xử đúng cách rồi!” Tôi bật khóc chạy đến Calpurnia.

Bà mở lời: “Cô đừng bực dọc ông Jem quá…”

“Ông Jem?”

“Ừ, bây giờ sắp là ông Jem rồi.”

Tôi nói: “Anh ấy đâu có già dữ vậy. Anh ấy chỉ cần có người đánh cho anh ấy một trận, mà cháu thì hổng đủ lớn.”

Calpurnia nói: “Bé à, tôi chẳng làm sao được khi ông Jem cứ lớn lên. Bây giờ rất nhiều lúc cậu ấy muốn ở một mình, làm mấy thứ bọn con trai vẫn làm, vì thế cô cứ vào bếp khi nào cô cảm thấy lẻ loi. Mình sẽ tìm ra nhiều thứ để làm trong này.”

Đầu mùa hè năm ấy có triển vọng tốt: Jem có thể làm gì anh thích; Calpurnia là tạm đủ trong khi chờ Dill tới. Bà hình như thích thấy tôi khi tôi xuất hiện trong bếp, và quan sát bà khiến tôi bắt đầu nghĩ con gái cũng có một số tài.

Nhưng đến hè, Dill không tới. Tôi nhận lá thư và tấm ảnh của nó. Lá thư nói nó có một ông bố mới trong tấm ảnh kèm theo, và nó phải ở lại Meridian vì họ định đóng chiếc ghe cá. Ba nó là luật sư như Atticus, nhưng trẻ hơn nhiều. Ông bố mới của Dill có khuôn mặt tươi tắn làm tôi mừng là nó đã bắt được ông, nhưng lòng tôi tan nát. Dill kết thúc lá thư bằng cách nói nó sẽ mãi mãi yêu tôi và đừng lo, nó sẽ đến tìm tôi và cưới tôi ngay khi nó gom đủ tiền, vì thế nhớ viết thư.

Sự kiện tôi có chồng sắp cưới túc trực vẫn chẳng bù đắp được gì vào chỗ vắng mặt của nó. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới, nhưng mùa hè là có Dill bên ao cá hút sợi thuốc, mắt Dill sôi nổi với những mưu kế phức tạp để nhử Boo Radley ra; mùa hè là Dill nhón lên hôn vội tôi lúc Jem không nhìn, là những khát khao đôi khi đứa này cảm thấy ở đứa kia. Có nó, cuộc sống là bình thường; không có nó, cuộc sống khôn kham. Tôi chịu khốn khổ trong hai ngày.

Như thể chưa đủ, quốc hội tiểu bang họp khẩn cấp và Atticus xa chúng tôi hai tuần. Ông thống đốc nôn nóng muốn cạo bỏ một số thứ bám dai như đỉa đói trong chính quyền tiểu bang; có mấy vụ lãng công ở Birmingham[73]; hàng người chờ cứu đói ở các thành phố lớn ngày càng dài hơn, dân chúng ở nông thôn ngày càng nghèo hơn[74]. Nhưng các biến cố này xa vời đối với thế giới của Jem và tôi.

Một buổi sáng chúng tôi ngạc nhiên khi thấy bức vẽ hí hoạ trên tờ Montgomery Advertiser với ghi chú “Finch ở Maycomb”. Tranh vẽ Atticus đi chân lấm và mặc quần cụt, bị xích vào bàn giấy: ông đang cắm cúi viết trên bảng đá trong khi một số cô gái có vẻ phù phiếm la hét ông “Ê-ê.”

Jem giải thích: “Họ khen đó mà. Ổng chịu bỏ thời giờ làm mấy việc chẳng ai chịu làm cho xong.”

“Hử?”

Ngoài những đặc tính mới có, Jem còn có cái vẻ thông thái dễ ghét.

“Ồ, Scout, giống như tổ chức lại hệ thống thuế khoá ở các quận và đại khái như vậy. Mấy thứ đó khá khô khan đối với hầu hết mọi người.”

“Làm sao anh biết?”

“Ồ, đi chỗ khác chơi để tao yên. Tao đang đọc báo.”

Jem muốn thế thì được. Tôi bỏ ra bếp.

Lúc bóc vỏ đậu, Calpurnia bỗng nói: “Tôi phải làm cái gì về vụ đi nhà thờ của cô cậu hôm Chúa nhật này nhỉ?”

“Cháu nghĩ chẳng cần. Atticus có cho bọn cháu tiền góp nhà thờ.”

Mắt Calpurnia nhíu lại, và tôi đoán được bà đang nghĩ gì trong đầu. Tôi nói: “Cal, bà biết bọn cháu sẽ ngoan mà. Mấy năm nay bọn cháu đâu có quậy gì trong nhà thờ.”

Hẳn nhiên Calpurnia đang nhớ lại một hôm Chúa nhật trời mưa cả hai chúng tôi không có cha và không có cô giáo. Được để tự ý không ai trông nom, lớp giáo lý trói con nhỏ Eunice Ann Simpson vào ghế rồi đặt nó trong phòng lò sưởi. Sau đó chúng tôi quên nó, lũ lượt lên cầu thang vào nhà thờ, và khi đang im lặng nghe giảng thì có tiếng rầm rầm dễ sợ phát ra từ ống sưởi, dai dẳng cho tới khi có người đi điều tra và đem Eunice Ann ra, nó nói không muốn đóng vai Shadrach[75] nữa – Jem Finch nói nó sẽ không bị thiêu nếu có đủ đức tin, nhưng dưới đó nóng quá.

Tôi phản đối: “Vả lại, Cal, đâu phải đây là lần đầu tiên Atticus để bọn cháu một mình.”

“Ừ, nhưng ổng thu xếp để bảo đảm là có cô giáo của cô cậu. Lần này tôi đâu có nghe ổng nói… chắc ổng quên.” Calpurnia gãi đầu. Bỗng dưng bà mỉm cười. “Ngày mai cô với ông Jem có thích đi nhà thờ với tôi không?”

“Thật à?”

Calpurnia nhe răng cười: “Thế nào?”

Nếu Calpurnia trước kia đã từng tắm tôi một cách thô bạo thì chẳng thấm gì với sự giám sát của bà trong lần tắm thường lệ tối thứ Bảy đó. Bà bắt tôi thoa xà phòng khắp người hai lần, mỗi lần dội phải múc nước sạch trong bồn; bà ấn đầu tôi xuống chậu rồi gội bằng xà phòng Octagon và xà phòng Castile[76]. Từ nhiều năm trước bà đã tin tưởng Jem, nhưng tối hôm đó bà xâm phạm vào đời tư của anh dẫn đến một trận cự nự: “Có ai trong nhà này được tắm mà không bị cả nhà nhìn không?”

Sáng hôm sau bà dậy sớm hơn thông lệ, để “soát lại y phục của mình”. Khi Calpurnia ở qua đêm với chúng tôi, bà ngủ trên cái giường xếp trong bếp; sáng hôm đó cái giường đầy kín lễ phục Chúa nhật của chúng tôi. Bà đã hồ cứng váy đầm của tôi tới nỗi nó dựng lên như cái lều lúc tôi ngồi xuống. Bà bắt tôi mặc váy lót và quấn chặt dải ruy băng màu hồng quanh eo tôi. Bà lấy miếng bánh bơ nguội chà xát đôi giày da cứng của tôi cho tới khi bà thấy mặt bà trong đó.

Jem nói: “Giống như mình đi dự hội Mardi Gras[77]. Mấy thứ này để làm gì vậy, Cal?”

Bà lẩm bẩm: “Tôi hổng muốn ai nói tôi không chịu chăm sóc bọn trẻ của tôi. Ông Jem, ông tuyệt đối không thể đeo cái cà vạt đó với bộ áo đó. Nó màu xanh lá cây.”

“Có sao đâu?”

“Bộ áo màu xanh dương. Cậu không thấy à?”

Tôi rú lên: “Hi hi, Jem mù màu.”

Mặt anh đỏ bừng tức giận, nhưng Calpurnia nói: “Bây giờ cô cậu im đi. Cô cậu phải mặt mày tươi tỉnh lúc đến Món Tiền Đầu.”

Nhà thờ Món Tiền Đầu của Người Da đen thuộc Công hội Giám lý[78] nằm trong khu dân cư bên ngoài ranh giới phía nam của thị trấn, bên kia đường ray nhà máy cưa cũ. Nó là toà nhà gỗ cổ xưa đã tróc sơn, nhà thờ duy nhất ở Maycomb có chuông và tháp chuông. Tên nhà thờ là Món Tiền Đầu vì các nô lệ được trả tự do đã mua nó bằng món tiền lần đầu tiên họ kiếm được. Người da đen đi lễ ở đó mỗi Chúa nhật, người da trắng đánh bạc ở đó vào những ngày trong tuần.

Sân nhà thờ bằng đất sét cứng như gạch, giống như nghĩa trang bên cạnh. Nếu có người chết vào mùa khô, xác sẽ được ướp các tảng đá lạnh đến khi mưa làm mềm đất. Trong nghĩa trang có vài ngôi mộ với tấm bia đổ nát; những ngôi mộ mới được viền thủy tinh màu sắc rực rỡ và chai Coca-Cola vỡ chung quanh. Cột thu lôi canh gác vài nấm mồ của những người chết tức tưởi; các đuôi nến cháy dở còn đứng ở đầu mấy ngôi mộ trẻ con. Đó là một nghĩa trang phúc hậu.

Mùi chua chua ngọt ngọt nồng ấm của người da đen sạch sẽ chào đón chúng tôi khi chúng tôi vào sân nhà thờ - mùi thuốc chải tóc hiệu Trái Tim Yêu hoà với mùi ngò tây, bột thuốc lá hít, nước hoa Hoyt, thuốc lá nhai Brown’s Mule, kẹo bạc hà và phấn rôm mùi hoa tử đinh hương.

Khi thấy Jem và tôi đi cùng Calpurnia, các ông lùi lại ngả mũ chào, các bà vòng tay trước bụng, những cử chỉ tỏ sự trân trọng thường ngày. Họ tách ra làm một lối đi nhỏ đến cửa nhà thờ cho chúng tôi. Calpurnia bước đi giữa Jem và tôi, đáp lại lời chào hỏi của các láng giềng mặc áo quần sặc sỡ.

Một giọng nói sau lưng chúng tôi: “Cô định làm gì vậy, cô Cal?”

Bàn tay Calpurnia thò lên vai chúng tôi, và chúng tôi quay lại thấy một bà da đen cao lớn đứng trên lối đi phía sau mình. Sức nặng của bà đè lên một chân, khuỷu tay trái chống lên đường cong của hông bà, lòng bàn tay ngửa lên chỉ chúng tôi. Đầu bà tròn nhỏ có cặp mắt hình hạt hạnh lạ lùng, mũi thẳng, miệng cong như cánh cung da đỏ. Bà hình như cao hai mét.

Tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia bấu vào vai tôi. Bà hỏi: “Cô muống gì, Lula?” với một giọng tôi chưa từng nghe bà dùng. Bà nói nhỏ nhẹ, khinh khỉnh.

“Tui muống biếc tại sao cô đem chẻ con da chắng dô nhà thờ đen?”

Calpurnia nói: “Tụi nó là khách của tui.” Tôi lại thấy giọng bà lạ kỳ: bà đang nói giống như họ.

“Ừa, tui đoáng chong tuần cô là khách của nhà Finch.”

Tiếng xì xào lan trong đám đông. Calpurnia thì thầm bảo tôi: “Đừng tức”, nhưng bó hoa hồng trên mũ bà run lên một cách phẫn uất.

Khi Lula bước lên lối đi tiến tới chúng tôi, Calpurnia nói: “Tốp lại đó lập tức, đồ mọi đen.”

Lula ngừng lại, nhưng bà ta nói: “Cô hổng có chiện gì đem chẻ con da chắng tới đây… tụi nó có nhà thờ của tụi nó, mình có của mình. Đây là nhà thờ của mình, phải hông cô Cal?”

Calpurnia nói: “Thờ chung một Chúa, phải không?”

Jem nói: “Mình đi về, Cal, họ không muốn bọn cháu ở đây…”

Tôi đồng ý: họ không muốn chúng tôi ở đây. Tôi có cảm giác, hơn là thấy, rằng chúng tôi đang bị vây chặt. Họ dường như đang kéo sát tới gần chúng tôi hơn, nhưng khi tôi nhìn lên Calpurnia, mắt bà lộ vẻ thích thú. Khi tôi nhìn lại lối đi, Lula đã biến mất. Thay vào chỗ bà ta là một khối đông đặc người da màu.

Một người trong số họ bước ra khỏi đám đông. Zeebo, ông đổ rác. Ông nói: “Ông Jem, chúng tôi rất hân hạnh chào đón quý vị ở đây. Đừng để ý tới Lula, cô ấy cà khịa vì mục sư Sykes doạ kỷ luật cô ấy. Cô ấy hay sinh sự từ lâu rồi, suy nghĩ dấm dớ và kiểu cách vênh váo… chúng tôi rất hân hạnh chào đón quý vị.”

Thế là Calpurnia dắt chúng tôi tới cửa nhà thờ. Mục sư Sykes đón chúng tôi ở cửa, ông dẫn chúng tôi đến hàng ghế đầu.

Món Tiền Đầu không đóng trần và không sơn bên trong. Những cây đèn dầu không thắp treo trên móc đồng dọc các bức tường; các băng gỗ thông dùng làm ghế ngồi. Phía sau bục giảng bằng gỗ sồi nhám, một tấm phướn lụa hồng bạc màu ghi “Thiên Chúa là Tình Thương”, đó là vật trang trí duy nhất trong nhà thờ ngoại trừ bức tranh in kẽm Ánh Sáng Thế Gian của Hunt[79]. Không có bóng dáng chiếc đàn dương cầm, đàn ống, tập bài hát thánh ca, tờ chương trình sinh hoạt của nhà thờ - những thứ đồ lề vật dụng quen thuộc trong nhà thờ mà chúng tôi thấy mỗi Chúa nhật. Bên trong tối mờ, cái lạnh ẩm ướt tan dần nhờ giáo đoàn kéo vào. Trên mỗi chỗ ngồi có một cái quạt bằng bìa cứng rẻ tiền in loè loẹt hình Vườn Gethsemane[80], quà tặng của Công ty Đồ gia dụng Tyndal (Bạn-cần-gì-chúng-tôi-bán-nấy).

Calpurnia ra hiệu cho Jem và tôi đi tới cuối băng ghế, rồi bà an toạ giữa hai chúng tôi. Bà lục trong ví, lôi ra chiếc khăn tay, tháo một nắm tiền xu gói chặt trong góc khăn. Bà cho tôi đồng mười xu và Jem đồng mười xu. Anh thì thào: “Chúng cháu có tiền của chúng cháu”. Calpurnia nói: “Cậu cứ giữ lấy, cậu là khách của tôi.” Mặt Jem thoáng vẻ do dự về vấn đề đạo đức nếu cầm đồng mười xu, nhưng tính lịch sự bẩm sinh của anh chiến thắng, và anh bỏ mười xu của anh vào túi. Tôi cũng bỏ túi mà không chút băn khoăn.

Tôi thì thào: “Cal, tập bài hát thánh ca đâu?”

Bà nói: “Mình không có.”

“Ồ thế thì làm sao…?”

Bà bảo: “Suỵt.” Mục sư Sykes đang đứng sau bục giảng chăm chú nhìn chờ giáo đoàn im lặng. Ông thấp, chắc nịch trong bộ áo vét đen, cà vạt đen, sơ mi trắng, và sợi dây đồng hồ vàng lấp lánh dưới ánh sáng rọi vào từ các cửa sổ mờ hơi nước.

Ông nói: “Anh chị em đạo hữu, sáng nay chúng ta rất hân hạnh có bạn hữu đến với chúng ta. Ông và cô Finch. Các đạo hữu đều biết cha của họ. Trước khi bắt đầu, tôi sẽ đọc một số thông báo.”

Mục sư Sykes lật mấy tờ giấy, chọn một tờ rồi đưa xa ra phía trước. “Thứ Ba kế, Hội Truyền giáo họp ở nhà chị Annette Reeves. Mang theo giỏ may.”

Ông đọc một tờ khác. “Anh chị em đều biết vụ rắc rối của đạo hữu Tom Robinson. Từ hồi còn nhỏ anh ấy đã là thành viên chung thủy của Món Tiền Đầu. Tiền quyên góp hôm nay và ba Chúa nhật tới sẽ đưa cho Helen – vợ anh ấy, để giúp nhà chị.”

Tôi bấm Jem. “Ông Tom đó, Atticus bào ch…”

“Suỵt!”

Tôi quay qua Calpurnia nhưng bị suỵt trước khi kịp mở miệng. Đành chịu, tôi dồn sự chú ý qua mục sư Sykes, ông hình như đợi tôi yên trở lại. Ông nói: “Xin người quản ca dẫn chúng ta trong bài thánh ca đầu tiên.”

Zeebo từ hàng ghế của ông đứng lên bước ra lối đi giữa, dừng lại trước chúng tôi và đối diện giáo đoàn. Ông cầm cuốn thánh ca cũ te tua. Ông mở sách và nói: “Chúng ta sẽ hát bài số hai trăm bảy mươi ba.”

Tới nước này tôi chịu hết nổi. “Làm sao mình hát nếu hổng có cuốn thánh ca nào?”

Calpurnia mỉm cười. Bà thì thào: “Suỵt, cô bé, tí xíu nữa cô sẽ thấy.”

Zeebo hắng giọng, rồi đọc bằng một giọng như tiếng đại bác vang rền xa xa:

“Bên kia sông một miền gọi mời.”

Như có phép lạ, một trăm giọng đồng loạt hát lại lời Zeebo. Âm tiết cuối cùng ngân mạnh, tiếp theo là lời Zeebo:

“Mà chúng ta yêu dấu muôn đời.”

Tiếng nhạc lại nổi lên quanh chúng tôi; nốt cuối cùng ngân nga, và Zeebo nối qua câu kế tiếp: “Chúng ta chỉ đến được bờ bằng đức tin.”

Giáo đoàn lưỡng lự, Zeebo cẩn thận lặp lại câu hát, và họ hát. Đến điệp khúc Zeebo gấp sách lại, dấu hiệu cho giáo đoàn hát tiếp mà không cần ông giúp.

Khi nốt “Tưng bừng” tắt dần, Zeeboo nói: “Trong miền xa yêu dấu muôn đời, ngay bên kia dòng sông sáng ngời.”

Lặp lại từng câu, các giọng hát theo trong sự hài hoà giản dị, đến khi bài thánh ca chấm dứt bằng tiếng thì thầm sầu muộn.

Tôi nhìn Jem, anh đang liếc Zeebo qua khoé mắt. Tôi cũng không tin, nhưng cả hai chúng tôi đều đã nghe.

Sau đó mục sư Sykes xin Chúa ban phúc lành cho người bệnh và kẻ đau khổ, một thủ tục không khác với lệ thường trong nhà thờ của chúng tôi, ngoại trừ mục sư Sykes hướng sự chú ý của Thượng đế tới một vài trường hợp cụ thể.

Bài giảng của ông là lời tố cáo thẳng vào tội lỗi, lời tuyên bố nghiêm khắc của câu châm ngôn trên bức tường phía sau ông: ông cảnh giác con chiên chống lại tệ nạn rượu chè, cờ bạc, và phụ nữ lạ. Bọn bán rượu lậu đã gây đủ rắc rối trong khu dân cư, nhưng phụ nữ còn tệ hơn. Một lần nữa, như tôi vẫn thường gặp trong nhà thờ của mình, tôi phải đối đầu với học thuyết Phụ nữ Ô uế hình như làm bận tâm mọi giáo sĩ.

Jem và tôi đã nghe cũng bài giảng y như vậy từ Chúa nhật này qua Chúa nhật khác, với một ngoại lệ duy nhất. Mục sư Sykes dùng bục giảng một cách thoải mái hơn để bày tỏ quan điểm của ông về những sai sót cá nhân: Jim Hardy đã năm Chúa nhật không đến nhà thờ và anh ta chẳng ốm đau gì; Constance Jackson nên xem lại cách cư xử của chị – mối nguy nghiêm trọng của chị là cãi nhau với bà con lối xóm; chị đã dựng hàng rào thù oán duy nhất trong lịch sử khu xóm.

Mục sư Sykes kết thúc bài giảng. Ông đứng bên cạnh bàn phía trước bục giảng yêu cầu quyên góp cho sáng hôm nay, một thủ tục lạ đối với Jem và tôi. Từng người một, giáo đoàn tiến tới bỏ đồng năm xu mười xu vào bình cà phê tráng men đen. Jem và tôi bắt chước theo, và nhận được câu nói nho nhỏ “Cám ơn ông, cám ơn cô,” khi đồng mười xu của chúng tôi kêu leng keng.

Trước sự kinh ngạc của chúng tôi, mục sư Sykes đổ cái bình ra bàn rồi hốt các đồng xu vào tay ông. Ông đứng thẳng lên nói: “Bằng này không đủ, mình phải có mười đô la.”

Giáo đoàn nháo nhác. “Tất cả các đạo hữu đều biết tiền này để làm gì – Helen không thể bỏ bọn trẻ ở nhà để đi làm trong khi Tom ở tù. Nếu mỗi người cho thêm một đồng mười xu nữa thì chúng ta có đủ…” Mục sư Sykes vẫy tay gọi một người ở cuối nhà thờ. “Alec, đóng cửa lại. Không ai ra khỏi đây cho tới khi mình có mười đô la.”

Calpurnia moi trong túi xách của bà ra cái ví da cũ mòn đựng tiền xu. Jem thì thầm khi bà đưa anh đồng hai mươi lăm xu sáng loáng: “Thôi Cal, bọn cháu góp tiền của bọn cháu vào được. Đưa tao đồng mười xu của mày, Scout.”

Nhà thờ trở nên ngột ngạt, tôi chợt nghĩ mục sư Sykes định cho đám con chiên của ông toát mồ hôi tới khi có đủ số tiền. Quạt kêu phành phạch, chân khua sột soạt, miệng nhai thuốc lá một cách khổ sở.

Mục sư Sykes làm tôi giật mình khi ông nghiêm khắc nói: “Carlow Richarson, tôi chưa thấy anh lên lối đi giữa này.”

Người đàn ông gầy gò mặc quần kaki tiến lên lối đi giữa và bỏ vào một đồng xu. Giáo đoàn xì xào tán thành.

Sau đó mục sư Sykes nói: “Tôi muốn tất cả các anh chị không có con hãy hy sinh cho thêm mỗi người mười xu nữa. Khi ấy mình sẽ có đủ.”

Một cách từ từ, một cách đau khổ, mười đô la gom đủ. Cánh cửa mở ra, luồng khí ấm làm chúng tôi tỉnh lại. Zeebo dẫn từng câu trong bài thánh ca Trên bờ sông Jordan bão tố, và lễ nhà thờ kết thúc.

Tôi muốn ở lại thám hiểm thêm, nhưng Calpurnia đẩy tôi ra lối đi trước bà. Ở cửa nhà thờ, lúc bà dừng lại nói chuyện với Zeebo và gia đình ông, Jem và tôi trò chuyện với mục sư Sykes. Tôi đầy căng thắc mắc, nhưng quyết định đợi hỏi Calpurnia.

Mục sư Sykes nói: “Chúng tôi rất hân hạnh đón cô cậu nơi đây. Nhà thờ này không có người bạn nào tốt bằng cha của cô cậu.”

Lòng tò mò của tôi bùng vỡ: “Tại sao mọi người quyên góp cho vợ của Tom Robinson?”

Mục sư Sykes hỏi: “Cô không biết tại sao à? Helen có ba đứa con nhỏ, chị ấy không ra khỏi nhà để đi làm được…”

Tôi hỏi: “Tại sao bả không đem tụi nó theo, thưa mục sư?” Thông thường người da đen có con nhỏ khi đi làm ngoài ruộng sẽ để chúng ở chỗ nào có bóng râm lúc cha mẹ chúng làm việc – bọn em bé thường ngồi trong bóng râm giữa hai hàng cây bông gòn. Đứa nào chưa biết ngồi sẽ được địu kiểu da đỏ trên lưng mẹ, hay nằm trong mấy cái túi vải mang theo phòng hờ.

Mục sư Sykes ngập ngừng. “Nói thật với cô, cô Jean Louise, hồi này Helen khó kiếm việc làm… đến mùa thu hoạch, tôi nghĩ ông Link Deas sẽ nhận chị ấy.”

“Tại sao khó, thưa mục sư?”

Trước khi ông kịp trả lời, tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia trên vai tôi. Dưới sức ép của bàn tay, tôi nói: “Chúng cháu cám ơn mục sư đã cho chúng cháu đến.” Jem lặp lại lời tôi, và chúng tôi lên đường về nhà.

Tôi hỏi: “Cal, cháu biết Tom Robinson ở tù và ông ấy đã làm cái gì ghê gớm lắm, nhưng tại sao người ta không thuê Helen?”

Trong bộ váy voan xanh nước biển và cái mũ to như cái chậu, Calpurnia bước đi giữa Jem và tôi. Bà nói: “Vì những điều người ta nói Tom đã làm. Người ta không muốn… dính dáng với bất cứ ai trong gia đình anh ấy.”

“Thế ông ấy làm cái gì vậy, Cal?”

Calpurnia thở dài: “Lão Bob Ewell tố cáo anh ấy cưỡng hiếp con gái của lão khiến anh ấy bị bắt nhốt vô tù…”

Trí nhớ của tôi dấy lên: “Ông Ewell? Ông ấy có liên hệ gì với mấy đứa Ewell chỉ đi học ngày tựu trường rồi nghỉ luôn không? Sao nhỉ, Atticus nói bọn họ đúng là thứ rác rưởi… cháu chưa bao giờ nghe Atticus nói về ai như kiểu ổng nói về nhà Ewell. Ổng nói…”

“Ừ, đúng tụi đó.”

“Ôi dào, nếu mọi người ở Maycomb biết đám nhà Ewell thuộc loại gì thì họ sẽ vui vẻ nhận thuê Helen… cưỡng hiếp là cái gì vậy, Cal?”

Bà nói: “Cái đó cô phải hỏi ông Finch. Ông ấy có thể giải thích rõ hơn tôi. Cô cậu đói chưa? Sáng nay mục sư mất nhiều thời giờ xả đủ thứ chuyện, ông ấy ít khi dài dòng như thế.”

Jem nói: “Ông ấy giống y như ông giảng đạo của bọn cháu, nhưng tại sao mọi người hát thánh ca kiểu đó?”

Bà hỏi: “Hát theo hả?”

“Gọi là như vậy à?”

“Ừ, gọi là hát theo. Họ đã hát kiểu đó từ hồi nào tới giờ.”

Jem nói coi bộ họ có thể để dành một năm tiền quyên góp để mua mấy cuốn sách thánh ca.

Calpurnia cười nói: “Chẳng được tích sự gì. Họ đâu có biết đọc.”

Tôi hỏi: “Không biết đọc? Tất cả mấy người đó à?”

Calpurnia gật đầu: “Đúng vậy. Món Tiền Đầu chỉ có khoảng bốn người biết đọc… Tôi là một.”

Jem hỏi: “Bà đi học ở trường nào vậy, Cal?”

“Chẳng học ở trường nào. Xem nào, ai dạy chữ cho tôi? Cô của cô Maudie Atkinson, cụ Buford…”

“Bà già dữ vậy hả, Cal?”

Calpurnia nhe răng cười: “Tôi còn già hơn cả ông Finch. Nhưng hổng biết già hơn cỡ nào. Có lần chúng tôi thử nhớ lại, cố tìm xem tôi bao nhiêu tuổi… tôi có thể nhớ ngược lại nhiều hơn ông ấy chỉ vài năm, vì thế tôi già hơn không bao nhiêu, nếu cậu bỏ bớt đi một số năm vì đàn ông không nhớ giỏi bằng phụ nữ.”

“Sinh nhật bà ngày nào, Cal?”

“Tôi cứ dùng ngày Giáng sinh, như vậy dễ nhớ hơn… tôi không có ngày sinh nhật thật.”

Jem phản đối: “Ồ Cal, thậm chí trông bà không già như Atticus.”

Bà nói: “Người da màu không sớm để lộ tuổi tác của họ.”

”Có lẽ vì họ không biết đọc. Cal, bà dạy Zeebo phải không?”

“Ừ, ông Jem. Hồi nó là con nít, trường học thậm chí cũng không có. Nhưng tôi bắt nó học.”

Zeebo là con trai trưởng của Calpurnia. Nếu đã nghĩ tới điều ấy thì lẽ ra tôi đã biết là Calpurnia già lắm – Zeebo có con khá lớn – nhưng hồi đó tôi không hề nghĩ đến.

Tôi hỏi: “Bà có dạy ổng bằng sách vỡ lòng như bọn cháu không?”

Bà nói: “Không, mỗi ngày tôi bắt nó học một trang Kinh Thánh, và có cuốn sách cô Buford dạy tôi… đánh cuộc là cô cậu không biết từ đâu tôi có.”

Chúng tôi không biết.

Calpurnia nói: “Ông nội Finch của cô cậu cho tôi.”

Jem hỏi: “Bà đã ở Bến Finch à? Bà chưa bao giờ kể cho bọn cháu.”

“Tôi đã ở đó là cái chắc, ông Jem. Lớn lên dưới đó giữa Trại Buford và Bến Finch. Tôi làm việc suốt đời cho nhà Finch hay nhà Buford, rồi tôi dọn tới Maycomb khi ba má của cô cậu cưới nhau.”

Tôi hỏi: “Cuốn sách gì vậy, Cal?”

Chú giải[81] của Blackstone.”

Jem như bị sét đánh: “Bà nói bà dạy Zeebo bằng cuốn đó?”

“Sao vậy, ông Jem.” Calpurnia rụt rè đưa mấy ngón tay lên che miệng. “Tôi chỉ có mấy cuốn sách đó. Ông nội cậu nói ông Blackstone viết tiếng Anh giỏi…”

Jem nói: “Đó là lý do bà không nói như tất cả mấy người kia.”

“Tất cả những ai?”

“Tất cả những người da màu. Cal, nhưng trong nhà thờ thì bà nói giống họ…”

Tôi chưa bao giờ nghĩ bình thường Calpurnia có hai kiểu sống như vậy. Bà có một cuộc sống khác bên ngoài gia đình chúng tôi là một điều mới lạ đối với tôi, chưa kể bà thông thạo hai ngôn ngữ.

Tôi hỏi: “Cal, tại sao bà nói tiếng mọi đen với à… với dân của bà khi bà biết là không đúng?”

“Ôi dào, trước tiên tôi là người da đen…”

Jem nói: “Nhưng như vậy không có nghĩa là bà phải nói kiểu đó khi bà biết cách nói đúng hơn.”

Calpurnia đẩy nghiêng mũ và gãi đầu, sau đó cẩn thận ấn mũ xuống che tai. Bà bảo: “Thật khó nói. Nếu cậu và Scout nói kiểu của người da màu ở nhà thì không đúng chỗ, phải không? Bây giờ nếu tôi nói kiểu của người da trắng ở nhà thờ và với hàng xóm của tôi thì sao? Họ sẽ nghĩ tôi làm bộ làm tịch ta đây hơn cả thánh Moses.”

Tôi nói: “Nhưng Cal, bà biết nhiều hơn mà.”

“Không cần phải kể hết điều mình biết ra. Như vậy không phải là phụ nữ lịch lãm… thứ nữa, thiên hạ không thích người bên cạnh họ biết nhiều hơn họ. Nó làm họ bực mình. Cô có nói đúng cách cũng chẳng thay đổi được ai, chính bản thân họ phải muốn học, và khi họ không muốn học thì cô chẳng làm gì được ngoài việc ngậm cái miệng mình lại hay cô nói bằng ngôn ngữ của họ.”

“Cal, thỉnh thoảng cháu đến gặp bà được không?”

Bà nhìn xuống tôi: “Gặp tôi à, bé cưng? Cô gặp tôi mỗi ngày.”

Tôi nói: “Gặp ở đằng nhà bà. Thỉnh thoảng sau khi làm việc? Atticus có thể đưa cháu tới.”

Bà nói: “Bất cứ lúc nào cô muốn. Chúng tôi hân hạnh đón cô.”

Chúng tôi đang đi trên vỉa hè cạnh nhà Radley.

Jem nói: “Nhìn hàng hiên kia kìa.”

Tôi nhìn qua nhà Radley, trông chờ thấy kẻ cư ngụ ma quái ở đó đang sưởi nắng trên ghế xích đu. Ghế xích đu trống không.

Jem nói: “Tao muốn nói hàng hiên nhà mình kìa.”

Tôi nhìn xuống phố. Sắt đá, thẳng đơ, cứng ngắc[82], bác Alexandra đang ngồi trên cái ghế bập bênh cứ như thể bác đã ngồi ở đó mỗi ngày trong đời bác.

 

 

 

 

13

 

Câu đầu tiên bác Alexandra nói là: “Calpurnia, cất hành lý của tôi vào phòng ngủ phía trước”. Câu thứ hai của bác là: “Jean Louise, đừng gãi đầu nữa.”

Calpurnia khiêng cái va ly nặng của bác lên rồi mở cửa. Jem nói: “Để cháu xách cho”, anh cầm lấy nó. Tôi nghe cái va ly rơi xuống sàn phòng ngủ một tiếng bịch. Tiếng rơi của sự hiện diện lâu dài âm ỉ.

Tôi hỏi: “Thưa bác, bác đến chơi à?” Bác Alexandra hiếm khi từ Bến Finch đến chơi, và bác đi chơi theo kiểu sang trọng. Bác có chiếc xe hơi Buick to tướng màu xanh lá cây tươi và một ông tài xế da đen, cả hai sạch sẽ ngăn nắp một cách bệnh hoạn, nhưng hôm nay không thấy đâu.

Bác hỏi: “Ba các cháu không nói cho các cháu à?”

Jem và tôi lắc đầu.

“Chắc ba cháu quên. Ba chưa về à?”

Jem nói: “Chưa, thưa bác, ba thường đến chiều tối mới về.”

“Ôi dào, ba các cháu và bác nghĩ đã đến lúc bác tới ở với các cháu một thời gian.”

“Một thời gian” ở Maycomb nghĩa là từ giữa ba ngày tới ba chục năm. Jem và tôi liếc nhau.

Bác bảo tôi: “Jem bây giờ lớn hẳn lên rồi, cả cháu nữa. Ba cháu với bác cho là đã đến lúc cháu nên có một số ảnh hưởng nữ giới. Chẳng mấy năm nữa, Jean Louise, cháu sẽ để ý đến y phục và tụi con trai…”

Tôi có thể có vài câu trả lời cho việc này: Cal là con gái, còn nhiều năm nữa tôi mới để ý tới tụi con trai, tôi sẽ không bao giờ để ý đến y phục… nhưng tôi lặng im.

Jem hỏi: “Còn bác Jimmy thế nào? Bác ấy cũng đến chứ?”

“Ồ không, bác ấy ở lại Bến. Bác ấy coi sóc công việc ở đó.”

Ngay sau khi tôi nói “Bác không nhớ bác ấy à?” tôi biết đó là câu hỏi không khéo. Bác Jimmy có mặt hay bác Jimmy vắng mặt chẳng khác gì mấy, bác ấy chẳng bao giờ nói. Bác Alexandra làm lơ câu hỏi của tôi.

Tôi không nghĩ ra được gì nữa để nói với bác. Thật ra tôi chẳng bao giờ nghĩ ra được cái gì để nói với bác, và tôi ngồi nghĩ đến những lần trò chuyện vất vả trong quá khứ giữa chúng tôi: Cháu khoẻ không, Jean Louise? Khoẻ, cám ơn bác, bác khoẻ không? Khoẻ lắm, cám ơn cháu, dạo này cháu làm gì? Chẳng làm gì. Cháu không làm gì à? Thưa không. Chắc cháu có bạn? Dạ có. Vậy thì các cháu làm gì? Chẳng làm gì.

Rõ ràng bác nghĩ tôi cực kỳ đần độn, vì một lần tôi nghe bác nói với Atticus rằng tôi lờ đờ.

Đằng sau vụ này hẳn có chuyện gì, nhưng lúc đó tôi không muốn dò hỏi bác. Hôm nay là Chúa nhật, và bác Alexandra rất cáu kỉnh trong ngày của Chúa. Tôi đoán vì cái áo nịt ngực bác mặc ngày Chúa nhật. Bác không béo, nhưng chắc người, và bác chọn loại nai nịt nâng ngực lên tới độ cao chóng mặt, bóp eo, xoè mông, gợi ý là bác Alexandra đã một thời có vóc dáng cái đồng hồ cát. Nhìn từ bất cứ góc cạnh nào cũng dễ sợ.

Cả buổi chiều còn lại trôi qua trong sự u ám thoảng nhẹ vốn có mỗi khi họ hàng xuất hiện, nhưng tan biến khi chúng tôi nghe tiếng xe quẹo vào lối vào nhà. Atticus từ Montgomery về. Jem quên mất vẻ chững chạc của anh, cùng tôi chạy ra đón ông. Jem nắm lấy cặp và túi xách của ông, tôi nhảy vào vòng tay ông, cảm thấy cái hôn khô thoáng qua của ông và nói: “Ba có sách cho con không? Ba có biết bác gái ở đây không?”

Atticus trả lời có cho cả hai câu hỏi. “Con có thích bác đến sống với mình không?”

Tôi nói thích lắm, nói dối, nhưng trong một số tình huống nào đó và những khi chẳng làm gì được thì ta đành phải nói dối.

Atticus nói: “Bác và ba cảm thấy đến lúc các con cần… ồ, như thế này, Scout. Bác giúp ba cũng như các con. Ba không thể ở nhà suốt ngày với các con, và mùa hè này sẽ nóng.”

Tôi nói: “Vâng thưa ba”, dù không hiểu một chữ ông nói. Tuy nhiên, tôi mơ hồ nghĩ rằng bác Alexandra xuất hiện không hẳn là ý Atticus mà là ý của bác nhiều hơn. Bác có cách khẳng định Điều Tốt Nhất Cho Gia Đình, và tôi cho rằng việc bác đến sống với chúng tôi thuộc về loại đó.

Maycomb chào đón bác. Cô Maudie Atkinson nướng cái bánh kem nhiều lớp tẩm nhiều ma men tới nỗi tôi khật khừ; cô Stephanie Crawford nhiều lần đến chơi lâu với bác Alexandra, hầu như suốt những lúc ấy cô Stephanie chỉ lắc đầu nói “Ư, ư, ư”. Cô Rachel bên cạnh mời bác qua uống cà phê mấy buổi chiều, và thậm chí ông Nathan Radley vào đến tận sân trước nói ông ấy hân hạnh gặp bác.

Khi bác đã ở yên với chúng tôi và cuộc sống trở lại nhịp điệu hằng ngày, bác Alexandra có vẻ như đã sống với chúng tôi từ xưa đến nay. Đồ ăn thức uống bác đãi Hội Truyền giáo làm tăng thêm danh tiếng chủ nhà của bác (bác không cho Calpurnia làm các món bánh trái cần thiết để Hội có sức ngồi nghe những báo cáo dài về các Kytô hữu Cơm Gạo[83]); bác gia nhập và trở thành chủ tịch Câu lạc bộ Kí lục ở Maycomb[84]. Đối với mọi thành phần hiện diện và tham dự vào đời sống quận hạt, bác Alexandra là một trong những người cuối cùng thuộc loại của bác: bác có kiểu cách của thuyền đi sông và trường nội trú; bác sẽ ủng hộ bất cứ bài học đạo đức nào; bác sinh ra trong thể bổ ngữ[85]; bác ngồi lê đôi mách hết thuốc chữa. Thời bác Alexandra đi học, sách giáo khoa không dạy mình tự vấn, vì thế bác không biết tự vấn nghĩa là gì. Bác không bao giờ chán sử dụng đặc quyền vương giả của mình mỗi khi có bất kỳ cơ hội nhỏ xíu nào: bác sẽ sắp xếp, khuyên răn, đe nẹt và cảnh cáo.

Bác chưa hề bỏ lỡ cơ hội vạch ra những khuyết điểm của các dòng họ khác để tôn vinh danh giá gia tộc chúng tôi, một thói làm Jem thú vị hơn là khó chịu: “Bác nên coi chừng lời nói của bác… chê gần hết mọi người ở Maycomb mà họ là bà con với mình.”

Khi nhấn mạnh bài học đạo đức về vụ anh chàng Sam Merriweather tự tử, bác Alexandra nói đó là do tì vết bệnh hoạn trong gia đình. Nếu một chị mười sáu tuổi cười khúc khích trong ban hợp xướng, bác sẽ nói: “Điều đó chứng tỏ cho mình thấy tất cả phụ nữ nhà Penfield đều đồng bóng.” Mọi người ở Maycomb hình như đều có Tì vết: Tì vết Nhậu nhẹt, Tì vết Cờ bạc, Tì vết Bần tiện, Tì vết Dở hơi.

Một lần, bác cam đoan với chúng tôi rằng xu hướng xía vô chuyện người khác của cô Stephanie Crawford là di truyền, Atticus nói: “Chị ơi, khi chị nghĩ lại thì thế hệ mình thật ra là thế hệ đầu tiên trong gia tộc Finch mà anh chị em họ không cưới lẫn nhau. Chị có nói nhà Finch có Tì vết Loạn luân không?”

Bác nói không, bằng chứng là chúng tôi có bàn tay và bàn chân nhỏ.

Tôi không bao giờ hiểu được nỗi ám ảnh về di truyền của bác. Tôi đã có ấn tượng đâu đó rằng Người Tốt là người làm hết sức mình với khả năng phán đoán mà họ có, nhưng bác Alexandra có quan điểm, biểu lộ một cách quanh co, rằng dòng họ nào ngồi xổm trên một mảnh đất càng lâu thì càng cao cả hơn.

Jem nói: “Như vậy nhà Ewell là những người cao cả.” Dòng họ của Burris Ewell và anh chị em nó đã ba thế hệ sống trên cùng mảnh đất phía sau bãi đổ rác của Maycomb, và sinh sôi nảy nở bằng tiền trợ cấp của quận hạt.

Tuy nhiên, lý thuyết của bác Alexandra cũng có chỗ dựa. Maycomb là một thị trấn cổ xưa. Nó cách Bến Finch hai mươi dặm về phía đông, xa sông nước một cách bất tiện đối với một thị trấn xưa như thế. Nhưng Maycomb lẽ ra đã gần sông hơn, nếu không có một ông Sinkfield láu cá từ hồi khai thiên lập địa đã mở một quán trọ duy nhất trong vùng ở chỗ đồng không mông quạnh. Sinkfield chẳng phải là nhà ái quốc gì, ông phục vụ và cung cấp đạn dược cho cả người da đỏ lẫn dân định cư, ông cũng chẳng biết hay thiết tha gì tới việc ông ở trong Lãnh thổ Alabama[86] hay Xứ Da đỏ Creek miễn là làm ăn khá. Làm ăn khấm khá khi Thống đốc William Wyatt Bibb[87], với ý đồ củng cố việc nội trị trong quận hạt mới lập, phái một toán chuyên viên bản đồ tới để xác định đúng trung tâm vùng đất nhằm đặt cơ quan chính quyền. Toán vẽ bản đồ là khách của quán trọ Sinkfield, họ bảo chủ quán rằng ông ta ở trong địa phận hạt Maycomb, và cho ông xem cái điểm có thể đặt chính quyền quận hạt. Nếu Sinkfield không táo bạo ra tay gìn giữ cơ nghiệp của ông thì Maycomb đã nằm ngay giữa Đầm Winston, một chỗ hoàn toàn vô tích sự. Thay vào đó, Maycomb phát triển và lan rộng ra xung quanh tâm điểm của nó là Quán Sinkfield, vì một tối nọ Sinkfield biến khách trọ thành bọn say rượu cận thị, xúi họ đem bản đồ và bảng đo đạc của họ ra, xẻo một chút chỗ này, đắp một chút chỗ kia, và điều chỉnh trung tâm quận hạt cho hợp với nhu cầu của ông. Hôm sau ông tiễn họ đi với bảng đo đạc ấy và năm lít rượu lậu trong túi yên ngựa – hai lít cho mỗi người và một lít cho ông thống đốc.

Lý do chính để Maycomb hiện hữu là vì nó là nơi đặt chính quyền, nhờ thế nó tránh được tình trạng nhếch nhác vốn là đặc điểm của hầu hết các thị trấn cùng cỡ với nó ở Alabama. Lúc đầu thị trấn có các toà nhà vững chắc, toà án uy nghi, đường phố rộng đẹp. Tỉ lệ dân có nghề chuyên môn ở Maycomb rất cao: người ta tới đó để được nhổ răng, sửa chiếc xe ngựa, nghe tim, gửi tiền, cứu rỗi linh hồn, khám bệnh cho con lừa. Nhưng sự khôn ngoan ma mãnh tột bực của Sinkfield bị lôi ra chất vấn. Ông đã đặt thị trấn mới quá xa loại phương tiện chuyên chở công cộng duy nhất của thời đó là thuyền chạy trên sông, và một người ở cực bắc quận hạt phải mất hai ngày mới đến được Maycomb để mua hàng hoá ở các cửa tiệm. Hậu quả là thị trấn giữ nguyên kích thước cả trăm năm, một ốc đảo giữa biển ruộng bông gòn và rừng khai thác gỗ.

Mặc dù Maycomb không bị để ý đến trong Chiến Tranh Giữa Các Tiểu Bang, nhưng Luật Tái thiết[88] và suy thoái kinh tế buộc thị trấn phải phát triển. Nó phát triển vào trong. Rất ít người mới đến định cư ở đó, các gia đình cứ kết hôn quanh quẩn với nhau cho tới khi các thành viên trong cộng đồng có vẻ na ná giống nhau. Thỉnh thoảng có người từ Montgomery hay Mobile trở về với một người ngoài, nhưng kết quả chỉ là gợn sóng nhỏ trên dòng chảy lặng lẽ không đủ xao động sự tương đồng giữa các gia tộc. Không nhiều thì ít, sự việc giữ nguyên như vậy trong thời thơ ấu của tôi.

Thật ra ở Maycomb có hệ thống đẳng cấp, nhưng đối với đầu óc tôi thì nó hệ thống theo cách này: những cư dân lớn tuổi, thế hệ hiện thời đã sống bên cạnh nhau năm này qua năm khác, họ hoàn toàn đoán được ý nhau, đương nhiên hiểu những thái độ, những khác biệt tinh tế trong cá tính, thậm chí những điệu bộ của nhau, vì đã lặp đi lặp lại trong mỗi thế hệ và được trau chuốt theo thời gian. Vì thế các câu châm ngôn Bọn Crawford không lo việc riêng của tụi nó, Ba đứa Merriweather thì có một đứa bệnh hoạn, Tụi Delafield gian dối, Cả nhà Buford đi đứng kiểu đó, chỉ là những hướng dẫn cho sinh hoạt hằng ngày: đừng bao giờ nhận chi phiếu của một đứa Delafield mà không kín đáo điện thoại cho ngân hàng; vai cô Maudie Atkinson khòm vì cô thuộc dòng dõi Buford; nếu bà Grace Merriweather nhắp rượu gin trong chai Lydia E. Pinkham[89] thì chẳng có gì bất thường – mẹ bà ấy cũng làm y chang.

Bác Alexandra ăn khớp với xã hội Maycomb như hình với bóng, nhưng không bao giờ khớp với thế giới của Jem và tôi. Tôi thường tự hỏi làm sao bác có thể là chị của Atticus và chú Jack đến nỗi tôi hồi tưởng lại những chuyện chỉ còn nhớ lờ mờ về bọn trẻ bị đánh tráo và củ nhân sâm mà Jem thêu dệt trước đây đã lâu.

Đó là những suy đoán trừu tượng trong tháng đầu tiên bác đến ở, vì bác ít khi nói với Jem và tôi, và chúng tôi chỉ thấy bác vào giờ ăn và ban đêm trước khi chúng tôi đi ngủ. Đang mùa hè, chúng tôi ở ngoài đường. Dĩ nhiên một số buổi chiều khi chạy vào nhà để uống nước, tôi thấy phòng khách đầy các mệnh phụ ở Maycomb, vừa uống nhấm nháp, vừa thì thầm, vừa quạt, và tôi sẽ nghe gọi: “Jean Louise, đến thưa chuyện với các bà.”

Khi tôi xuất hiện ở ngưỡng cửa, bác sẽ nhìn như thể hối hận vì đã gọi; tôi thường lấm bùn hay dính đầy cát.

Một chiều nọ bác chặn tôi trong hành lang và nói: “Ra nói chuyện với chị họ Lily của cháu.”

Tôi hỏi: “Ai?”

Bác Alexandra nói: “Chị họ Lily Brooke của cháu.”

“Cô ấy là bà con với mình à? Cháu không biết.”

Bác Alexandra cố mỉm cười theo kiểu tỏ lời xin lỗi từ tốn tới chị họ Lily và với ý chê trách tôi rõ ràng. Khi chị họ Lily Brooke ra về, tôi biết mình lãnh đủ.

Điều đáng buồn là cha tôi đã hờ hững không kể cho tôi về Gia tộc Finch, hay dạy cho con cái ông biết tự hào. Bác gái gọi Jem vào, anh thận trọng ngồi trên chiếc ghế nệm dài bên cạnh tôi. Bác ra khỏi phòng rồi trở lại với cuốn sách bìa tím có dòng chữ mạ vàng Suy ngẫm của Joshua S. St. Clair.

Bác Alexandra nói: “Cụ họ của các cháu viết cuốn này. Cụ ấy là một nhân vật tốt.”

Jem xem xét cuốn sách nhỏ. “Có phải đây là cụ Joshua đã bị ngồi tù lâu lắm không?”

Bác Alexandra nói: “Sao cháu biết?”

“Sao nhỉ, Atticus nói hồi ở Đại học cụ dở hơi. Nói cụ định bắn tổng thống. Nói cụ Joshua bảo ổng chẳng khác gì anh quét cống và định bắn ổng bằng khẩu súng kíp cũ xì, nhưng súng nổ toác tay cụ. Atticus nói gia đình tốn năm trăm đô la để gỡ cụ ra khỏi vụ đó…”

Bác Alexandra đứng ngây như con cò. Bác nói: “Thôi, mình sẽ tính sau.”

Trước giờ ngủ tôi vào phòng Jem định mượn cuốn sách, Atticus gõ cửa vào. Ông ngồi trên mép giường Jem, nghiêm trang nhìn chúng tôi, rồi ông nhe răng cười.

Ông nói: “E-hèm”. Ông mở đầu những điều sắp nói bằng một tiếng hắng giọng, tôi nghĩ rốt cuộc chắc ông đang già đi, nhưng trông ông vẫn thế. Ông bắt đầu: “Ba không rõ nên nói việc này cách nào.”

Jem nói: “Ôi dào, cứ nói đi. Bọn con đã làm chuyện gì à?”

Cha chúng tôi quả thật đang bồn chồn. “Không, ba chỉ muốn giải thích cho các con là… bác Alexandra yêu cầu ba… con à, con biết mình thuộc dòng họ Finch, phải không?”

“Con đã được nghe kể như vậy rồi.” Jem nhìn qua khoé mắt. Giọng anh cất cao mất kiểm soát, “Atticus, chuyện gì vậy?”

Atticus bắt tréo chân và khoanh tay lại. “Ba đang định nói chuyện đời với con.”

Jem càng bực bội hơn. Anh nói: “Con biết hết mấy thứ đó rồi.”

Atticus bỗng nghiêm nghị. Bằng giọng luật sư, không một chút trầm bổng, ông nói: “Bác của con vừa mới yêu cầu ba cố tạo ấn tượng với con và Jean Louise rằng các con không phải là hạng người tầm thường, các con xuất thân từ mấy thế hệ dòng dõi trâm anh thế phiệt…” Atticus ngập ngừng, nhìn tôi tìm con rệp lẻn lút trên chân tôi.

Ông nói tiếp sau khi tôi tìm thấy con rệp rồi giết nó: “Dòng dõi trâm anh thế phiệt, và các con nên cố sống cho xứng với cái tên của mình…” Atticus cứ nói bất chấp chúng tôi: “Bác yêu cầu ba bảo các con là các con phải cư xử như tiểu thư và công tử. Bác muốn nói chuyện với các con về gia đình và tầm vóc của mình trong hạt Maycomb bao năm qua, để các con biết mình là ai, để các con có thể thay đổi mà cư xử cho phù hợp,” ông kết luận chớp nhoáng.

Sửng sốt, Jem và tôi nhìn nhau, rồi nhìn Atticus, hình như cái cổ áo làm ông khó chịu. Chúng tôi không nói gì với ông.

Ngay sau đó tôi nhặt cái lược trên tủ áo của Jem rồi cứa răng lược lên mép tủ.

Atticus nói: “Đừng làm ồn.”

Giọng cộc lốc của ông làm tôi đau nhói. Cái lược đang cứa dở dang, tôi đập nó xuống. Tôi cảm thấy mình bắt đầu khóc chẳng vì lý do gì, nhưng tôi không thể nín. Đây không phải là cha tôi. Cha tôi không bao giờ có những ý nghĩ ấy. Cha tôi không bao giờ nói như thế. Bác Alexandra đã đẩy ông vào tình trạng này, bằng cách nào đó. Qua nước mắt tôi thấy Jem cũng đang đứng trong vòng vây cô lập tương tự, đầu anh nghiêng một bên.

Không còn chỗ nào để đi, nhưng tôi xoay người đi và gặp ngực áo vét của Atticus. Tôi vùi đầu vào đó, lắng nghe tiếng nho nhỏ bên trong phía sau lớp vải xanh nhạt: đồng hồ của ông tích tắc, áo sơ mi hồ cứng của ông kêu lách tách mơ hồ, hơi thở ông dịu nhẹ.

Tôi nói: “Bao tử ba đang sôi.”

Ông nói: “Ba biết.”

“Ba nên uống soda.”

Ông nói: “Ba sẽ uống.”

“Atticus, mấy chuyện cư xử linh tinh này có làm mọi thứ khác đi không? Con muốn nói là ba…?”

Tôi cảm thấy bàn tay ông trên gáy mình. Ông nói: “Đừng lo. Chưa tới lúc để lo.”

Khi nghe thấy thế, tôi biết ông đã trở về với chúng tôi. Máu trong chân tôi lại bắt đầu chảy, tôi ngẩng đầu lên. “Ba thật sự muốn tụi con làm mấy thứ đó hả? Con không nhớ hết được mọi thứ con cái nhà Finch phải làm…”

“Ba không muốn con nhớ. Quên nó đi.”

Ông đi tới cửa rồi ra khỏi phòng, đóng cửa lại sau lưng. Ông suýt dập mạnh cửa, nhưng đến phút cuối ông kìm lại và đóng nhè nhẹ. Jem và tôi nhìn theo, cánh cửa lại mở ra, Atticus ngó vào. Lông mày ông nhướng lên, kính ông tụt xuống. “Càng ngày ba càng giống cụ Joshua phải không? Bộ các con nghĩ rốt cuộc ba sẽ làm tốn của gia đình năm trăm đô la à?”

Bây giờ tôi biết ông định làm gì, nhưng Atticus chỉ là đàn ông. Chỉ có phụ nữ mới làm được loại việc đó.

 

 

 

 

 

14

 

Tuy không nghe bác Alexandra nói gì thêm về gia tộc Finch nữa, nhưng chúng tôi nghe dân thị trấn nói rất nhiều. Vào các ngày thứ Bảy, cầm theo đồng năm xu của mình, khi Jem cho phép tôi tháp tùng anh (bây giờ ở nơi công cộng anh cực kỳ dị ứng với sự hiện diện của tôi), chúng tôi len lỏi qua đám đông đẫm mồ hôi trên vỉa hè và đôi khi nghe: “Tụi con của hắn kìa” hay “Mấy đứa Finch đằng kia kìa”. Quay sang đối diện kẻ buộc tội mình, chúng tôi chỉ thấy hai nông dân đang ngắm mấy túi thuốc bơm ruột bày trong cửa kính hiệu thuốc Mayco. Hay hai bà nhà quê thấp béo đội mũ rơm ngồi trên chiếc xe ngựa bánh cao su.

“Tụi nó tha hồ chạy rông rồi cưỡng hiếp khắp vùng quê cho cả bọn chính quyền hạt này lo” là câu bình phẩm mơ hồ của một ông lịch sự gầy gò mà chúng tôi chạm mặt khi ông đi ngang chúng tôi. Nó nhắc tôi nhớ mình có một câu cần hỏi Atticus.

Tối hôm đó tôi hỏi ông: “Cưỡng hiếp là gì?”

Atticus từ sau tờ báo nhìn ra. Ông đang ngồi trên ghế bên cạnh cửa sổ. Khi chúng tôi lớn lên, Jem và tôi nghĩ mình để yên cho Atticus ba mươi phút sau bữa ăn tối đã là rộng rãi.

Ông thở dài, nói cưỡng hiếp là ăn nằm với một phụ nữ bằng vũ lực mà không có sự đồng ý.

“Ồ nếu chỉ có vậy thì tại sao Calpurnia ỉm con đi lúc con hỏi bà?”

Atticus có vẻ trầm ngâm. “Nói lại xem thế nào?”

“Ồ, hôm đó từ nhà thờ về con hỏi Calpurnia, bà nói hỏi ba mà con quên tới bây giờ mới hỏi.”

Tờ báo của ông lúc này nằm trên đùi. Ông nói: “Kể lại lần nữa xem.”

Tôi kể cho ông chi tiết lần chúng tôi đi nhà thờ với Calpurnia. Atticus hình như thích thú, nhưng bác Alexandra đang im lặng ngồi khâu trong góc liền đặt đồ thêu xuống và đăm đăm nhìn chúng tôi.

“Hôm Chúa nhật đó cả hai cháu từ nhà thờ của Calpurnia về à?”

Jem nói: “Vâng thưa bác, bà ấy dẫn tụi cháu đi.”

Tôi nhớ ra một điều: “Vâng thưa bác, bà ấy hứa với cháu là một buổi chiều nào đó cháu có thể đến nhà bà ấy. Atticus, Chúa nhật sau con đi được không? Cal nói bà ấy sẽ đến đón con nếu ba lái xe đi vắng.”

“Cháu không được đi.”

Bác Alexandra nói thế. Tôi xoay người, sửng sốt, rồi xoay lại Atticus đúng lúc bắt gặp ông liếc vội bác, nhưng đã quá muộn. Tôi nói: “Cháu không hỏi bác!”

Đối với một người to lớn, Atticus có thể đứng lên rồi ngồi xuống ghế nhanh hơn bất kỳ ai tôi biết. Ông đang đứng. Ông nói: “Xin lỗi bác con.”

“Con không hỏi bác. Con hỏi ba…”

Atticus xoay đầu, con mắt tốt của ông ghim tôi lên vách tường. Giọng ông rắn đanh: “Trước tiên, xin lỗi bác con.”

Tôi lẩm bẩm: “Thưa bác, cháu xin lỗi.”

Ông nói: “Bây giờ mình làm rõ chuyện này: con làm theo lời Calpurnia bảo con, con làm theo lời ba bảo con, và khi nào bác con còn ở trong nhà này thì con làm theo lời bác bảo con. Hiểu chưa?”

Tôi hiểu, ngẫm nghĩ một lát, và kết luận rằng cách duy nhất để tôi có thể rút lui mà vẫn còn một chút thể diện là đi vào phòng tắm, tôi ở trong đó đủ lâu để họ nghĩ tôi phải đi. Lúc trở lại, tôi nấn ná trong hành lang để nghe cuộc tranh luận gay go đang xảy ra trong phòng khách. Qua cánh cửa tôi thấy Jem trên ghế dài với tờ tạp chí bóng bầu dục trước mặt, đầu anh quay như thể trang báo đang chiếu trực tiếp một trận quần vợt.

Bác đang nói: “… cậu phải làm điều gì đó với nó. Cậu đã để sự việc cứ như thế quá lâu. Atticus, quá lâu.”

“Em thấy cho nó ra đó chẳng có hại gì. Cal sẽ chăm nom cho nó ở đó cũng giống như ở đây.”

Họ đang nói tới “nó” nào? Tim tôi thót lại: tôi. Tôi cảm thấy vòng vải hồng hồ cứng tù túng đang bủa vây tôi[90], và đây lần thứ hai trong đời tôi nghĩ đến bỏ trốn. Trốn lập tức.

“Atticus, mềm mỏng cũng tốt, cậu là người dễ dãi, nhưng cậu phải nghĩ tới con gái. Một đứa con gái đang lớn.”

“Điều đó em đang nghĩ tới.”

“Và đừng cố lẩn tránh. Không sớm thì muộn cậu phải đối diện với vấn đề, và có thể là tối nay. Bây giờ mình không cần bà ấy nữa.”

Giọng Atticus bình lặng: “Alexandra, Calpurnia sẽ không rời khỏi nhà này nếu bà ấy chưa muốn. Chị có thể nghĩ khác, nhưng em không thể thu xếp mà không có bà ấy bao năm nay. Bà ấy chung thủy với gia đình này, và chị sẽ phải đơn thuần chấp nhận sự việc như hiện thời. Vả lại, thưa chị, em không muốn chị mệt đầu vì bọn em… chị không có lý do gì phải như vậy. Bọn em vẫn rất cần Cal như từ trước đến nay.”

“Nhưng Atticus…”

“Vả lại, em không nghĩ bọn trẻ khổ sở chút nào về việc bà ấy dạy dỗ chúng. Nếu có thì vì về một số mặt bà ấy khó với chúng hơn một cả một người mẹ… bà ấy chưa bao giờ tha chúng tội gì, bà ấy chưa bao giờ nuông chiều chúng theo kiểu phần lớn các bà vú da màu khác. Bà ấy cố dạy chúng theo hiểu biết của bà ấy, và hiểu biết của Cal rất tốt… và một điều nữa, bọn trẻ yêu bà ấy.”

Tôi thở ra. Không phải là tôi, họ chỉ đang nói về Calpurnia. Tỉnh táo lại, tôi đi vào phòng khách. Atticus đã rút về sau tờ báo của ông, và bác Alexandra đang bận với đồ thêu của bác. Bộp, bộp, bộp, kim thêu của bác đâm thủng vòng vải căng. Bác ngừng lại, kéo vải căng thêm: bộp, bộp, bộp. Bác miệt mài.

Jem đứng lên bước nhẹ qua thảm. Anh ra hiệu cho tôi đi theo. Anh dẫn tôi về phòng anh rồi đóng cửa. Mặt anh nghiêm trọng.

“Scout, họ vừa mới bẳn gắt.”

Jem với tôi dạo này bẳn gắt nhau rất nhiều, nhưng tôi chưa hề nghe hay thấy ai cãi nhau với Atticus. Cảnh đó không dễ chịu.

“Scout, cố đừng làm trái ý bác, nghe chưa?”

Lời răn của Atticus vẫn còn day dứt khiến tôi không hiểu đó là lời yêu cầu của Jem. Tôi lại xù lông: “Anh định bắt buộc em hả?”

“Không, chỉ là… ổng bây giờ đang có nhiều việc trong đầu, không cần mình làm cho ổng lo thêm.”

“Như chuyện gì?” Atticus chẳng có vẻ đang có việc gì, nhất là trong đầu ông.

“Vụ Tom Robinson này đang làm ổng lo muốn chết…”

Tôi nói Atticus chẳng lo lắng chuyện gì. Vả lại, vụ án chưa hề quấy rầy chúng tôi ngoại trừ mỗi tuần khoảng một lần rồi thôi.

Jem nói: “Đó là vì mày không giữ được cái gì lâu trong đầu. Người lớn họ khác, mình…”

Dạo này thói trịch thượng đáng ghét của anh không thể chịu nổi. Anh không muốn làm bất kỳ cái gì ngoài đọc và bỏ đi một mình. Mặc dù mọi thứ anh đọc anh đều chuyền cho tôi, nhưng khác ở chỗ: hồi trước anh nghĩ tôi sẽ thích; bây giờ để mở mang trí tuệ và dạy tôi.

“Trời đất thiên địa ơi, Jem! Anh nghĩ anh là ai?”

“Bây giờ tao nói thật, Scout, mày làm trái ý bác thì tao sẽ… tao sẽ đánh đòn mày.”

Nghe thế, tôi hết biết. “Anh là đồ hình tính[91] chết dấp, em giết anh!” Anh đang ngồi trên giường, tôi dễ dàng nắm mớ tóc trước trán anh rồi cho một đấm vào miệng. Anh tát tôi, tôi cố thoi một cú tay trái, nhưng cú đấm vào bụng làm tôi ngã sóng soài trên sàn nhà. Nó làm tôi gần tắt thở, nhưng không hề gì vì tôi biết anh đang đánh, anh đang đánh lại tôi. Chúng tôi vẫn bình đẳng.

“Bây giờ anh cũng chẳng cao cả vĩ đại gì!” Tôi hét lên, lại lao tới. Anh vẫn ở trên giường, và tôi không có được thế mạnh, vì thế tôi dùng hết sức lao vào anh, đánh, giằng, cào, cấu. Ban đầu là đánh đấm rồi trở thành một trận đại chiến ầm ĩ. Chúng tôi vẫn còn vùng vẫy khi Atticus tách chúng tôi ra.

Ông nói: “Đủ rồi. Cả hai đứa đi ngủ lập tức.”

“Đáng đời!” Tôi bảo Jem. Anh bị bắt đi ngủ vào giờ ngủ của tôi.

Atticus hỏi với vẻ cam chịu: “Ai gây sự?”

“Jem. Anh ấy định bắt buộc con. Bây giờ con không cần nghe lời anh nữa, phải không?”

Atticus mỉm cười: “Mình tạm thế này: con nghe lời Jem khi nào anh có thể làm con nghe lời. Công bằng chứ?”

Bác Alexandra có mặt nhưng im lặng, và khi bà cùng đi xuống hành lang với Atticus chúng tôi nghe bà nói: “… chỉ là một trong nhiều điều tôi đã nói với cậu,” một câu làm chúng tôi lại đoàn kết.

Phòng chúng tôi nối liền nhau; khi tôi đóng cánh cửa thông giữa hai phòng, Jem nói: “Ngủ ngon, Scout.”

“Ngủ ngon,” tôi lẩm bẩm, mò mẫm băng qua phòng để bật đèn. Lúc đi qua giường tôi đạp lên một vật âm ấm, đàn hồi, khá láng. Nó không như cao su cứng, tôi có cảm giác nó sống. Tôi cũng nghe nó cử động.

Tôi bật đèn, nhìn sàn nhà bên cạnh giường. Vật tôi bước lên đã biến mất. Tôi gõ cánh cửa phòng Jem.

Anh nói: “Cái gì?”

“Con rắn sờ thấy thế nào?”

“Hơi ráp. Lạnh. Khô. Sao vậy?”

“Em nghĩ có con rắn dưới giường em. Anh qua xem được không?”

“Mày nói giỡn hả?” Jem mở cửa. Anh mặc quần ngủ. Tôi không phải là không hài lòng khi thấy dấu đốt ngón tay mình vẫn còn trên miệng anh. Khi anh thấy tôi nói thật, anh bảo: “Nếu mày nghĩ tao sẽ cúi mặt xuống con rắn thì mày nên nghĩ lại. Chờ một chút.”

Anh vào bếp tìm cây chổi. Anh nói: “Mày nên leo lên giường.”

Tôi hỏi: “Anh nghĩ có rắn thật à?” Điều này ít xảy ra. Nhà chúng tôi không có tầng hầm; nhà xây trên trụ đá cao trên mặt đất mấy tấc, và loài bò sát chui vào không phải là không có, nhưng hiếm khi. Mỗi sáng cô Rachel Haverford có cớ để uống một ly rượu không pha vì cô không nén được nỗi lo sợ gặp con rắn rung chuông cuộn mình trên giỏ giặt trong tủ áo phòng ngủ, khi cô đi tới để treo áo quần mặc trong nhà.

Jem ngập ngừng quét thử dưới gầm giường. Tôi nhìn qua chân để xem có rắn bò ra không. Không. Jem quét sâu hơn.

“Rắn có rên không?”

Jem nói: “Hổng phải rắn. Người.”

Thình lình một cái gói nâu bẩn thỉu dưới gầm giường văng ra. Jem giơ cây chổi và suýt đập trúng đầu của Dill lúc nó xuất hiện.

“Chúa ơi.” Giọng Jem thành kính.

Chúng tôi nhìn Dill hiện ra từng khúc. Nó vừa khít dưới giường. Nó đứng lên vươn vai, ngọ nguậy cổ chân, xoa gáy. Sau khi máu huyết lưu thông, nó nói: “Ê.”

Jem lại cầu Chúa. Tôi á khẩu.

Dill nói: “Tao gần bỏ mạng. Có cái gì ăn không?”

Tôi mơ màng đi ra bếp. Tôi mang cho nó sữa và nửa chảo bánh bột ngô còn thừa sau bữa ăn tối. Dill ăn ngấu nghiến, nhai bằng mấy cái răng cửa theo thói quen của nó.

Cuối cùng tôi có lại tiếng nói: “Mày tới đây bằng cách nào?”

Bằng một đường rắc rối. Sau khi tỉnh táo nhờ thức ăn, Dill kể lại chuyện này: ông bố mới không ưa nó, xích nó rồi bỏ cho chết trong tầng hầm (ở Meridian có tầng hầm), và nó bí mật sống cầm hơi bằng hạt đậu sống của một nông dân đi ngang nghe tiếng nó cầu cứu (người đàn ông tử tế nhét từng hạt đậu hết nguyên một thùng qua lỗ thông gió), Dill tự giải thoát bằng cách bứt tung sợi dây xích ra khỏi bức tường. Cổ tay vẫn đeo xích, nó lang thang hai dặm ra khỏi Meridian, tìm thấy một đoàn nhỏ biểu diễn thú và lập tức được thuê để tắm cho lạc đà. Nó đi với đoàn diễn khắp tiểu bang Mississippi đến khi giác quan bất khả sai lầm của nó về phương hướng bảo nó rằng nó đang ở hạt Abbott, tiểu bang Alabama, bên kia sông là Maycomb. Nó cuốc bộ quãng đường còn lại.

Jem hỏi: “Mày tới đây bằng cách nào?”

Nó đã lấy mười ba đô la trong ví của mẹ nó, bắt chuyến chín giờ ở Meridian rồi xuống Ga Maycomb. Nó đi bộ mười, mười một dặm trên đoạn đường mười bốn dặm tới Maycomb, men theo bụi cây xa đường lớn vì sợ nhà chức trách tìm, rồi bám trên tấm ván sau của chiếc xe chở bông gòn suốt quãng đường còn lại. Nó nghĩ nó đã ở dưới gầm giường suốt hai giờ; nó nghe chúng tôi trong phòng ăn, và tiếng nĩa lách cách trên đĩa làm nó gần muốn điên. Nó nghĩ Jem và tôi sẽ không bao giờ đi ngủ; nó đã định ló ra giúp tôi đánh Jem, vì Jem đã cao lên nhiều, nhưng nó biết ông Finch sẽ dẹp ngay, vì thế nó nghĩ tốt nhất là cứ ở yên chỗ. Nó mệt nhoài, bẩn ngoài sức tưởng tượng, và về đến nhà.

Jem nói: “Họ chắc không biết mày ở đây. Nếu họ đang đi tìm mày thì tụi tao đã biết…”

Dill nhe răng cười: “Chắc họ vẫn đang lùng tất cả các rạp chiếu xi nê ở Meridian.”

Jem nói: “Mày nên cho má mày biết mày đang ở đâu. Mày nên cho má mày biết mày đang ở đây…”

Mắt Dill nhấp nháy nhìn Jem, và Jem nhìn sàn nhà. Sau đó anh đứng lên vi phạm quy ước cuối cùng của thời thơ ấu chúng tôi. Anh ra khỏi phòng rồi xuống hành lang. Giọng anh xa xôi: “Atticus, ba vào đây một chút được không, thưa ba?”

Mặt Dill trắng bệch dưới lớp bụi bẩn lem luốc mồ hôi. Tôi cảm thấy buồn nôn. Atticus ở ngưỡng cửa.

Ông tiến tới đứng giữa phòng, tay trong túi, nhìn xuống Dill.

Cuối cùng tôi thốt nên lời: “Không sao đâu, Dill. Khi ổng muốn mày biết cái gì thì ổng nói cho mày nghe.”

Dill nhìn tôi. Tôi nói: “Ý tao nói là không sao đâu. Mày biết ổng sẽ không làm phiền mày, mày biết mày hổng sợ Atticus mà.”

Dill lẩm bẩm: “Tao không sợ…”

“Chắc chỉ đói thôi.” Giọng Atticus có vẻ khô khan thú vị thường lệ. “Scout, mình có thể làm khá hơn chảo bánh bột ngô nguội chứ? Con nhồi cho anh chàng này no rồi khi ba quay lại mình sẽ xem sự thể ra sao.”

“Ông Finch, đừng kể cho dì Rachel, đừng bắt cháu quay về, xin ông! Cháu sẽ trốn nữa…!”

Atticus nói: “Úi dà, cậu nhỏ. Không ai sắp bắt cậu đi đâu ngoại trừ sắp bắt đi ngủ. Bác chỉ đi qua nói cho dì Rachel là cháu ở đây và xin phép dì cho cháu ở lại đêm bên này… cháu thích như thế chứ gì? Và trời ơi, trả đất của quận về chỗ của nó đi chứ, đất đã bị xói mòn tệ lắm rồi.”

Dill nhìn đăm đăm dáng cha tôi rút lui.

Tôi nói: “Ổng định giễu. Ổng nói là đi tắm. Thấy chưa, tao đã nói với mày là ổng sẽ không làm phiền mày.”

Jem đang đứng trong góc phòng, trông như một tên phản bội. Anh nói: “Dill, tao phải nói cho ổng. Mày hổng thể trốn ba trăm dặm mà má mày hổng biết.”

Chúng tôi bỏ anh lại không nói một tiếng.

Dill ăn, rồi ăn, rồi ăn. Từ tối hôm qua nó chưa ăn. Nó dùng hết tiền để mua vé lên xe lửa như nó đã làm nhiều lần, tỉnh bơ trò chuyện với ông soát vé, ông ta quen mặt nó, nhưng nó không dám cả gan gợi tới lệ dành cho con nít đi đường xa một mình là nếu mình làm mất tiền thì ông soát vé sẽ cho mình mượn đủ để ăn và cha mình sẽ trả lại ông ta ở cuối chặng đường.

Dill thanh toán hết thức ăn thừa và đang tiến tới lon thịt heo nấu đậu trong tủ thức ăn thì có tiếng Giêê-su-ơơi của cô Rachel vang lên trong hành lang. Nó run như con thỏ.

Nó kiên cường gánh chịu cô trong câu Chờ Tới Khi Dì Dắt Mày Về, Ba Má Mày Lo Muốn Điên, nó khá bình tĩnh trong câu Thói Harris Của Mày Lộ Ra Hết, mỉm cười với câu Chắc Mày Được Ngủ Lại Một Đêm, và đáp lại cái ôm rốt cuộc cô cũng phải ban cho nó.

Atticus đẩy kính đeo mắt lên rồi xoa mặt.

Bác Alexandra nói: “Ba các cháu mệt,” hình như đó là câu nói đầu tiên của bác trong mấy giờ vừa qua. Bác có ở đó, nhưng tôi đoán phần lớn bác chết lặng. “Bây giờ các cháu đi ngủ.”

Chúng tôi để họ ở lại phòng ăn, Atticus vẫn đang lau mặt. Chúng tôi nghe ông khúc khích: “Từ cưỡng hiếp tới làm loạn tới bỏ trốn. Không biết hai giờ nữa sẽ có cái gì.”

Vì sự việc có vẻ kết thúc khá tốt, Dill và tôi quyết định tỏ ra lịch sự với Jem. Vả lại, Dill phải ngủ với Jem vì thế chúng tôi cũng phải nói chuyện với anh.

Tôi mặc quần áo ngủ, đọc một lát rồi bỗng thấy mình không mở nổi mắt. Dill và Jem đã im lặng; dưới ngạch cửa phòng Jem không còn vệt sáng khi tôi tắt ngọn đèn đọc sách của mình.

Tôi chắc đã ngủ một giấc dài, vì căn phòng mờ tối dưới ánh trăng tàn khi tôi bị lay dậy.

“Nhích qua, Scout.”

Tôi lầm bầm: “Anh ấy nghĩ anh ấy phải nói. Đừng giận anh ấy nữa.”

Dill leo lên giường nằm cạnh tôi. Nó nói: “Tao đâu có giận. Tao chỉ muốn nằm ngủ với mày. Mày thức chưa?”

Lúc này tôi đã thức, nhưng quá lờ đờ. “Tại sao mày làm vậy?”

Không có tiếng trả lời. “Tao hỏi tại sao mày bỏ trốn? Ổng có thật đáng ghét như mày nói không?”

“Không…”

“Hổng phải nhà mày đóng chiếc ghe như mày viết trong thư hả?”

“Ổng chỉ nói mình sẽ đóng. Tụi tao hổng bao giờ làm.”

Tôi chống khuỷu tay nâng mình lên, nhìn vẻ mặt Dill. “Đó đâu phải lý do để bỏ trốn. Họ hổng thu xếp làm được chuyện họ nói họ sẽ làm là thường…”

“Hổng phải vậy, ổng… họ chỉ hổng để ý tới tao.”

Đây là lý do quái đản nhất để bỏ trốn mà tôi từng nghe. “Sao vậy?”

“Ồ, họ đi vắng suốt ngày, rồi ngay cả khi họ về nhà, họ bỏ vô buồng với nhau.”

“Họ làm gì trong buồng?”

“Hổng làm gì, chỉ ngồi đọc… nhưng họ hổng muốn có mặt tao.”

Tôi đẩy cái gối lên tấm ván đầu giường rồi ngồi dậy. “Mày biết không? Tối nay tao định bỏ trốn vì họ lúc nào cũng ở bên cạnh. Mày hổng muốn họ ở loanh quanh bên mày hoài, Dill…”

Dill thở ra một tiếng nhẫn nại, gần như thở dài.

“… thôi ngủ, Atticus đi suốt ngày, đôi khi đi nửa buổi tối và ở lại quốc hội mà tao hổng biết… mày hổng muốn họ ở loanh quanh bên mày hoài, Dill, mày hổng làm được gì nếu có họ bên cạnh.”

“Không phải như vậy.”

Khi Dill giải thích, tôi thấy mình tự hỏi cuộc sống sẽ ra sao nếu Jem khác đi, ngay cả khác với anh bây giờ; tôi sẽ làm gì nếu Atticus không cảm thấy cần sự hiện diện, giúp đỡ và lời khuyên của tôi. Sao nhỉ, ông không thể xoay xở một ngày mà không có tôi. Ngay cả Calpurnia cũng không thể xoay xở nếu tôi không có mặt. Họ cần tôi.

“Dill, mày nói với tao không đúng… ba má mày không thể xoay xở mà không có mày. Họ chắc là chỉ khó với mày. Cho mày biết chuyện đó phải làm sao…”

Giọng Dill tiếp tục đều đều trong bóng tối: “Sự thể là, tao đang định nói là… họ xoay xở khá hơn nhiều nếu không có tao, tao không giúp họ được gì. Họ không khó. Họ mua cho tao mọi thứ tao muốn, nhưng là bây-giờ-mày-có-rồi-thì-đi-chơi-với-nó. Mày có một phòng đầy đồ. Mua-cho-con-cuốn-sách-đó-rồi-thì-con-đọc-đi.” Dill cố trầm giọng. “Mày không phải con trai. Tụi con trai ra ngoài chơi bóng chày với mấy thằng khác, tụi nó hổng lẩn quẩn quanh nhà lo cho ba má tụi nó.”

Giọng Dill trở lại bình thường: “Ồ, họ không khó. Họ hôn mày, ôm mày trước lúc đi ngủ và lúc sáng thức dậy, và bái bai và nói họ thương mày… Scout, mình kiếm một em bé đi.”

“Ở đâu?”

Dill đã nghe tới một ông có chiếc ghe chèo ra đảo sương mù nơi mấy em bé này sống; mình có thể đặt mua một đứa…

“Nói láo. Bác gái nói Chúa thả tụi nó xuống ống khói. Ít ra tao nghĩ bác ấy nói vậy.” Lần đó cách nói của bác không rõ lắm.

“Ồ, hổng phải vậy. Mày có em bé với nhau. Nhưng còn có ông đó… ổng có sẵn hết mấy đứa em bé chỉ chờ gọi thức dậy, ổng thổi sự sống cho tụi nó…”

Dill lại im. Những thứ xinh đẹp trôi bồng bềnh trong cái đầu mơ mộng của nó. Nó có thể đọc hai cuốn sách trong khi tôi đọc được một cuốn, nhưng nó thích điều huyền bí trong những bịa đặt của chính nó hơn. Nó có thể cộng trừ nhanh như chớp, nhưng nó thích thế giới mờ ảo của chính nó hơn, một thế giới nơi các em bé ngủ, chờ được thu lượm như hoa huệ buổi sáng. Nó nói chầm chậm để tự đưa vào giấc ngủ và dẫn tôi theo với nó, nhưng trong sự tĩnh mịch trên hòn đảo sương mù của nó nổi lên hình ảnh mờ nhạt của căn nhà xám có các cánh cửa nâu buồn.

“Dill?”

“Hưm?”

“Mày nghĩ tại sao Boo Radley không bao giờ bỏ trốn?”

Dill thở dài thật dài rồi quay lưng lại tôi.

“Có lẽ ổng hổng có chỗ nào để trốn đi…”

 

 

 

 

 

 

15

 

Sau nhiều cú điện thoại, rất nhiều lần thỉnh cầu nhân danh bị cáo và một lá thư tha thứ dài của má nó, sự vụ được quyết định là Dill được ở lại. Chúng tôi có một tuần yên ổn bên nhau. Sau đó hình như ít yên ổn. Một cơn ác mộng đang lơ lửng trên đầu chúng tôi.

Sự việc bắt đầu vào một tối sau bữa ăn. Dill qua chơi; bác Alexandra ngồi trên ghế của bác trong góc, Atticus trên ghế của ông; Jem và tôi đọc sách trên sàn nhà. Tuần lễ ấy bình yên: tôi đã nghe lời bác; Jem đã lớn hơn cái nhà trên cây, nhưng anh giúp Dill và tôi làm cái thang dây mới cho nó; Dill đã nghĩ ra một kế chắc chắn nhử được Boo Radley ra mà tụi tôi không tốn kém gì (nhỏ giọt một đường nước chanh từ cửa sau tới sân trước rồi hắn sẽ đi theo, như con kiến). Cửa trước có tiếng gõ, Jem ra mở và nói có ông Heck Tate.

Atticus nói: “Ôi dào, mời ông ấy vào.”

“Con mời rồi. Ngoài sân có mấy ông nữa, họ muốn ba ra.”

Ở Maycomb chỉ có hai lý do để người lớn đứng trong sân trước nhà: chết và chính trị. Tôi tự hỏi ai chết. Jem và tôi đi tới cửa trước, nhưng Atticus bảo: “Vào lại trong nhà.”

Jem tắt đèn phòng khách rồi dí mũi lên lưới cửa sổ. Bác Alexandra phản đối. Anh nói: “Một chút thôi bác, xem họ là ai.”

Dill và tôi chiếm một cửa sổ khác. Một đám các ông đang đứng vây quanh Atticus. Hình như tất cả đồng loạt nói.

Ông Tate đang nói: “… ngày mai chuyển nó qua nhà tù quận hạt. Tôi không muốn có rắc rối, nhưng không bảo đảm là không có…”

Atticus nói: “Đừng vớ vẩn, Heck. Đây là Maycomb.”

“… đã nói tôi chỉ hơi bận tâm.”

Atticus nói: “Heck, mình đã xin hoãn vụ này một lần chỉ để bảo đảm là khỏi có gì bận tâm. Hôm nay thứ Bảy. Chắc là thứ Hai toà xử. Ông giữ anh ta một đêm được chứ? Tôi không nghĩ ở Maycomb có ai ganh tị với tôi vì tôi có một thân chủ trong thời buổi khó khăn này.”

Có tiếng xì xào vui vẻ, rồi chợt tắt ngang khi ông Link Deas nói: “Không ai quanh đây định làm trò gì, tôi chỉ ngại tụi ở Old Sarum… ông không thể xin… xin cái gì hả, Heck?”

Ông Tate nói: “Di lý[92]. Bây giờ đâu có tích sự gì phải không?”

Atticus nói gì không rõ. Tôi quay sang Jem, anh ra hiệu cho tôi im.

Atticus đang nói: “… vả lại, ông đâu có sợ đám đó, phải không?”

“… biết tụi nó ra sao khi tụi nó xỉn.”

Atticus nói: “Chúa nhật họ thường không nhậu nhẹt, họ đi nhà thờ gần như cả ngày…”

Có người nói: “Nhưng đây là một ca đặc biệt…”

Họ xì xào bàn tán đến khi bác gái nói nếu Jem không bật đèn phòng khách thì anh làm xấu mặt gia đình. Jem không nghe bác nói.

Ông Link Deas đang nói: “… không hiểu tại sao ông lại dính vào làm gì. Vụ này ông chỉ có thua, Atticus. Tôi nói là hết mọi mặt.”

“Ông thật sự nghĩ thế à?”

Đó là câu hỏi nguy hiểm của Atticus. “Con thật sự nghĩ con muốn đi nước cờ đó hả Scout?” Cốp, cốp, cốp, và bàn cờ đam sạch quân của tôi. “Con thật sự nghĩ thế à? Vậy thì đọc cái này.” Jem sẽ vất vả hết buổi tối đọc các bài diễn văn của Henry W. Grady[93].

Giọng Atticus đều đều: “Link, anh chàng đó có thể lên ghế điện, nhưng anh ta sẽ không lãnh án trước khi sự thật được phơi bày. Và ông biết sự thật thế nào.”

Có tiếng thì thầm giữa nhóm người, tình hình đáng ngại hơn khi Atticus lùi về bậc thềm thấp nhất trước nhà và họ tiến sát lại ông.

Thình lình Jem gọi lớn: “Atticus, điện thoại!”

Bọn họ hơi giật mình rồi tản ra; họ là những người chúng tôi gặp hằng ngày: nhà buôn, nông dân trong thị trấn, bác sĩ Reynolds và cả ông Avery.

Atticus gọi: “Ồ, con trả lời đi.”

Tiếng cười làm họ giải tán. Khi Atticus bật ngọn đèn trần trong phòng khách, ông thấy Jem ở cửa sổ, tái xanh ngoại trừ vết hồng của lưới cửa trên mũi anh.

Ông hỏi: “Tại sao mọi người ngồi trong bóng tối vậy nè?”

Jem nhìn ông ngồi xuống ghế nhặt tờ báo buổi chiều. Đôi khi tôi nghĩ Atticus bình thản đánh giá mọi khủng hoảng trong đời ông phía sau tờ Mobile Register, Birmingham NewsMontgomery Advertiser.

“Họ truy ba phải không?” Jem đi tới ông. “Họ muốn dí ba à?”

Atticus hạ thấp tờ báo rồi đăm đăm nhìn anh. Ông hỏi: “Con đang đọc gì vậy?” Rồi ông nhỏ nhẹ nói: “Không đâu con, mấy người đó là bạn mình.”

“Không phải… băng đảng?” Jem liếc qua đuôi mắt.

Atticus cố nén nụ cười mỉm mà không được. “Không, mình không có bọn du thủ du thực và những thứ vớ vẩn đó ở Maycomb. Ba chưa từng nghe nói tới băng đảng nào ở Maycomb.”

“Có lần Ku Klux[94] làm khó người Công giáo.”

Atticus nói: “Ba cũng chưa hề nghe nói có người Công giáo nào ở Maycomb, con lẫn lộn việc đó với thứ khác. Tận từ hồi 1920 có một nhóm Klan, nhưng đó là một tổ chức chính trị thì đúng hơn. Vả lại, họ chẳng tìm được ai để doạ. Một đêm họ diễn hành qua nhà ông Sam Levy, nhưng Sam cứ đứng trên hiên nhà và bảo họ là chuyện đã đi tới chỗ đáng buồn, ông ấy đã bán cho họ đúng tấm vải họ khoác trên lưng. Sam làm họ tự thấy ngượng đến nỗi họ bỏ đi.”

Gia đình Levy đáp ứng mọi tiêu chuẩn là Người Tốt: họ làm hết sức theo khả năng phán đoán của họ, và họ sống trên cùng mảnh đất ở Maycomb đã năm thế hệ.

Atticus nói: “Ku Klux tan rồi. Nó sẽ không bao giờ trở lại.”

Tôi tiễn Dill về và quay lại đúng lúc nghe lỏm được Atticus đang nói với bác gái, “… ủng hộ nữ giới miền Nam như mọi người, nhưng không gìn giữ cái vờ vĩnh lịch thiệp bằng sinh mệnh con người,” một lời tuyên bố làm tôi ngờ rằng họ lại đang bẳn gắt.

Tôi đi tìm Jem và thấy anh trong phòng của anh, đang trầm ngâm suy nghĩ trên giường. Tôi hỏi: “Họ nhắng lên đấy à?”

“Đại khái vậy. Bác sẽ không để ổng yên về vụ Tom Robinson. Bác gần như nói Atticus làm xấu hổ gia đình. Scout… tao sợ.”

“Sợ cái gì?”

“Sợ cho Atticus. Người ta có thể làm hại ổng.” Jem thích giữ vẻ bí ẩn; trước các câu hỏi của tôi, anh chỉ nói đi chỗ khác để anh yên.

Hôm sau là Chúa nhật. Trong thời gian giữa lớp giáo lý và lễ nhà thờ, giáo đoàn đi dạo cho giãn gân cốt, tôi thấy Atticus đứng trong sân với một nhóm các ông khác. Ông Heck Tate có mặt, tôi tự hỏi phải chăng ông đã theo đạo. Ông chả bao giờ đi nhà thờ. Ngay cả ông Underwood cũng ở đó. Ông Underwood chẳng dính với tổ chức nào, trừ tờ Maycomb Tribune mà ông độc quyền là chủ nhân, biên tập viên và thợ in. Cả ngày ông ở với cái máy sắp chữ, thỉnh thoảng ông giải khát bằng bình rượu mận bốn lít túc trực bên cạnh. Ông hiếm khi đi săn tin; thiên hạ mang tin đến ông. Họ nói ông chế biến mọi số báo Maycomb Tribune trong đầu rồi viết xuống bằng máy sắp chữ. Điều này đáng tin. Phải có gì ghê lắm mới lôi ông Underwood ra ngoài được.

Tôi đón Atticus lúc đang đi vào cửa, ông nói họ đã chuyển Tom Robinson đến nhà tù Maycomb. Ông cũng nói, với chính ông hơn là với tôi, rằng nếu họ giữ anh ta ở đó ngay từ đầu thì đã không có nhắng nhít gì. Tôi nhìn ông ngồi ở hàng ghế thứ ba từ trên xuống, và nghe ông ngân trầm “Gần với Người hơn, Chúa của tôi”[95], chậm vài nốt sau tất cả mọi người. Ông không bao giờ ngồi với bác gái, Jem và tôi. Ông thích ngồi một mình trong nhà thờ.

Sự yên bình giả tạo bao trùm những ngày Chúa nhật càng khó chịu hơn vì sự hiện diện của bác Alexandra. Atticus trốn ra văn phòng ngay sau bữa ăn, nếu đôi khi chúng tôi ghé nhìn vào sẽ thấy ông đang ngồi đọc, dựa lưng trên cái ghế xoay. Bác Alexandra ngủ trưa hai tiếng và cấm chúng tôi làm bất cứ tiếng ồn nào trong sân, láng giềng đang nghỉ ngơi. Jem trong tuổi cụ già của anh đã đem vào phòng một chồng tạp chí bóng bầu dục. Vì thế ngày Chúa nhật Dill và tôi luồn lách trong Bãi Nai.

Chúa nhật cấm bắn súng, vì thế Dill và tôi đá trái banh bầu dục của Jem quanh bãi cỏ một lúc, chẳng thú vị gì. Dill hỏi tôi có muốn chọc Boo Radley không. Tôi nói tôi nghĩ không nên quấy rầy ông ta, và cả buổi chiều tôi kể lại cho Dill nghe các biến cố hồi mùa đông vừa qua. Nó thích lắm.

Chúng tôi chia tay lúc ăn tối. Sau bữa ăn, khi Jem và tôi sinh hoạt như thường lệ mỗi tối, Atticus làm một điều khiến chúng tôi chú ý: ông vào phòng khách cầm theo sợi dây điện dài. Đầu dây lắp bóng đèn.

Ông nói: “Ba ra ngoài một lát. Khi ba về thì các con đã đi ngủ rồi, vì vậy bây giờ ba chúc các con ngủ ngon.”

Nói xong ông đội mũ rồi đi ra cửa sau.

Jem nói: “Ổng lái xe đi.”

Cha chúng tôi có vài thói lạ: một là ông chẳng bao giờ ăn tráng miệng; một thói nữa là ông thích đi bộ. Từ nhỏ tôi đã thấy nơi nhà xe lúc nào cũng có chiếc Chevrolet trong tình trạng hoàn hảo, và Atticus lái nó biết bao dặm đường mỗi khi có việc đi xa, nhưng ở Maycomb ông cuốc bộ tới văn phòng, mỗi ngày bốn bận cả đi lẫn về khoảng hai dặm. Ông nói môn thể dục duy nhất của ông là đi bộ. Ở Maycomb, nếu ai đi bộ mà không có mục đích nhất định trong đầu thì có thể tin rằng đầu người đó không thể có mục đích nhất định.

Lát sau, tôi chào bác với anh để đi ngủ, và đang cắm cúi đọc sách thì nghe Jem lục đục bên phòng anh. Tiếng lục đục lên giường ngủ của anh quá quen thuộc với tôi tới nỗi tôi gõ cửa: “Sao anh hổng đi ngủ?”

“Tao xuống phố một lát.” Anh đang thay quần.

“Sao vậy? Gần mười giờ rồi, Jem.”

Anh biết, nhưng anh cứ đi.

“Vậy thì em đi với anh. Nếu anh nói em không được đi thì em vẫn cứ đi, nghe chưa?”

Jem thấy anh sẽ phải cãi nhau với tôi để bắt tôi ở nhà, và tôi cho rằng anh nghĩ một trận cãi nhau sẽ làm bác bực mình, vì thế anh miễn cưỡng chịu thua.

Tôi mặc quần áo thật nhanh. Chúng tôi đợi tới khi đèn phòng bác tắt, rồi im lặng đi xuống bậc thềm sau nhà. Tối nay trời không trăng.

Tôi thì thầm: “Dill muốn đi.”

Jem rầu rĩ nói: “Thì nó đi.”

Chúng tôi nhảy qua bức tường bên cạnh lối xe ra vào, cắt qua sân bên hông nhà cô Rachel rồi đi tới cửa sổ phòng Dill. Jem huýt sáo tiếng chim cút. Mặt Dill xuất hiện ở cửa lưới, biến mất, năm phút sau nó mở then cửa lưới rón rén đi ra. Là một kẻ lõi đời từng trải, nó không nói gì cho đến khi chúng tôi ra tới vỉa hè. “Chuyện gì vậy?”

“Jem đi ngó quanh,” một tật mà Calpurnia nói tất cả tụi con trai ở tuổi anh đều mắc phải.

Jem nói: “Tao có cảm giác này, có cảm giác này.”

Chúng tôi đi ngang nhà bà Dubose, vắng vẻ, cửa chớp đóng kín, các bụi hoa trà của bà mọc chen lẫn cỏ dại và cỏ miến. Còn thêm tám căn nữa sẽ đến góc bưu điện.

Mạn phía nam quảng trường hoang vắng. Các bụi cây gai khổng lồ tua tủa nhánh trên mỗi góc quảng trường, giữa các bụi cây có thanh sắt buộc ngựa lấp lánh dưới ánh đèn đường. Một ngọn đèn rọi sáng trong nhà vệ sinh của quận hạt, nếu không phía bên kia trụ sở toà án sẽ bị tối. Các cửa hiệu nằm trên hình vuông lớn hơn vây quanh quảng trường toà án; đèn sáng lờ mờ tít bên trong các cửa hàng.

Hồi Atticus mới hành nghề luật sư, văn phòng ông bên trong trụ sở toà án, nhưng vài năm sau ông dọn qua khu yên tĩnh hơn trong toà nhà Ngân hàng Maycomb. Khi quẹo qua góc quảng trường, chúng tôi thấy chiếc xe đậu trước ngân hàng. Jem nói: “Ổng ở trong đó.”

Nhưng ông không có ở đó. Một hành lang dài dẫn đến văn phòng của ông. Nhìn theo hành lang, chúng tôi lẽ ra phải thấy hàng chữ nhỏ nghiêm chỉnh Atticus Finch, Luật sư hiện trên ánh đèn sau cánh cửa phòng ông. Căn phòng tối đen.

Jem nhìn vào cửa ngân hàng để biết chắc. Anh xoay nắm cửa. Cửa khoá. “Mình lên mạn trên. Có lẽ ổng tới thăm ông Underwood.”

Ông Underwood không chỉ điều hành toà soạn tờ Maycomb Tribune, ông còn sống ở đó. Ở tầng trên. Ông tường thuật tin toà án và nhà tù bằng cách chỉ nhìn ra cửa sổ tầng trên của ông. Toà soạn nằm trên góc tây bắc quảng trường, và để đến đó chúng tôi phải đi ngang nhà tù.

Nhà tù Maycomb là toà nhà oai vệ và ghê gớm nhất của quận hạt. Atticus nói trông nó như do cụ cố Joshua St. Clair thiết kế. Nó đúng là mơ tưởng của ai đó. Hoàn toàn lạc lõng giữa một thị trấn có các cửa hiệu mặt tiền vuông vắn và những căn nhà mái dốc, nhà tù Maycomb là hình ảnh lố bịch của kiến trúc Gothic thu nhỏ, ngang một gian và cao hai tầng, với đầy đủ tường phòng thủ có lỗ châu mai nhỏ xíu và giàn cột bên ngoài chống đỡ nhà. Nét quái dị của nó tăng thêm nhờ mặt tiền gạch đỏ và những song sắt lớn ở dãy cửa sổ kiểu nhà thờ. Nó chẳng đứng trên ngọn đồi đơn độc nào, mà chen giữa tiệm Đồ Gia dụng Tyndal và toà soạn Maycomb Tribune. Nhà tù là chuyện duy nhất để nói ở Maycomb: người gièm pha nói nó giống nhà xí thời Victoria[96], người ủng hộ nói nó cho thị trấn một vẻ đáng kính vững bền, và người lạ biết chắc nó nhốt đầy đám mọi đen.

Khi bước ra vỉa hè lên mạn trên, chúng tôi thấy một ngọn đèn đơn độc cháy sáng đằng xa. Jem nói: “Lạ thật, nhà tù đâu có đèn bên ngoài.”

Dill nói: “Hình như đèn trên cánh cửa.”

Một sợi dây điện dài chạy giữa các song sắt cửa sổ tầng hai xuống bên hông toà nhà. Dưới ánh sáng của cái bóng đèn trơ trụi, Atticus đang ngồi gác chân lên cửa trước. Ông ngồi trên một trong những chiếc ghế của văn phòng ông, và ông đang đọc, mặc kệ những con bọ đêm đang bay lượn trên đầu.

Tôi định chạy đến, nhưng Jem giữ tôi lại. Anh nói: “Đừng tới ổng, ổng có thể không thích. Ổng yên ổn, tụi mình về. Tao chỉ muốn thấy ổng đang ở đâu.”

Khi chúng tôi đi chéo qua quảng trường, bốn chiếc xe hơi bụi bặm từ hướng xa lộ Meridian chạy vào chầm chậm theo một hàng. Họ đi vòng quảng trường, ngang qua toà nhà ngân hàng, rồi ngừng trước nhà tù.

Không ai bước ra. Chúng tôi thấy Atticus ngước khỏi tờ báo. Ông xếp báo lại, gấp thong thả, buông nó xuống đùi, rồi đẩy mũ ra sau gáy. Hình như ông đang đợi họ.

Jem thì thầm: “Nhanh lên.” Chúng tôi lẻn nhanh qua quảng trường, băng qua đường, đến khi đứng khuất sau cánh cửa siêu thị Jitney Jungle. Jem lén nhìn dọc vỉa hè. Anh nói: “Mình tới gần hơn được.” Chúng tôi chạy đến cửa tiệm Đồ Gia dụng Tyndal – vừa đủ gần, vừa kín đáo.

Từng người hoặc hai người lần lượt ra khỏi xe. Những cái bóng trở thành vật thật khi ánh đèn cho thấy các hình khối di chuyển tới cửa nhà tù. Atticus vẫn ở yên chỗ. Họ che khuất ông.

Một ông nói: “Nó trong đó à, ông Finch?”

Chúng tôi nghe Atticus trả lời: “Ừ, anh ta đang ngủ. Đừng đánh thức anh ta.”

Tuân lời cha tôi, những người đàn ông nói gần như thì thầm, về sau tôi nhận thấy đó là khía cạnh hài hước đến buồn nôn của một tình huống không thể cười.

Một ông khác nói: “Ông biết chúng tôi muốn gì. Tránh ra khỏi cánh cửa đi, ông Finch.”

Atticus vui vẻ nói: “Ông quay lại rồi về nhà đi, Walter. Heck Tate đang loanh quanh đâu đây.”

Một ông khác nói: “Mặc xác hắn. Bọn Heck vô tuốt trong rừng tới sáng mới ra.”

“Thật à? Tại sao vậy?”

Câu trả lời ngắn gọn: “Gọi bọn họ đi săn phượng hoàng rồi[97]. Ông không nghĩ ra à, ông Finch?”

“Có nghĩ tới, nhưng không tin. Ồ vậy thì,” giọng cha tôi vẫn như cũ, “sự việc đổi khác rồi, phải không?”

Một giọng trầm nói: “Khác rồi.” Chủ nhân giọng nói đó là cái bóng.

“Ông nghĩ thế thật à?”

Đây là lần thứ hai trong hai ngày tôi nghe Atticus hỏi câu đó, và nó có nghĩa là một người nào đó sẽ phải ngạc nhiên. Chuyện này quá hay không nên bỏ lỡ. Tôi vùng ra khỏi Jem rồi chạy thật nhanh đến Atticus.

Jem hét lên và định nắm tôi lại, nhưng tôi đã chạy trước anh và Dill. Tôi chen qua những thân người hôi nồng rồi xông vào giữa vòng ánh sáng.

“Hê, Atticus.”

Tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên thích thú, nhưng vẻ mặt ông dập tắt niềm vui của tôi. Một thoáng sợ hãi rõ rệt hiện trên mắt ông, nhưng tĩnh lại khi Dill và Jem len lỏi vào chỗ sáng.

Mùi rượu chua và mùi chuồng heo thoang thoảng, và khi liếc quanh tôi thấy các ông này là người lạ. Họ không phải là những người tôi đã thấy tối hôm qua. Tôi hết sức ngượng nghịu vì đã đắc thắng nhảy vào một vòng người mà trước kia tôi chưa từng gặp.

Atticus đứng lên khỏi ghế, nhưng ông cử động chậm, như một ông già. Ông đặt tờ báo xuống rất cẩn thận, các ngón tay nấn ná vuốt những nếp gấp. Các ngón hơi run.

Ông nói: “Về nhà đi, Jem. Dắt Scout với Dill về.”

Chúng tôi đã quen lập tức nghe lời Atticus, dù không luôn luôn vui vẻ, nhưng cách đứng của Jem cho thấy anh không định nhúc nhích.

“Ba bảo về nhà đi.”

Jem lắc đầu. Khi nắm tay Atticus chống lên hông, Jem cũng chống nạnh, và khi họ đối diện nhau tôi thấy họ ít giống nhau: cặp mắt và mái tóc nâu mềm, khuôn mặt trái xoan và vành tai ép sát của Jem giống mẹ chúng tôi, trái ngược một cách kỳ lạ với mái tóc xám bạc và nét mặt chữ điền của Atticus, nhưng họ có nét hao hao giống nhau. Thách thức nhau làm họ giống nhau.

“Con, ba bảo đi về.”

Jem lắc đầu.

“Tôi sẽ bắt nó về,” một ông lực lưỡng nói, rồi thô bạo nắm cổ áo Jem. Ông ta giật Jem suýt ngã.

Tôi đá ông ta chớp nhoáng. “Ông không được đụng tới anh ấy!” Đi chân trần, tôi ngạc nhiên thấy ông ta lùi lại với vẻ đau đớn thật sự. Tôi định đá ống chân ông, nhưng nhắm quá cao.

“Đủ rồi, Scout.” Atticus đặt tay lên vai tôi. “Đừng đá người ta. Đừng…” ông nói khi tôi định bào chữa.

Tôi nói: “Đừng ai đối xử với Jem kiểu đó.”

Một người nào đó càu nhàu: “Thôi được, ông Finch, bảo chúng ra khỏi chỗ này. Ông có mười lăm giây để bảo chúng ra khỏi chỗ này.”

Đứng giữa nhóm người lạ lùng này, Atticus cố bảo Jem nghe lời ông. Atticus đe doạ, rồi yêu cầu, rồi cuối cùng là: “Jem, làm ơn đưa chúng nó về.” Câu trả lời kiên quyết của Jem là: “Con không đi.”

Tôi thấy hơi mệt khi nghĩ đến hậu quả Jem sẽ nhận một khi Atticus bắt được anh về nhà, nhưng cảm thấy Jem có lý do riêng để làm như đang làm. Tôi nhìn quanh đám đông. Đêm hè, nhưng hầu hết các ông này đều mặc bộ áo liền quần và sơ mi vải dày cài cúc lên tới cổ. Tôi nghĩ chắc họ bị lạnh bẩm sinh, vì cánh tay áo họ không xắn lên mà cài cúc ở cổ tay. Vài người đội mũ kéo chặt xuống phủ tai. Họ đều có vẻ lầm lì, mắt ngái ngủ, hình như không quen thức khuya. Tôi lại tìm một khuôn mặt quen thuộc, và thấy một ông ở giữa vòng bán nguyệt.

“Hê, ông Cunningham.”

Người đàn ông hình như không nghe thấy tôi.

“Hê, ông Cunningham. Vụ thừa kế của ông thế nào rồi?”

Tôi biết rõ vụ việc pháp lý của ông Walter Cunningham; Atticus có lần đã mô tả nó kỹ lưỡng. Người đàn ông to lớn chớp mắt rồi móc ngón tay cái lên quai áo của ông. Hình như ông bứt rứt; ông hắng giọng và ngoảnh mặt đi. Lời mở đầu làm quen của tôi thảm bại.

Ông Cunningham không đội mũ, nửa cái trán phía trên trắng bệch trái ngược với khuôn mặt cháy nắng làm tôi tin rằng gần như ngày nào ông cũng đội mũ. Chân ông bồn chồn trong đôi giày lao động nặng trịch.

“Ông không nhớ cháu à, ông Cunningham? Cháu là Jean Louise Finch. Ông có nhớ một lần ông mang hạt hạnh cho bọn cháu không?” Tôi bắt đầu cảm thấy hão huyền khi bị một người tình cờ quen không nhận ra được mình.

Tôi lại mở lời: “Cháu học cùng với thằng Walter. Nó là con ông phải không? Phải không, thưa ông?”

Ông Cunningham khẽ gật đầu. Rốt cuộc ông biết tôi.

Tôi nói: “Nó học cùng lớp với cháu, nó học khá. Nó là thằng tốt,” tôi nói thêm, “một thằng thật tốt. Một lần tụi cháu rủ nó về nhà ăn trưa. Có thể nó đã kể cho ông về cháu, một lần cháu đánh nó te tua nhưng nó thật không để bụng. Cho cháu gửi lời chào nó, ông nhé?”

Atticus đã nói rằng người lịch sự nói với người khác về điều họ quan tâm, chứ đừng nói về điều mình thích. Ông Cunningham không tỏ ra quan tâm tới thằng con ông, vì thế tôi lại cố nhào vô vụ thừa kế của ông một lần nữa trong nỗ lực cuối cùng để làm ông cảm thấy thoải mái.

“Mấy vụ thừa kế không khá,” tôi cố vấn cho ông, khi tôi dần dần nhận ra là mình đang nói cho cả đám. Tất cả các ông đều nhìn tôi, có ông hơi há miệng. Atticus đã không thúc giục Jem nữa: cả hai cùng đứng bên cạnh Dill. Họ chú ý tới mức mê hoặc. Thậm chí miệng Atticus hơi há, một thái độ mà ông có lần mô tả là thô kệch. Chúng tôi nhìn nhau, và ông nhắm mắt lại.

“Ồ, Atticus, con vừa mới bảo ông Cunningham là mấy vụ thừa kế là dở tệ dở hại, nhưng ba nói đừng lo, đôi khi lâu mới xong… ba với ổng rồi sẽ giải quyết được…” Tôi im dần, tự hỏi mình đã phạm điều gì ngu ngốc. Mấy vụ thừa kế hình như chỉ nên nói trong phòng khách.

Tôi bắt đầu cảm thấy toát mồ hôi ở chân tóc; tôi có thể chịu đựng bất cứ điều gì ngoại trừ một đống người nhìn mình. Họ hoàn toàn im lặng.

Tôi hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Atticus không nói gì. Tôi ngó quanh rồi ngước lên ông Cunningham, mặt ông cũng dửng dưng tương tự. Rồi ông làm một điều lạ lùng. Ông ngồi xổm xuống nắm lấy hai vai tôi.

Ông nói: “Thưa cô, tôi sẽ bảo nó là cô gửi lời chào.”

Rồi ông đứng thẳng lên vẫy bàn tay to lớn. Ông gọi: “Giải tán. Đi thôi, tụi bay.”

Giống như khi họ đến, từng người hoặc hai người lần lượt chui lên mấy chiếc xe ọp ẹp của họ. Cửa đóng, máy khục khặc, và họ ra đi.

Tôi quay lại Atticus, nhưng Atticus đã đi tới dựa vào nhà tù, mặt ông đối diện vách tường. Tôi đi đến kéo tay áo ông: “Bây giờ bọn con về nhà được chưa?” Ông gật đầu, lấy khăn tay ra lau khắp mặt và xì mũi dữ dội.

“Ông Finch?”

Một giọng khàn nhỏ từ bóng tối trên cao vọng ra: “Họ đi rồi à?”

Atticus bước lùi lại rồi ngước lên. Ông nói: “Họ đi rồi. Ngủ đi, Tom. Họ không quấy rầy anh nữa đâu.”

Từ hướng khác, một giọng khác cắt gọn qua màn đêm: “Mẹ kiếp, tụi nó không quậy nữa đâu. Theo ông nãy giờ đây, Atticus.”

Ông Underwood với khẩu súng săn hai nòng chồm ra ngoài cửa sổ trên lầu toà soạn Maycomb Tribune.

Lúc ấy quá giờ đi ngủ của tôi đã lâu và tôi rất mệt; hình như Atticus và ông Underwood sẽ nói chuyện cả đêm, ông Underwood trên cửa sổ nói xuống, Atticus đứng dưới nói lên. Cuối cùng Atticus quay lại, tắt ngọn đèn trên cánh cửa nhà tù, rồi cầm cái ghế của ông lên.

Dill hỏi: “Cháu khiêng nó cho ông được không, ông Finch?” Suốt cả buổi nó chưa nói một tiếng nào.

“Ồ, cám ơn cháu.”

Đi bộ về văn phòng, Dill với tôi theo sau Atticus và Jem. Dill vướng víu với cái ghế, bước đi của nó chậm lại. Atticus và Jem đã xa phía trước chúng tôi, tôi đoán Atticus đang mắng anh một trận thậm tệ vì không chịu về, nhưng tôi lầm. Khi chúng tôi đi dưới ngọn đèn đường, Atticus đưa tay lên xoa tóc Jem, một cử chỉ trìu mến của ông.

 

 

 

 

 

16

 

Jem nghe tiếng tôi. Anh thò đầu qua cánh cửa thông. Lúc anh đến bên giường tôi, đèn phòng Atticus loé lên. Chúng tôi ở yên tại chỗ cho đến khi đèn tắt, nghe ông trở mình, và đợi đến khi ông im trở lại.

Jem đưa tôi qua phòng anh, đặt tôi lên giường nằm cạnh anh. Anh nói: “Cố ngủ đi. Có thể ngày mai sẽ hết.”

Chúng tôi đã lặng lẽ vào nhà để đừng đánh thức bác. Atticus tắt máy xe trên lối vào rồi thả cho nó theo trớn tới nhà để xe; chúng tôi vào bằng cửa sau và về phòng mình không ai nói một lời. Tôi mệt lắm, đang bồng bềnh vào giấc ngủ thì hình ảnh Atticus điềm tĩnh gấp tờ báo rồi đẩy mũ ra sau biến thành Atticus đứng giữa một con đường hoang vắng đợi chờ, đẩy kính đeo mắt lên. Toàn bộ ý nghĩa của các biến cố đêm nay bỗng trở nên rõ ràng, và tôi bắt đầu khóc. Jem tử tế khủng khiếp, vì lần này anh không nhắc tôi là đứa gần chín tuổi không làm những điều như vậy.

Sáng nay mọi người ăn nhỏ nhẻ, trừ Jem: anh xơi hết ba quả trứng. Atticus nhìn với vẻ khâm phục lộ rõ; bác Alexandra nhấm nháp cà phê và toát ra từng hồi chê trách. Trẻ con lẻn ra khỏi nhà ban đêm là điều xấu hổ cho gia đình. Atticus nói ông rất mừng là mấy đứa xấu hổ của ông đã đi với ông, nhưng bác nói: “Vớ vẩn, ông Underwood lúc nào chẳng ở đó.”

Atticus nói: “Chị biết không, Braxton thật buồn cười. Ông ấy khinh người da đen, không để người nào lại gần ông ấy.”

Dư luận địa phương cho rằng ông Underwood là một gã nhỏ bé vô đạo, bẳn gắt, cha ông trong một cơn cợt nhả đã đặt tên ông là Braxton Bragg[98], cái tên mà ông Underwood đã hết sức sống khác đi. Atticus nói những người có tên giống các ông tướng Nam quân đều nhậu tì tì.

Calpurnia đang rót thêm cà phê cho bác Alexandra, bà lắc đầu trước cái nhìn tôi nghĩ là khẩn nài đầy thuyết phục của mình. Bà bảo: “Cô còn nhỏ quá. Khi nào cô lớn tôi sẽ cho.” Tôi nói cà phê có thể làm bao tử của tôi êm lại. Bà nói: “Thôi được,” rồi lấy một cái tách trong tủ bát đĩa ra. Bà đổ một thìa cà phê vào tách, rồi rót đầy sữa lên tới miệng tách. Tôi cám ơn bà bằng cách thè lưỡi vào tách, và ngước lên bắt gặp bác đang cau mày cảnh cáo. Nhưng bác cau mày với Atticus.

Bác đợi đến khi Calpurnia vào bếp rồi nói: “Đừng nói như vậy trước mặt họ.”

Ông hỏi: “Nói cái gì trước ai?”

“Nói như vậy trước Calpurnia. Cậu nói Braxton Underwood khinh người da đen ngay trước bà ấy.”

“Ồ, em chắc chắn Cal biết. Mọi người ở Maycomb biết.”

Tôi bắt đầu nhận thấy dạo này cha tôi có sự thay đổi tế nhị khi ông nói chuyện với bác Alexandra. Nó là sự khó chịu chôn kín, không bao giờ lộ thẳng ra. Giọng ông có vẻ hơi khô cứng khi ông nói: “Bất cứ cái gì có thể nói ở bàn đều có thể nói trước Calpurnia. Bà ấy biết bà ấy là gì đối với gia đình này.”

“Tôi không nghĩ đó là thói quen tốt, Atticus. Nó khuyến khích họ. Cậu biết họ nói với nhau thế nào. Mọi thứ xảy ra trong thị trấn này đều ra tới khu da đen trước khi mặt trời lặn.”

Cha tôi đặt con dao xuống. “Em không biết có luật nào cấm họ không được nói. Có lẽ nếu mình đừng làm quá nhiều điều để họ nói thì họ sẽ im. Sao con không uống cà phê của con đi, Scout?”

Tôi đang chơi với cái muỗng trong tách cà phê. “Con tưởng ông Cunningham là bạn mình. Hồi trước ba nói ông ấy là bạn.”

“Ông ấy vẫn là bạn.”

“Nhưng tối hôm qua ông ấy định hại ba.”

Atticus đặt cái nĩa xuống bên cạnh con dao rồi đẩy đĩa thức ăn của ông qua một bên. Ông nói: “Ông Cunningham căn bản là người tốt, ông ấy cũng có những chỗ mà ông ấy không thấy rõ cũng giống như mình.”

Jem nói: “Đâu phải là không thấy rõ. Tối hôm qua lúc vừa đến đó ông ấy định giết ba.”

Atticus công nhận: “Ông ấy có thể đụng chạm ba chút ít, nhưng con à, khi con lớn hơn con sẽ hiểu thiên hạ thêm một chút. Dù gì đi nữa, một đám hỗn tạp nào cũng gồm có nhiều người. Ông Cunningham là một thành phần của đám hỗn tạp tối hôm qua, nhưng ông ấy vẫn là một người. Mọi đám hỗn tạp trong mọi thị trấn nhỏ ở miền Nam đều có những người mà con biết – đám hỗn tạp không hẳn là họ, phải không?”

Jem nói: “Con đồng ý.”

Atticus nói: “Vậy thì cần một đứa nhỏ tám tuổi để họ tỉnh táo lại, đúng không? Điều đó chứng tỏ một điều… là có thể chặn một đàn thú hoang lại, chỉ vì họ vẫn là người. Hừm, có lẽ mình cần một lực lượng con nít làm cảnh sát… các con tối hôm qua đã khiến cho Walter Cunningham đứng vào vị thế của ba trong chốc lát. Thế là đủ rồi.”

Ôi dào, tôi hy vọng Jem sẽ hiểu thiên hạ khá hơn một chút khi anh lớn hơn; tôi thì không. Tôi quả quyết: “Ngày đầu tiên thằng Walter trở lại trường sẽ là ngày cuối cùng của nó.”

Atticus nói một cách dứt khoát: “Con không đụng tới nó. Ba không muốn cả hai đứa mang thù oán gì về vụ này, bất kể chuyện gì xảy ra.”

Bác Alexandra nói: “Cậu thấy không, những việc như thế này còn đi tới đâu nữa. Đừng nói là tôi chưa bảo cậu.”

Atticus nói ông chưa hề nói như vậy, ông đẩy ghế ra rồi đứng lên. “Còn cả một ngày trước mặt, vì thế em xin lỗi phải đi. Jem, ba không muốn hôm nay con với Scout xuống thị trấn, làm ơn nghe lời ba.”

Khi Atticus đi khỏi, Dill lao qua hành lang vào phòng ăn. Nó thông báo: “Sáng nay ầm lên khắp thị trấn, toàn là chuyện làm cách nào tụi mình tay không chận đứng một trăm tên…”

Bác Alexandra nhìn đăm đăm làm nó im. Bác nói: “Không có một trăm tên nào, không có ai chận đứng ai. Chỉ có một đám Cunningham say sưa mất trật tự.”

Jem nói: “À, thưa bác, kiểu nói của Dill như thế thôi.” Anh ra hiệu cho chúng tôi đi theo anh.

“Mấy đứa hôm nay chơi trong sân,” bác nói khi chúng tôi ra hàng hiên phía trước nhà.

Hôm ấy tựa như thứ Bảy. Người từ phía nam quận hạt đi ngang nhà chúng tôi hàng đàn một cách nhàn nhã nhưng liên tục.

Ông Dolphus Raymond ngất ngưởng đi qua trên con ngựa nòi của ông. Jem lẩm bẩm: “Hổng biết làm sao ổng ngồi vững trên yên. Làm sao mà say trước tám giờ sáng được kìa?”

Một chiếc xe ngựa chở đầy các bà lách cách đi qua chúng tôi. Họ đội mũ vải che kín nắng và mặc áo tay dài. Một ông có râu đội mũ len đánh xe. Jem bảo Dill: “Đó là mấy người Mennonite[99]. Áo họ không có cúc.” Họ sống tuốt trong rừng, trao đổi hàng hoá phần lớn với bên kia sông, và hiếm khi tới Maycomb. Dill tỏ ra chú ý. Jem giải thích: “Mắt bọn họ màu xanh, đàn ông không được cạo râu sau khi lấy vợ. Vợ họ thích được họ cù bằng râu.”

Ông X Billups cưỡi con la đi qua vẫy chúng tôi. Jem nói: “Ổng là một ông rất buồn cười. X là tên của ổng, hổng phải tên viết tắt. Một lần ổng ra toà, họ hỏi tên ổng. Ổng nói X Billups. Thư ký yêu cầu ổng đánh vần, ổng nói X. Hỏi ổng lần nữa, ổng nói X. Họ cứ gặng hỏi tới khi ổng viết chữ X lên tờ giấy rồi giơ lên cho mọi người coi. Họ hỏi ổng lấy đâu ra cái tên đó, ổng nói ba má ổng đăng ký cho ổng như vậy lúc ổng mới ra đời.”

Khi cả hạt diễn qua chúng tôi, Jem kể cho Dill tiểu sử và lập trường tổng quát của các nhân vật nổi bật: ông Tensaw Jones chỉ bỏ phiếu cho ứng cử viên đảng Cấm Rượu[100]; cô Emily Davis kín đáo hít thuốc lá bột; ông Byron Waller biết chơi vĩ cầm; ông Jake Slade đang làm hàm răng giả thứ ba của ông.

Một chiếc xe chở đầy những công dân mặt mũi nghiêm nghị khác thường xuất hiện. Khi họ chỉ mảnh sân nở rực hoa mùa hè của cô Maudie Atkinson, đích thân cô Maudie bước ra hàng hiên. Cô Maudie có một điểm lạ - hiên nhà cô quá xa nên chúng tôi không thấy rõ nét mặt cô, nhưng chúng tôi luôn luôn bắt được tâm trạng cô qua cách cô đứng. Lúc này cô đang đứng khuỳnh tay chống nạnh, vai hơi khòm, đầu nghiêng một bên, mắt kính cô lấp lánh dưới ánh nắng. Chúng tôi biết cô đang nhe răng cười hết sức độc địa.

Ông đánh xe ghìm mấy con la chậm lại, một bà có giọng the thé gọi ra: “Kẻ nào đến trong phù hoa sẽ ra đi trong tăm tối!”[101]

Cô Maudie đáp: “Lòng mừng vui tạo sắc mặt thắm tươi.”[102]

Tôi đoán những tín đồ phái rửa chân nghĩ rằng Quỷ sứ đang trích Kinh Thánh với ý đồ riêng, vì ông đánh xe thúc mấy con la đi nhanh. Tại sao họ chê trách mảnh vườn của cô Maudie là một điều bí ẩn, bí ẩn đó càng tăng lên trong trí tôi vì cô Maudie suốt ngày ở ngoài trời nhưng lại thông thạo Kinh Thánh ghê gớm.

Chúng tôi thả bộ qua. Jem hỏi: “Sáng nay cô có ra toà án không?”

Cô nói: “Không. Sáng nay cô chẳng có việc gì ở toà án.”

Dill hỏi: “Cô không đến xem à?”

“Không. Xem một kẻ khốn khổ bị đem sinh mạng ra phán xử là làm điều bệnh hoạn. Nhìn mấy người đó kìa, giống như ngày hội La Mã[103].”

Tôi nói: “Cô Maudie, họ phải xử ông ấy công khai. Nếu không thì không đúng.”

Cô nói: “Cô biết lắm chứ. Chính vì xử công khai nên cô không phải đi, đúng không?”

Cô Stephanie Crawford ghé qua. Cô đội mũ, đeo găng. Cô nói: “Ư, ư, ư. Xem đám người đó kìa… làm mình nghĩ William Jennings Bryan[104] đang diễn thuyết.”

Cô Maudie hỏi: “Còn chị đang định đi đâu, Stephanie?”

“Đến siêu thị Jitney Jungle.”

Cô Maudie nói cô chưa bao giờ thấy cô Stephanie đội mũ để đi tới Jitney Jungle trong đời cô.

Cô Stephanie nói: “Ồ, tôi nghĩ tôi có thể ngó qua toà án, để xem Atticus định làm gì.”

“Cẩn thận đừng để ông ấy đưa chị cái trát hầu toà.”

Chúng tôi xin cô Maudie giải thích: cô nói cô Stephanie hình như biết nhiều về vụ án này tới nỗi cô ấy cũng có thể bị gọi ra làm chứng.

Chúng tôi nán chờ đến trưa. Atticus về ăn và nói họ mất cả buổi sáng để chọn bồi thẩm đoàn. Sau bữa ăn trưa, chúng tôi ghé qua tìm Dill rồi đi ra thị trấn.

Thị trấn như vào dịp hội hè. Thanh buộc thú ở nơi công cộng không còn chỗ cho con thú nào nữa, bầy la và xe chuyên chở đã đứng dưới mọi gốc cây ở đó. Quảng trường toà án đầy các nhóm lót báo ngồi ăn bánh mứt, uống sữa ấm rót từ các bình nước trái cây. Một số người gặm thịt gà và sườn heo rán đã nguội lạnh. Người khá giả hơn lùa thức ăn bằng Coca-Cola trong chai nước ngọt hình bóng đèn mua trong hiệu tạp hoá. Bọn con nít mặt mày lem luốc chơi trò đứt-roi-ngựa[105] giữa đám đông, và tụi em bé đang bú vú mẹ.

Ở một góc xa của quảng trường, những người da đen ngồi im lặng dưới nắng, ăn cá mòi, bánh quy giòn, và uống Nehi Cola[106] mùi vị hấp dẫn hơn. Ông Dolphus Raymond ngồi với họ.

Dill nói: “Jem, ổng đang uống bằng cái bao.”

Hình như ông Dolphus Raymond đang làm như thế: hai ống hút màu vàng của hiệu tạp hoá từ miệng ông thò sâu xuống bao giấy nâu.

Dill lẩm bẩm: “Chưa từng thấy ai uống như vậy.”

“Làm sao ổng đựng cái gì trong đó mà khỏi chảy ra được?”

Jem cười khúc khích: “Ổng có chai Co-Cola đầy rượu trong đó. Làm vậy để khỏi làm các bà khó chịu. Mày sẽ thấy ổng nhấm nháp suốt buổi chiều, thỉnh thoảng ổng ra ngoài một lát để châm cho nó đầy.”

“Tại sao ổng ngồi với người da màu?”

“Lúc nào cũng vậy. Tao đoán ổng thích họ hơn ổng thích tụi mình. Ổng sống một mình tuốt dưới sát ranh giới quận hạt. Ổng có một bà da màu với đủ thứ con tạp chủng. Nếu thấy đứa nào tao sẽ chỉ cho mày.”

Dill nói: “Ổng đâu có vẻ gì rác rưới.”

“Đâu có, ổng làm chủ hết một bên bờ sông dưới đó, ổng dòng dõi một gia đình lâu đời lắm chứ đâu có giỡn.”

“Vậy thì tại sao ổng lại làm như vậy?”

Jem nói: “Kiểu của ổng như vậy thôi. Họ nói ổng không bao giờ quên được bữa đám cưới của ổng. Đáng lẽ ổng cưới một trong mấy… tao nghĩ là mấy bà nhà Spencer. Họ sửa soạn làm đám cưới linh đình, nhưng không thành… sau buổi tập thử cô dâu lên lầu rồi tự bắn bể đầu. Súng đạn ghém. Cô dâu dùng ngón chân kéo cò súng.”

“Họ có biết tại sao không?”

Jem nói: “Không, không ai biết rõ tại sao trừ ông Dolphus. Họ nói vì cô dâu biết ra là ổng có bà da màu, ổng nghĩ ổng vừa có thể giữ bà ta vừa cưới vợ. Từ dạo đó về sau ổng cứ say lơ mơ. Nhưng mày nên biết ổng rất tốt với tụi nhỏ đó…”

Tôi hỏi: “Jem, con nít tạp chủng là gì?”

“Nửa trắng, nửa màu. Mày gặp tụi nó rồi, Scout. Mày biết đứa tóc quăn đỏ giao hàng cho hiệu tạp hoá. Nó nửa trắng. Bọn họ thật đáng buồn.”

“Buồn, sao vậy?”

“Họ không thuộc về nơi nào. Dân da màu không tiếp họ vì họ nửa trắng; dân da trắng không tiếp họ vì họ da màu, vì vậy họ cứ lửng lơ, không thuộc về nơi nào. Trừ ông Dolphus, bây giờ thiên hạ nói ổng gửi hai đứa con của ổng lên miền Bắc. Trên miền Bắc người ta không nề hà. Đằng kia có một đứa kìa.”

Một thằng nhỏ nắm chặt tay một bà da đen đi về phía chúng tôi. Tôi thấy nó hoàn toàn đen: nó màu sô cô la đậm, mũi to phập phồng và hàm răng đẹp. Thỉnh thoảng nó nhảy chân sáo một cách thích thú, và bà da đen kéo tay để nó ngừng lại.

Jem chờ họ đi khỏi, anh nói: “Nó là một đứa trong đám nhỏ.”

Dill hỏi: “Làm sao mày biết? Tao thấy nó đen.”

“Đôi khi mày không biết, trừ phi mày biết tụi nó là ai. Nó rõ ràng có nửa dòng máu Raymond.”

Tôi hỏi: “Nhưng làm sao anh biết?”

“Tao đã nói rồi, Scout, mày phải biết họ là ai vậy thôi.”

“Ồ, làm sao anh biết mình hổng phải là người da đen?”

“Chú Jack Finch nói mình thật sự không biết. Chú nói truy ngược nguồn gốc dòng họ Finch tới mức chú đã làm thì mình hổng phải là da đen, nhưng theo những gì chú biết thì mình có thể từ Ethiopia đi ra hồi thời Cựu ước[107].”

“Ồ, nếu mình đi ra từ hồi Cựu ước thì lâu quá rồi đâu còn đáng kể gì nữa.”

Jem nói: “Tao cũng nghĩ như vậy, nhưng quanh đây nếu mày có một giọt máu da đen thì mày hoàn toàn là đen. Ê, coi kìa…”

Một dấu hiệu vô hình nào đó đã khiến những người đang ăn trưa trên quảng trường đứng lên làm rơi rớt mấy mảnh báo, giấy bóng kính và giấy gói. Trẻ con đến bên mẹ, em bé bế lên hông, trong khi các ông đội mũ hoen ố mồ hôi gom góp gia đình để lùa qua các cánh cửa toà án. Trên góc xa của quảng trường, người da đen và ông Dolphus Raymond đứng lên phủi bụi trên quần họ. Trong số họ ít có phụ nữ và trẻ con, vì thế có vẻ làm mất đi tâm trạng ngày lễ. Họ nhẫn nại chờ ở các cánh cửa phía sau những gia đình da trắng.

Dill nói: “Mình vào.”

Jem nói: “Đừng, mình nên chờ cho họ vào, Atticus có thể không thích nếu ổng thấy tụi mình.”

Trụ sở toà án hạt Maycomb gợi nhớ xa xôi đến toà nhà Arlington[108] ở một khía cạnh: các cột bê tông đỡ mái nhà phía nam quá kiên cố so với trọng tải nhẹ mà nó chịu. Các cột này là tàn tích còn sót lại sau khi trụ sở toà án nguyên thủy bị cháy năm 1856. Một toà án khác xây quanh mấy cây cột đó. Nói đúng hơn, xây không đếm xỉa tới nó. Ở hiên phía nam, toà án hạt Maycomb có kiểu dáng thời kỳ đầu Victoria, và từ phía bắc nhìn vào không bị chướng mắt. Tuy nhiên, nhìn từ mặt bên kia thì hàng cột giả kiểu Hy Lạp[109] mâu thuẫn chan chát với cái tháp đồng hồ lớn kiểu thế kỷ mười chín, bên trong chứa một bộ máy rỉ sét không thể tin cậy, hình ảnh thể hiện lòng kiên quyết của một nhóm người muốn giữ gìn mọi mảnh vụn vật chất của quá khứ.

Để lên được phòng xử trên tầng hai phải đi qua nhiều buồng nhỏ tạp nhạp thiếu nắng của quận hạt: ông thẩm định thuế, ông thu thuế, thư ký quận, cố vấn pháp luật quận, thư ký toà lưu động, trọng tài tranh tụng di sản sống trong các ngăn tối lạnh có mùi sổ sách lưu trữ mục nát trộn lẫn mùi xi măng cũ ẩm ướt và mùi nước tiểu ngai ngái. Ban ngày phải bật đèn; trên sàn gỗ thô ráp luôn có một lớp bụi. Những người trong các văn phòng này là sản phẩm của môi trường họ sống: những ông nhỏ bé mặt tai tái, hình như họ không bị nắng gió chạm đến.

Chúng tôi biết có đông người, nhưng không ngờ tới số đông trong hành lang tầng một. Tôi bị tách khỏi Jem và Dill, nhưng len được tới vách tường bên cạnh cầu thang, biết Jem rốt cuộc sẽ đến tìm mình. Tôi thấy mình lạc giữa Câu lạc bộ Ngồi không và cố hết sức giữ mình đừng bị để ý. Họ là một nhóm các ông già sơ mi trắng, quần kaki có dây đeo lên vai, cả đời chẳng làm gì và trải qua ngày cùng tháng tận của họ cũng chẳng làm gì trên mấy băng ghế gỗ thông dưới các cây sồi trong quảng trường. Họ là những người chí thú phê bình việc toà, Atticus nói họ giỏi luật như Chủ tịch Tối cao Pháp viện nhờ nhiều năm quan sát. Bình thường họ là khán giả duy nhất trong toà, hôm nay họ có vẻ bực bội vì thói phong lưu mọi ngày của họ bị xâm phạm. Khi họ nói, giọng họ có vẻ quan trọng một cách bâng quơ. Họ nói về cha tôi.

Một người nói: “… nghĩ hắn biết hắn làm gì.”

Một người khác nói: “Ôi dào, tôi không nói thế. Atticus Finch là một đứa đọc kỹ, một đứa đọc kỹ ghê gớm.”

“Ừ thì hắn đọc, hắn chỉ có đọc.” Cả hội cười khẩy.

Người thứ ba nói: “Để tui nói cho ông điều này, Billy, ông biết không, toà chỉ định hắn biện hộ cho đứa da đen này.”

“Ừ, nhưng Atticus có ý biện hộ cho nó. Đó là lý do tôi không thích.”

Tin này mới, nó rọi một ánh sáng khác lên sự kiện: Atticus phải biện hộ, dù ông muốn hay không. Tôi nghĩ lạ lùng là ông đã không nói gì với chúng tôi về điều này – lẽ ra nhiều bận chúng tôi đã có thể dùng sự kiện này để biện hộ cho ông và cho chúng tôi. Ông bị bắt phải làm, đó là tại sao ông làm, như thế sẽ ít đánh nhau và ít cãi cọ hơn. Nhưng điều đó có giải thích được thái độ của thị trấn không? Toà chỉ định Atticus biện hộ cho anh ta. Atticus có ý biện hộ cho anh ta. Vì thế họ không thích. Thật rối trí.

Sau khi chờ cho dân da trắng lên lầu, người da đen bắt đầu tiến vào. Một hội viên câu lạc bộ giơ cây nạng lên nói: “Ê, khoan đã. Khoan cho tụi nó lên cầu thang đã.”

Câu lạc bộ bắt đầu lết khớp xương ngay đơ leo lên, họ đụng Dill với Jem đang trên đường xuống tìm tôi. Hai đứa chen qua, Jem gọi: “Scout, nhanh lên, hết ghế rồi. Mình phải đứng.”

Anh cáu kỉnh nói khi người da đen tràn lên lầu: “Coi kìa.” Các ông già phía trước sẽ lấy hết chỗ đứng. Jem bảo chúng tôi xui xẻo vì lỗi tại tôi. Chúng tôi đứng khổ sở sát vách tường.

“Các cô cậu không vào được à?”

Mục sư Sykes nhìn xuống chúng tôi, tay ông cầm cái nón đen.

Jem nói: “Chào mục sư. Không vào được, con Scout này làm hỏng chuyện của bọn cháu.”

“Ôi dào, để xem mình có thể làm gì được.”

Mục sư Sykes chen lên lầu. Lát sau ông trở lại. “Dưới lầu hết chỗ ngồi. Các cô cậu có nghĩ là ổn nếu các cô cậu lên ban công với tôi không?”

Jem nói: “Chao ơi, ổn chứ.” Mừng rỡ, chúng tôi chạy trước mục sư Sykes vào phòng xử. Từ đó chúng tôi lên lồng cầu thang che kín rồi đợi ở cửa. Mục sư Sykes hổn hển tới sau và từ tốn dắt chúng tôi qua những người da đen trên ban công. Bốn người da đen đứng lên nhường chỗ ngồi ở hàng đầu cho chúng tôi.

Ban công dành cho người da màu chạy dọc ba bức tường phòng xử tựa như hành lang tầng hai, từ đó chúng tôi có thể thấy hết mọi thứ.

Bồi thẩm đoàn ngồi bên trái, dưới hàng cửa sổ dài. Sạm nắng, gầy gò, họ hình như đều là nông dân, nhưng điều này bình thường: dân thị trấn ít khi ngồi ghế bồi thẩm, họ hoặc là bị gạt ra hoặc là được miễn. Một hai bồi thẩm viên trông hao hao giống người nhà Cunningham ăn mặc chỉnh tề. Lúc này họ ngồi thẳng và dáo dác.

Công tố viên lưu động với một ông nữa, Atticus với Tom Robinson ngồi ở hai bàn quay lưng lại chúng tôi. Một cuốn sách nâu và vài tập giấy vàng trên bàn công tố viên; bàn Atticus trống trơn.

Ngay bên trong rào chắn ngăn cách khán giả với toà, các nhân chứng ngồi trên mấy cái ghế lót nệm da bò. Họ quay lưng lại chúng tôi.

Thẩm phán Taylor trên ghế quan toà, trông như con cá mập già ngái ngủ, con cá phụ tá của ông đang viết nhanh bên dưới phía trước ông. Thẩm phán Taylor trông giống hầu hết các quan toà tôi đã gặp: tử tế, tóc bạc, mặt hơi hồng hào, ông chủ toạ phiên toà theo kiểu tùy tiện một cách đáng ngại – đôi khi ông gác chân lên, ông thường cạy móng tay bằng con dao bỏ túi. Trong những phiên đối chất dài, nhất là sau bữa ăn, ông tỏ ra ngủ gật, ấn tượng này vĩnh viễn bị xoá tan khi có lần một luật sư cố tình đẩy chồng sách rơi xuống sàn trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm đánh thức ông. Không mở mắt, thẩm phán Taylor lẩm bẩm: “Ông Whitley, làm như vậy một lần nữa thì ông sẽ tốn một trăm đô.”

Ông là người uyên bác về luật pháp, và tuy có vẻ hững hờ với công việc, nhưng thực tế ông nắm vững mọi vụ kiện đưa đến ông. Duy nhất một lần thẩm phán Taylor bị thấy hoàn toàn bế tắc trong phiên xử công khai, lần đó nhà Cunningham làm ông kẹt. Old Sarum là chỗ nhà Cunningham lui tới từ lâu đời, ngay từ đầu ở đó có hai gia đình sống riêng rẽ và tách biệt, nhưng không may lại mang cùng họ. Người nhà Cunningham cưới người nhà Coningham đến khi cách đánh vần tên họ trở nên trừu tượng – trừu tượng cho tới khi một ông Cunningham cãi nhau với một ông Coningham về bằng khoán đất và đưa ra pháp luật. Trong cuộc tranh cãi về ký tự này, Jeems Cunningham khai rằng mẹ ông đã viết là Cunningham trên bằng khoán và văn bản, nhưng bà thật ra là Coningham, bà viết chính tả không thông, ít đọc, và đôi khi ban đêm bà ngồi trên hành lang trước nhà thẫn thờ nhìn xa xăm. Sau chín tiếng lắng nghe những tật quái đản của cư dân Old Sarum, thẩm phán Taylor bác đơn kiện. Khi được hỏi dựa trên cơ sở nào, thẩm phán Taylor nói “thông đồng kiện tụng,”[110] và tuyên bố ông cầu xin Chúa là bọn kiện cáo đã thoả mãn vì mỗi phe đã được nói phần mình trước công chúng. Họ thoả mãn. Ngay từ đầu họ chỉ muốn nói.

Thẩm phán Taylor có một thói quen thú vị. Ông cho phép hút thuốc trong phòng xử của ông, nhưng chính ông không hút: đôi khi nếu ai may mắn thì sẽ được đặc ân thấy ông gắn điếu xì gà dài không đốt lên miệng rồi nhóp nhép nhai lên dần. Từng chút từng chút điếu xì gà không châm lửa biến mất, rồi vài giờ sau tái xuất hiện thành một miếng nhớp nhúa phẳng lì bóng nhẫy, tinh chất của nó đã bị rút ra và trộn lẫn với dịch vị của thẩm phán Taylor. Có lần tôi hỏi Atticus làm sao bà Taylor chịu hôn ông, nhưng Atticus nói họ chẳng mấy khi hôn.

Bục nhân chứng bên phải thẩm phán Taylor, và khi chúng tôi đến được chỗ ngồi của mình thì ông Heck Tate đã ở trên bục.

 

 

 

 

 

17

 

Tôi hỏi: “Jem, có phải người nhà Ewell ngồi dưới kia không?”

Jem nói: “Im đi, ông Heck Tate đang làm chứng.”

Ông Tate mặc áo quần chỉnh tề cho dịp này. Ông khoác bộ áo vét bình thường làm ông có vẻ hơi giống mọi người: không còn đôi ủng cao, cái áo khoác thợ rừng, và dây thắt lưng dắt đạn. Từ phút đó ông hết còn làm tôi sợ nữa. Ông đang ngồi chồm người tới trên ghế nhân chứng, bàn tay ông kẹp giữa hai đầu gối, chăm chú lắng nghe công tố viên lưu động.

Công tố viên là một ông Gilmer mà chúng tôi không biết rõ lắm. Ông từ Abbottsville đến. Chúng tôi chỉ gặp ông khi toà triệu tập, và hiếm khi gặp, vì Jem và tôi không chú ý lắm đến việc toà. Ông hói đầu, mày râu nhẵn nhụi, có thể từ bốn mươi đến sáu mươi tuổi. Dù ông quay lưng lại, chúng tôi biết ông hơi lé một mắt và ông dùng nó như một lợi thế: ông ra vẻ đang nhìn một người trong khi thật ra ông đâu có nhìn, vì thế ông là ác mộng đối với bồi thẩm đoàn và nhân chứng. Bồi thẩm đoàn nghĩ họ đang bị dò xét nên họ chăm chú, nhân chứng cũng nghĩ thế.

Ông Gilmer đang nói: “… bằng lời của chính ông, ông Tate.”

Ông Tate sờ kính và nói với đầu gối: “Ồ, tôi bị gọi…”

“Ông có thể nói với bồi thẩm đoàn được không, ông Tate? Cám ơn ông. Ai gọi ông?”

Ông Tate nói: “Bob gọi tôi… ông Bob Ewell đằng kia, một đêm…”

“Đêm nào, thưa ông?”

Ông Tate nói: “Đêm hai mươi mốt tháng Mười Một. Tôi sắp sửa rời văn phòng để về nhà thì B… ông Ewell vào, ông ấy bị kích động lắm, nói đến nhà ông ấy nhanh, có đứa mọi đen hiếp con gái ông ta.”

“Ông có đi không?”

“Đi chứ. Lên xe tôi phóng lẹ hết sức.”

“Rồi ông thấy gì?”

“Thấy cô ta đang nằm giữa sàn nhà trong phòng đầu tiên, phòng bên phải lúc ông đi vào. Cô ta bị đánh khá nặng, nhưng tôi kéo cô ta đứng lên, rồi cô ta rửa mặt ở cái chậu trong góc nhà rồi nói cô ta chẳng sao cả. Tôi hỏi ai làm hại cô thì cô ta nói là Tom Robinson…”

Thẩm phán Taylor đang chăm chú mấy móng tay của ông, liền nhìn lên như thể ông chờ một lời phản đối, nhưng Atticus im lặng.

“… hỏi cô ta là hắn có đánh cô như vậy không, cô ta nói có hắn có đánh. Hỏi cô ta là hắn có lợi dụng cô không, cô ta nói có hắn có. Vì thế tôi xuống nhà Robinson đem anh ta tới. Cô ta xác nhận là đúng anh ta, vì vậy tôi nhốt anh ta. Tất cả sự việc là như vậy.”

Ông Gilmer nói: “Cám ơn ông.”

Thẩm phán Taylor nói: “Có câu hỏi nào không, Atticus?”

Cha tôi nói: “Có.” Ông đang ngồi sau bàn, ghế ông lệch qua một bên, chân ông vắt tréo, một cánh tay gác trên lưng ghế.

Atticus hỏi: “Ông có gọi bác sĩ không, ông cảnh sát trưởng? Có ai gọi bác sĩ không?”

Ông Tate nói: “Không, thưa ông.”

“Không gọi bác sĩ à?”

Ông Tate lặp lại: “Không, thưa ông.”

“Tại sao không?” Giọng Atticus có một chút gắt gỏng.

“Ôi dào, tôi có thể nói cho ông tại sao tôi không gọi. Vì không cần, ông Finch. Cô ta bị đánh nặng lắm. Phải có chuyện gì xảy ra, rõ quá mà.”

“Nhưng ông không gọi bác sĩ? Trong khi ông ở đó có ai mời bác sĩ, đi tìm bác sĩ, đem cô ta tới bác sĩ không?”

“Không, thưa ông…”

Thẩm phán Taylor xen vào. “Anh ấy trả lời câu hỏi ba lần rồi, Atticus. Anh ấy không gọi bác sĩ.”

Atticus nói: “Tôi chỉ muốn biết chắc thôi, thưa thẩm phán,” và ông toà mỉm cười.

Bàn tay Jem đang dựa trên lan can ban công, anh nắm chặt lấy nó. Bỗng dưng anh hít sâu một hơi. Liếc xuống dưới, tôi chẳng thấy có phản ứng nào tương ứng, và tự hỏi phải chăng Jem đang cố làm bộ làm tịch. Dill đang bình thản nhìn, và mục sư Sykes bên cạnh nó cũng thế.

Tôi thì thào: “Cái gì vậy?” và nhận được một tiếng “Suỵt!” cộc lốc.

Atticus đang nói: “Ông cảnh sát trưởng, ông nói cô ấy bị đánh nặng. Nặng thế nào?”

“À…”

“Cứ tả các vết thương của cô ấy đi, Heck.”

“À, cô ta bị đánh trên mặt. Có mấy vết bầm hiện ra trên hai cánh tay cô ta, nó xảy ra khoảng ba mươi phút trước…”

“Làm sao ông biết?”

Ông Tate nhe răng cười. “Xin lỗi, họ nói như vậy. Dù sao đi nữa, cô ta đã khá bầm dập lúc tôi tới đó, một con mắt cô ta bầm đen.”

“Mắt nào?”

Ông Tate chớp mắt rồi đưa tay vò tóc. Ông nói nhỏ: “Xem nào,” rồi nhìn Atticus như thể ông nghĩ câu hỏi là trẻ con.

Atticus hỏi: “Ông không nhớ à?”

Ông Tate chỉ một người vô hình trước mặt ông một gang tay và nói: “Bên trái cô ta.”

Atticus nói: “Khoan đã, ông cảnh sát trưởng. Bên trái cô ta đối diện ông, hay bên trái cô ta nhìn cùng phía với ông?”

Ông Tate nói: “Ồ đúng, như vậy là bên phải của cô ta. Con mắt bên phải của cô ta, ông Finch. Bây giờ tôi nhớ rồi, mặt cô ta bị đánh sưng bên phía đó...”

Ông Tate lại chớp mắt, như thể sự việc bỗng dưng rõ ràng đối với ông. Khi ấy ông quay đầu nhìn qua Tom Robinson. Như có linh tính, Tom Robinson ngẩng đầu lên.

Sự việc cũng đã rõ ràng đối với Atticus, và nó làm ông đứng lên. “Ông cảnh sát trưởng, làm ơn lặp lại điều ông đã nói.”

“Tôi nói là con mắt bên phải của cô ta.”

“Không…” Atticus bước tới bàn của thư ký toà rồi cúi xuống bàn tay đang nguệch ngoạc lia lịa. Bàn tay ngừng, lật ngược lại tập giấy ghi tốc ký, và người thư ký toà đọc: “Ông Finch. Bây giờ tôi nhớ rồi, mặt cô ta bị đánh sưng bên phía đó.”

Atticus ngó lên ông Tate: “Nói lại là bên nào, Heck?”

“Bên phải, ông Finch, nhưng cô ta có nhiều vết bầm khác, ông muốn nghe không?”

Atticus hình như sắp hỏi một câu khác, nhưng ông nghĩ kỹ lại rồi nói: “Ừ, các vết thương khác của cô ấy là gì?” Khi ông Tate trả lời, Atticus quay lại nhìn Tom Robinson như để nói đây là điều họ đã không dự tính.

“… hai cánh tay cô ta bị bầm, cô ta cho tôi xem cổ của cô ta. Rõ ràng có dấu mấy ngón tay trên cổ họng cô ta…”

“Vòng quanh hết cổ cô ấy? Ở sau gáy cô ấy?”

“Tôi cho là vòng quanh hết cả cổ, ông Finch.”

“Ông nói sao?”

“Đúng thưa ông, cổ họng cô ta nhỏ, ai cũng có thể nắm hết…”

Atticus nói khô khốc: “Làm ơn chỉ trả lời câu hỏi là có hay không thôi, ông cảnh sát trưởng,” và ông Tate im lặng.

Atticus ngồi xuống rồi gật đầu với công tố viên lưu động, ông ta lắc đầu với quan toà, quan toà gật đầu với ông Tate, ông khó nhọc đứng lên và bước xuống khỏi bục nhân chứng.

Bên dưới chúng tôi, đầu người xoay, bàn chân cọ xát sàn nhà, em bé được đổi chỗ trên vai, vài đứa nhỏ chạy nhốn nháo ra khỏi phòng xử. Những người da đen phía sau chúng tôi thì thầm nho nhỏ với nhau. Dill hỏi mục sư Sykes mấy chuyện đó để làm gì, nhưng mục sư Sykes nói ông không biết. Cho tới lúc này, sự việc cực kỳ chán: chẳng ai gầm lên, chẳng có tranh cãi gì giữa các luật sư đối nghịch, chẳng có kịch tính. Hình như mọi người hiện diện đều thất vọng não nề. Atticus đang tiến hành một cách từ tốn, như thể ông dính dáng vào một vụ tranh tụng giấy tờ bất động sản. Với khả năng vô tận có thể làm dịu biển cả bão tố, ông có thể làm một vụ cưỡng hiếp trở thành khô khan như bài giảng đạo. Đầu tôi không còn nỗi khủng khiếp của mùi rượu chua và mùi sân nuôi gia súc, của những ông sưng sỉa mắt ngái ngủ, của cái giọng khàn khàn gọi trong đêm “Ông Finch? Họ đi rồi à?” Cơn ác mộng của chúng tôi đã tan theo ánh sáng ban ngày, mọi việc sẽ hoá ra ổn thoả.

Tất cả khán giả đều thơ thới như thẩm phán Taylor, trừ Jem. Miệng anh méo thành nụ cười khẩy đầy ý nghĩa, mắt anh mừng rỡ, anh nói mơ hồ về chứng cớ vững chắc khiến tôi càng tin là anh đang khoác lác.

“… Robert E. Lee Ewell!”

Đáp lại giọng trầm vang của viên thư ký, một ông nhỏ bé như con gà chọi đứng lên khệnh khạng bước tới chỗ cho nhân chứng, gáy ông đỏ ửng lúc nghe gọi tên. Khi ông quay lại tuyên thệ, chúng tôi thấy mặt ông cũng đỏ như cổ ông. Chúng tôi cũng thấy ông chẳng có điểm nào giống với người trùng tên. Lọn tóc bù xù lưa thưa mới gội dựng đứng trên trán ông; mũi ông mỏng, nhọn và bóng; có thể nói ông không có cằm – cái cằm hình như là một phần của cái cổ nhăn nheo.

Ông quang quác: “… xin thề trước Chúa.”

Mọi thị trấn cùng cỡ với Maycomb đều có những gia đình như nhà Ewell. Kinh tế biến động thế nào cũng không thay đổi được tình trạng của họ - những kẻ na ná như nhà Ewell là khách sống nhờ vào quận hạt khi thịnh vượng cũng như khi suy thoái tận cùng. Không cô giám thị nào có thể bắt đàn con đông đúc của họ đi học, không viên chức y tế cộng đồng nào có thể giúp họ tránh khỏi các khuyết tật lúc mới sinh, các loại giun sán và bệnh hoạn phát xuất từ môi trường dơ bẩn.

Nhà Ewell của Maycomb sống sau bãi rác thị trấn, trong căn chòi trước kia của người da đen. Vách ván căn chòi được đóng thêm mấy tấm tôn, mái lợp bằng những lon thiếc đập dẹp, vì thế chỉ có hình dáng tổng quát của nó cho thấy kiểu nhà ban đầu: vuông vức, với bốn phòng nhỏ xíu mở ra một hành lang đi thẳng từ cửa trước ra cửa sau, căn chòi nằm chông chênh trên bốn tảng đá vôi méo mó. Cửa sổ chỉ là các lỗ trống trên vách, mùa hè được che bằng những dải vải thưa mỏng nhơ nhớp để ngăn ruồi bọ sống trên rác của Maycomb khỏi bay vào.

Ruồi bọ chịu đói kém, vì nhà Ewell mót sạch bãi rác mỗi ngày, và thành quả siêng năng của họ (những gì không bị ăn) khiến cho miếng đất xung quanh căn chòi giống như sân chơi của đứa trẻ mất trí: cái gọi là hàng rào là mớ cành cây, cán chổi và cán dụng cụ, tất cả đều gắn đầu búa rỉ sét, đầu cào mẻ răng, xẻng, rìu và cuốc, buộc vào nhau bằng cọng kẽm gai. Bên trong chiến lũy này là mảnh sân bẩn thỉu chứa xác chiếc xe Ford Model-T (đặt trên mấy khúc gỗ)[111], cái ghế nha sĩ vứt đi, cái tủ lạnh cổ lỗ xỉ, cộng thêm những món nhỏ hơn: giày cũ, tủ radio rạc rài, khung ảnh, bình đựng nước trái cây, bên dưới đó là đàn gà màu cam gầy trơ xương mổ hy vọng tìm thức ăn.

Tuy nhiên, một góc sân làm Maycomb ngơ ngác. Dựa theo hàng rào là một hàng sáu cái bô bằng sứ sứt mẻ trồng cây phong lữ nở hoa đỏ rực, được chăm sóc dịu dàng như thể cây của cô Maudie Atkinson, nếu cô Maudie hạ cố cho phép một cây phong lữ trong cơ ngơi cô. Thiên hạ nói đó là cây của Mayella Ewell.

Không ai biết chắc có bao nhiêu đứa con nít ở chỗ đó. Một số người nói là sáu, kẻ khác nói chín; luôn luôn có vài đứa mặt mày dơ bẩn ở cửa sổ khi có ai đi qua. Không ai có dịp ghé tới, trừ khi vào dịp Giáng sinh, khi các nhà thờ đi phát rổ quà, và khi thị trưởng Maycomb yêu cầu chúng tôi vui lòng giúp anh đổ rác bằng cách tự vứt cây và rác của mình.

Giáng sinh năm ngoái Atticus dẫn chúng tôi đi cùng khi ông làm theo lời ông thị trưởng yêu cầu. Một con lộ đất từ đường lớn chạy qua bãi đổ rác, xuống tới một khu nhỏ của người da đen cách nhà Ewell khoảng năm trăm mét. Xe phải chạy lùi lại ra tới đường lớn hoặc đi hết con lộ rồi vòng ra; hầu hết người ta vòng xe ra nơi sân trước nhà người da đen. Vào lúc chập tối tháng Chạp băng giá, các căn chòi của họ gọn gàng ấm cúng với làn khói xanh lam toả trên ống khói lò sưởi, các ô cửa rực màu hổ phách của lò sưởi bên trong. Mùi thơm phảng phất: gà, thịt ba rọi muối rán giòn như bầu không khí nhá nhem. Jem và tôi phát hiện ra mùi thịt sóc, nhưng phải một ông già nhà quê như Atticus mới nhận ra mùi sóc túi và thỏ, mùi thơm biến mất khi chúng tôi lái ngược qua nhà Ewell.

Người đàn ông nhỏ bé ở ghế nhân chứng chỉ có một thứ làm ông ta có chút gì hơn các láng giềng ở gần ông nhất là da ông màu trắng, nếu kỳ cọ bằng xà phòng kiềm với nước thật nóng.

Ông Gilmer hỏi: “Ông Robert Ewell phải không?”

Nhân chứng nói: “Tên tui đó sếp.”

Lưng ông Gilmer hơi sững lại, và tôi cảm thấy tội nghiệp ông. Có lẽ bây giờ tôi nên giải thích một điểm. Tôi đã nghe nói là con cái của luật sư thường hiểu lầm khi thấy ba tụi nó giữa lúc tranh cãi dữ dội trong toà: tụi nó nghĩ luật sư bên đối nghịch có thù hằn cá nhân với cha tụi nó, tụi nó đau khổ, và ngạc nhiên thấy ngay khi toà tạm nghỉ lần đầu tiên, lúc đi ra ngoài, cha tụi nó thường khoác tay kẻ đã làm khổ mình. Jem và tôi không như vậy. Chúng tôi không bị chấn động tâm lý khi thấy cha chúng tôi thắng hay bại. Tôi tiếc rằng mình không thể tỏ ra chút xúc động nào về chuyện đó; nếu tôi xúc động thì không thật. Tuy nhiên, chúng tôi có thể biết khi cuộc tranh cãi trở nên chua cay thay vì trong phạm vi nghề nghiệp, nhưng chúng tôi biết điều này là nhờ quan sát các luật sư khác hơn là từ cha chúng tôi. Trong đời tôi chưa bao giờ nghe Atticus nói lớn tiếng, trừ khi với một nhân chứng điếc. Ông Gilmer làm việc của ông ấy, như Atticus làm việc của mình. Hơn nữa, ông Ewell là nhân chứng của ông Gilmer, vì thế ông lại càng chẳng có việc gì để tỏ ra thô lỗ với ông ta.

Câu hỏi kế tiếp là: “Ông là cha của Mayella Ewell?”

Câu trả lời là: “Ồ, nếu tui hổng phải là tía nó thì bi giờ tui đâu có làm gì được, má nó chết queo rồi.”

Thẩm phán Taylor cựa quậy. Ông quay từ từ trên cái ghế xoay của ông và hiền lành nhìn nhân chứng. Ông hỏi: “Anh có phải là cha của Mayella Ewell không?” theo cách hỏi làm tiếng cười phía dưới chúng tôi bỗng nhiên im bặt.

Ông Ewell rụt rè nói: “Phải, thưa ông.”

Thẩm phán Taylor nói tiếp bằng giọng thông cảm: “Đây là lần đầu tiên anh ra toà phải không? Tôi không nhớ có bao giờ gặp anh ở đây.” Nhân chứng gật đầu xác nhận, ông nói tiếp: “Nào, mình làm rõ một điều. Phòng xử này sẽ không còn nghe một lời bóng gió tục tĩu nào về bất cứ vấn đề gì từ bất cứ ai khi tôi còn ngồi đây. Anh hiểu không?”

Ông Ewell gật, nhưng tôi không nghĩ ông ta hiểu. Thẩm phán Taylor thở dài nói: “Được chứ, ông Gilmer?”

“Cám ơn ông, thưa ông. Ông Ewell, ông làm ơn kể cho chúng tôi bằng lời của chính ông về chuyện gì xảy ra tối hai mươi mốt tháng Mười Một được không?”

Jem nhe răng cười và vuốt ngược tóc. Bằng-lời-của-chính-ông là đặc điểm của ông Gilmer. Chúng tôi thường tự hỏi ông Gilmer sợ nhân chứng của ông có thể dùng lời của ai.

“À, tối hai mươi mốt tháng Mười Một tui khiêng một ôm củi trong rừng về, lúc vừa mới tới hàng rào tui nghe Mayella đang la như con heo bị cắt tiết trong nhà…”

Tới đây thẩm phán Taylor trừng mắt liếc nhân chứng và chắc đã cho rằng câu nói bóng gió của nhân chứng không có ý định xấu nào, vì ông lại chìm vào cơn ngái ngủ.

“Lúc mấy giờ, ông Ewell?”

“Ngay trước khi mặt trời lặn. À, tui đang kể Mayella đang la muốn té ngửa Chúa Giê-su luôn…” một cái liếc nữa từ ghế quan toà làm ông Ewell im bặt.

Ông Gilmer nói: “Thế nào? Cô ấy đang la à?”

Ông Ewell lúng túng nhìn quan toà. “Ồ, Mayella la quá xá trời vì vậy tui buông bó củi chạy hết sức lẹ nhưng tui chạy nhào vô hàng rào, lúc gỡ ra được tui chạy tới cửa sổ thấy…” mặt ông Ewell đỏ tía. Ông đứng lên chỉ ngón tay vào Tom Robinson “…tui thấy thằng mọi đen đằng kia đang nhảy đực con Mayella của tui!”

Phòng xử của thẩm phán Taylor thường lặng yên tới nỗi ông ít có dịp dùng cây búa, nhưng ông đã nện búa đủ năm phút. Atticus đã đứng bên cạnh quan toà và đang nói với ông ấy điều gì, ông Heck Tate trong vai cảnh sát trưởng của hạt đang đứng trên lối đi giữa để chế ngự phòng xử đông nghẹt. Phía sau chúng tôi có tiếng lầm bầm kìm nén tức giận của người da màu.

Mục sư Sykes chồm qua Dill và tôi, kéo tay áo Jem. Ông nói: “Ông Jem, ông nên đưa cô Jean Louise về nhà. Ông Jem, ông nghe tôi không?”

Jem quay đầu nói: “Scout, đi về. Dill, mày với Scout đi về.”

Tôi nói: “Trước tiên anh phải bắt buộc được em cái đã,” tôi nhớ tới lời giao hẹn thiêng liêng của Atticus.

Jem quắc mắt tức giận nhìn tôi, rồi anh nói với mục sư Sykes: “Cháu nghĩ không sao đâu, thưa mục sư, nó không hiểu đâu.”

Tôi cảm thấy bị xúc phạm chí chết. “Chắc chắn em hiểu, em hiểu được hết cái gì anh hiểu.”

“Im đi. Nó không hiểu đâu, thưa mục sư, nó chưa tới chín tuổi.”

Cặp mắt đen của mục sư Sykes tỏ ra lo lắng. “Ông Finch có biết mấy cô cậu ở đây không? Chuyện này không thích hợp với cô Jean Louise cũng như với cả hai cậu.”

Jem lắc đầu. “Ổng không thấy được bọn cháu xa thế này đâu. Không sao đâu, thưa mục sư.”

Tôi biết Jem sẽ thắng, vì tôi biết bây giờ không có gì bắt được anh ra về. Dill và tôi an toàn, cho tới lúc này, vì Atticus có thể thấy chúng tôi từ chỗ của ông, nếu ông nhìn.

Trong khi thẩm phán Taylor gõ búa, ông Ewell ngồi vênh váo trên ghế nhân chứng quan sát thành quả của mình. Bằng một câu nói, ông đã biến những kẻ đang đi chơi vui vẻ thành một đám sưng sỉa, căng thẳng, xì xào, dần dần bị hôn mê vì tiếng búa gõ càng lúc càng nhẹ đến khi phòng xử chỉ còn tiếng cạch-cạch-cạch nho nhỏ, như thể ông toà đang gõ cây viết chì lên mặt bàn.

Khi đã nắm lại được phòng xử của mình, thẩm phán Taylor ngả ra lưng ghế. Ông bỗng có vẻ mệt, tuổi tác ông lộ ra, và tôi nghĩ tới điều Atticus đã nói – ông ấy và bà Taylor chẳng mấy khi hôn – ông chắc đã gần bảy mươi.

Thẩm phán Taylor nói: “Có lời yêu cầu phòng xử này phải hết sạch khán giả, hay ít nhất là phụ nữ và trẻ con, lúc này lời yêu cầu bị từ chối. Nói chung, người ta thấy cái họ muốn tìm, nghe cái họ muốn nghe, và họ có quyền cho con cái họ nghe thấy hay không, nhưng tôi có thể cam đoan với quý vị một điều: quý vị sẽ thấy và nghe trong im lặng, hoặc quý vị sẽ ra khỏi phòng xử này, nhưng trước khi ra thì trọn bộ cái nháo nhác của quý vị phải đến trình diện tôi vì tội bất kính với toà. Ông Ewell, ông giữ lời khai của ông trong vòng tiếng Anh văn minh, nếu có thể. Tiếp tục đi, ông Gilmer.”

Ông Ewell làm tôi nhớ tới một người câm điếc. Tôi tin chắc ông không hề nghe những lời thẩm phán Taylor nhắm tới ông – miệng ông ấp úng vật lộn với nó – nhưng tầm quan trọng của nó hiện rõ trên mặt ông. Vẻ mặt vênh váo phai nhạt, thay bằng thái độ cố sức sốt sắng chẳng đánh lừa được thẩm phán Taylor chút nào: khi ông Ewell còn trên ghế nhân chứng, quan toà còn để mắt đến ông, như thể thách ông làm bậy.

Ông Gilmer và Atticus liếc nhau. Atticus lại ngồi xuống, nắm tay chống lên gò má và chúng tôi không thấy mặt ông. Ông Gilmer có vẻ khá tuyệt vọng. Câu hỏi của thẩm phán Taylor làm ông nhẹ nhõm: “Ông Ewell, ông có thấy bị cáo giao cấu với con gái ông không?”

“Có, tui thấy.”

Khán giả im lặng, nhưng bị cáo nói điều gì. Atticus thì thầm với anh ta, và Tom Robinson im.

Ông Gilmer hỏi: “Ông nói ông ở chỗ cửa sổ?”

“Đúng đó ông.”

“Cửa cách mặt đất bao nhiêu?”

“Chừng một thước.”

“Ông có thấy rõ căn phòng không?”

“Thấy chứ ông.”

“Căn phòng ra sao?”

“À, mọi thứ tung toé hết trơn, như có đánh lộn.”

“Ông làm gì khi ông thấy bị cáo?”

“À, tui chạy vòng vô nhà, nhưng nó chạy ra cửa trước trước tui. Tui thấy nó là đứa nào, thấy rõ mà. Tui quá lo cho Mayella nên hổng rượt theo nó. Tui chạy vô nhà thấy nó nằm trên sàn bù lu bù loa…”

“Khi đó ông làm gì?”

“Sao vậy, tui chạy kiếm Tate thiệt lẹ. Tui biết nó là đứa nào, biết rõ mà, nó sống dưới đó trong ổ tụi mọi đen, đi ngang nhà mỗi ngày. Nè ông toò-a, tui đã yêu cầu hạt này mười lăm năm nay là dẹp sạch cái ổ dưới đó, sống gần tụi nó vừa nguy hiểm, vừa làm mất giá nhà tui…”

Ông Gilmer nói vội: “Cám ơn ông, ông Ewell.”

Nhân chứng hấp tấp xuống khỏi bục và đâm sầm vào Atticus, ông đã đứng lên để hỏi ông ta. Thẩm phán Taylor cho phép phòng xử cười.

Atticus vui vẻ nói: “Ông khoan đã. Tôi xin hỏi ông một hai câu được không?”

Ông Ewell lùi về ghế nhân chứng, ngồi xuống, nhìn Atticus với vẻ ngờ vực ngạo mạn, một biểu lộ thông thường của các nhân chứng ở hạt Maycomb khi đương đầu với luật sư phe đối nghịch.

Atticus mở đầu: “Ông Ewell, tối hôm đó mọi người chạy lung tung. Xem nào, ông nói ông chạy tới nhà, ông chạy tới cửa sổ, ông chạy vào nhà, ông chạy tới Mayella, ông chạy tìm ông Tate. Trong những lúc chạy đó ông có chạy tìm bác sĩ không?”

“Hổng cần. Tui thấy chuyện gì xảy ra.”

Atticus nói: “Nhưng có một điều tôi không hiểu, ông không lo cho tình trạng của Mayella à?”

Ông Ewell nói: “Chắc chắn tui có lo. Tui thấy đứa nào làm.”

“Không, tôi muốn nói là tình trạng sức khoẻ của cô ấy. Ông không nghĩ các vết thương của cô ấy đáng được săn sóc lập tức sao?”

“Cái gì?”

“Ông không nghĩ cô ấy nên gặp bác sĩ hay sao, gặp ngay lập tức?”

Nhân chứng nói ông không hề nghĩ đến, trong đời ông chưa hề gọi bác sĩ cho bất cứ đứa con nào, và nếu gọi thì ông tốn năm đô la. Ông hỏi: “Hỏi hết chưa?”

Atticus hờ hững nói: “Chưa, ông Ewell, ông có nghe lời khai của ông cảnh sát trưởng, phải không?”

“Sao vậy?”

“Ông ở trong phòng xử lúc ông Heck Tate trên ghế nhân chứng, phải không? Ông nghe mọi điều ông ấy nói, phải không?”

Ông Ewell cẩn thận cân nhắc vấn đề, rồi hình như quyết định rằng câu hỏi vô hại.

Ông nói: “Ừ.”

“Ông có đồng ý với lời ông ấy mô tả các vết thương của Mayella không?”

“Sao vậy?”

Atticus quay nhìn ông Gilmer và mỉm cười. Ông Ewell hình như cương quyết gây khó dễ cho phe bị cáo.

“Ông Tate khai là mắt bên phải của cô ấy bị bầm đen, cô ấy bị đánh chỗ…”

Nhân chứng nói: “Ồ đúng. Tui đồng ý hết trọi điều Tate nói.”

Atticus ôn tồn hỏi: “Ông đồng ý à? Tôi chỉ muốn biết chắc thôi.” Ông đi tới viên thư ký toà, nói điều gì, rồi viên thư ký giải trí cho chúng tôi mấy phút bằng cách đọc lời khai của ông Tate như thể nó là bảng ghi giá thị trường chứng khoán: “… mắt nào bên trái cô ta ồ đúng như vậy là bên phải của cô ta con mắt bên phải của cô ta ông Finch bây giờ tôi nhớ rồi mặt cô ta bị đánh,” viên thư ký lật trang giấy, “sưng bên phía đó ông cảnh sát trưởng làm ơn lặp lại điều ông đã nói tôi nói là con mắt bên phải của cô ta…”

Atticus nói: “Cám ơn ông Bert. Ông Ewell, ông đã nghe lại một lần nữa. Ông có muốn nói thêm gì không? Ông có đồng ý với ông cảnh sát trưởng không?”

“Tui đồng ý với Tate. Mắt nó bầm đen, nó bị đánh te tua.”

Người đàn ông nhỏ bé hình như đã quên trước đó bị quan toà làm cho bẽ mặt. Hiển nhiên ông ta nghĩ Atticus là một đối thủ dễ dàng. Ông có vẻ hồng hào trở lại, ngực ông phồng lên, và một lần nữa ông lại là con gà trống đỏ bé nhỏ. Tôi nghĩ ông sẽ làm đứt tung cái áo sơ mi của ông vì câu hỏi kế tiếp của Atticus:

“Ông Ewell, ông có biết đọc biết viết không?”

Ông Gilmer xen vào: “Phản đối. Việc biết đọc biết viết của nhân chứng không liên can gì tới vụ án này, không thích hợp và không cần thiết.”

Thẩm phán Taylor định lên tiếng, nhưng Atticus nói: “Thưa toà, nếu toà cho phép hỏi câu này với một câu nữa thì sẽ thấy ngay thôi.”

Thẩm phán Taylor nói: “Thôi được, để xem, nhưng nhớ kỹ là làm sao cho chúng tôi thấy, Atticus. Bác lời yêu cầu của công tố.”

Ông Gilmer có vẻ cũng tò mò giống như tất cả chúng tôi về tình trạng học vấn của ông Ewell có quan hệ gì tới vụ án.

Atticus nói: “Tôi sẽ lặp lại câu hỏi. Ông có biết đọc biết viết không?”

“Chắc chắn tui biết.”

“Ông viết tên ông cho chúng tôi xem được không?”

“Chắc chắn là được. Ông nghĩ làm sao tui ký lãnh phiếu trợ cấp chứ?”

Ông Ewell đang lấy lòng quý đồng bào thân mến của ông. Tiếng xì xào và khúc khích bên dưới chúng tôi chắc phải liên hệ tới con người quái đản của ông.

Tôi bắt đầu lo. Atticus hình như biết ông đang làm gì – nhưng đối với tôi dường như ông đã đi đâm ếch mà không mang đèn[112]. Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, trong lúc đối chất mà hỏi nhân chứng một câu hỏi mà chưa biết câu trả lời, tôi đã thấm nhuần nguyên lý đó từ hồi còn bú. Hỏi như vậy thường nhận được câu trả lời mình không muốn, câu trả lời có thể làm tiêu tùng vụ án của mình.

Atticus thò tay vào túi bên trong áo khoác. Ông rút ra một bao thư, rồi thò lên túi áo gilê gỡ cây bút mực. Ông cử động thong thả, quay qua để bồi thẩm đoàn nhìn rõ ông. Ông vặn nắp cây bút máy, nhẹ nhàng đặt nó lên bàn ông. Ông vẩy nhẹ cây bút, rồi đưa nó cùng với bao thư cho nhân chứng. Ông yêu cầu: “Nhờ ông viết tên ông cho chúng tôi được chứ? Viết rõ nhé, để bồi thẩm đoàn có thể thấy ông viết.”

Ông Ewell viết lên mặt sau bao thư rồi tự đắc ngước lên thấy thẩm phán Taylor đang nhìn ông đăm đăm như thể ông là đoá hoa dành dành thơm ngát đang nở rộ trên ghế nhân chứng, và thấy ông Gilmer nhấp nhổm nửa đứng, nửa ngồi ở bàn ông ấy. Bồi thẩm đoàn đang quan sát ông, một ông nắm rào chắn chồm tới.

Ông hỏi: “Cái gì hay ho dữ vậy?”

Thẩm phán Taylor nói: “Ông thuận tay trái, ông Ewell.” Ông Ewell đâm ra bực tức quan toà và nói ông không thấy việc thuận tay trái của ông có liên can gì tới vụ này, ông là người biết kính sợ Chúa, và Atticus Finch đang lợi dụng ông. Bọn luật sư xảo trá như Atticus Finch lúc nào cũng lợi dụng ông bằng những cách xảo trá của họ. Ông đã kể cho họ chuyện gì xảy ra, ông sẽ lặp đi lặp lại nó – và ông lặp lại. Sau đó Atticus có hỏi gì thì cũng không lay chuyển được câu chuyện của ông là ông nhìn qua cửa sổ, rồi chạy tới đuổi thằng mọi đen, rồi chạy tìm ông cảnh sát trưởng. Cuối cùng Atticus nói qua loa cho xong với ông.

Ông Gilmer hỏi ông thêm một câu: “Về việc ông viết bằng tay trái, ông có thuận cả hai tay không, ông Ewell?”

“Chắc chắn là không, tui có thể xài một tay cũng đủ như thằng khác. Một tay cũng đủ như thằng khác,” ông vừa nói thêm, vừa trừng trừng nhìn tới bàn bị cáo.

Jem hình như đang gặp cơn im lặng. Anh đập nhẹ lên lan can ban công, và một lần nữa anh thì thào: “Mình tóm được hắn rồi.”

Tôi không nghĩ vậy: đối với tôi hình như Atticus đang cố chứng tỏ rằng ông Ewell có thể đã đánh Mayella. Tôi chỉ theo dõi được tới đó. Nếu mắt bên phải của cô ấy bầm đen và cô ấy bị đánh phần lớn phía bên phải mặt, thì nó có xu hướng cho thấy là một người thuận tay trái đã đánh. Sherlock Holmes[113] và Jem Finch sẽ đồng ý. Nhưng Tom Robinson cũng có thể dễ dàng thuận tay trái. Bắt chước ông Heck Tate, tôi tưởng tượng một người đang đối diện mình, diễn nhanh một màn kịch câm trong đầu, rồi kết luận rằng anh ta có thể đã dùng tay phải giữ chặt cô ta để đánh cô bằng tay trái. Tôi nhìn xuống anh ta. Lưng anh ta quay về phía chúng tôi, nhưng tôi có thể thấy đôi vai rộng và cái cổ to như cổ bò của anh ta. Anh ta có thể làm như vậy dễ dàng. Tôi nghĩ Jem đang đếm gà[114].

 

 

 

 

 

 

18

 

Nhưng lại có người nói oang oang.

“Mayella Violet Ewell…!”

Một cô gái bước đến bục nhân chứng. Lúc cô giơ tay tuyên thệ xin thề trước Chúa lời chứng của cô là sự thật, toàn bộ sự thật, và không có gì ngoài sự thật, cô dường như có vẻ mỏng manh, nhưng khi cô ngồi trên ghế nhân chứng hướng mặt về phía chúng tôi, cô trở lại chính mình, một cô gái chắc người, quen với lao động nặng nhọc.

Ở hạt Maycomb, người ta dễ phân biệt một người thường xuyên tắm với người mỗi năm tắm rửa một lần: ông Ewell có vẻ như bị phỏng, như thể ngâm nước qua đêm đã lột đi của ông lớp đất bảo vệ, da ông có vẻ nhạy cảm với môi trường. Mayella trông như thể cô ta cố giữ sạch sẽ, và tôi nhớ lại dãy cây phong lữ đỏ trong sân nhà Ewell.

Ông Gilmer yêu cầu Mayella kể cho bồi thẩm đoàn bằng lời của chính cô về những gì đã xảy ra tối ngày hai mươi mốt tháng Mười Một năm ngoái, xin kể chỉ bằng lời của chính cô.

Mayella ngồi im.

Ông Gilmer nhẫn nại mở lời: “Lúc chạng vạng tối hôm đó cô ở đâu?”

“Trên hàng hiên.”

“Hàng hiên nào?”

“Hổng có cái hiên nào trừ cái hiên trước nhà.”

“Cô đang làm gì trên hàng hiên?”

“Hổng làm gì.”

Thẩm phán Taylor nói: “Cứ kể cho chúng tôi chuyện gì xảy ra. Cô kể được phải không?”

Mayella đăm đăm nhìn ông rồi bật khóc. Cô lấy tay che miệng nức nở. Thẩm phán Taylor để cô khóc một lúc, rồi ông nói: “Thôi đủ rồi. Đừng sợ ai ở đây, miễn là cô nói sự thật. Tôi biết mấy việc này lạ đối với cô, nhưng cô không có gì phải xấu hổ và chẳng có gì để sợ. Cô sợ cái gì?”

Mayella lấy tay che miệng nói. Quan toà hỏi: “Gì vậy?”

“Ổng,” cô nức nở chỉ Atticus.

“Ông Finch?”

Cô vừa gật đầu lia lịa vừa nói: “Hổng muốn ổng làm gì tui giống như ổng bắt tía tui làm, kiếm cách bắt tía làm tay trái…”

Thẩm phán Taylor gãi mái tóc trắng rậm rạp của ông. Rõ ràng ông chưa bao giờ phải đối phó với một vấn đề kiểu này. Ông hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi?”

Mayella nói: “Mười chín rưỡi.”

Thẩm phán Taylor đằng hắng rồi cố nói bằng giọng dỗ dành mà không được: “Ông Finch không có ý doạ cô,” ông gầm gừ, “và nếu ổng định doạ thì có tôi ở đây để cấm ổng. Tôi ngồi trên này để lo chuyện đó. Nào, cô là con gái lớn rồi, vì vậy cô cứ ngồi thẳng lên rồi kể à… kể cho chúng tôi chuyện gì xảy ra với cô. Cô kể được, phải không?”

Tôi thì thầm với Jem: “Cô đó có bình thường không?”

Jem nhíu mắt nhìn xuống ghế nhân chứng. Anh nói: “Chưa biết được. Cô ta đủ khôn để làm ông toà tội nghiệp cho cô ta, nhưng cô ta có thể chỉ… ồ, tao không biết.”

Sau khi nguôi ngoai, Mayella sợ hãi liếc Atticus một cái cuối cùng rồi nói với ông Gilmer: “À thưa ông, tui trên hàng hiên rồi… rồi nó đi qua, ông thấy đó, có cái tủ ngăn cheo áo[115] cũ trong sân tía đem dìa để chẻ làm củi nhóm lửa… tía biểu tui chẻ lúc ổng ra rừng nhưng tui cảm thấy hổng đủ khoẻ, vì vậy nó đi ngang…”

“Ai là ’nó’?”

Mayella chỉ Tom Robinson. Ông Gilmer nói: “Tôi phải yêu cầu cô làm ơn nói rõ hơn. Thư ký không ghi cử chỉ xuống cho rõ ràng được.”

Cô nói: “Nó đó, Robinson.”

“Rồi chuyện gì xảy ra?”

“Tui nói, ê mọi, tới đây, phá cái tủ ngăn cheo áo này cho tao, tao cho mày năm xu. Nó làm dễ dàng, nó làm được. Vì vậy nó vô sân, rồi tui vô nhà lấy cho nó năm xu, rồi tui quay lại, rồi tui chưa kịp biết gì thì nó đã nhào lên tui. Nó rượt phía sau tui. Nó bóp cổ tui, chửi tui rồi nói bậy… tui la hét chống cự, nhưng nó bóp cổ tui. Nó đánh tui liên hồi…”

Ông Gilmer đợi cho Mayella bình tĩnh lại: cô đã vặn chiếc khăn tay của cô thành sợi dây đẫm mồ hôi; lúc cô mở khăn ra lau mặt, nó thành một đống nhàu nát trên bàn tay nóng hổi của cô. Cô đợi ông Gilmer hỏi câu khác, nhưng khi ông không hỏi, cô nói: “… nó đè tui xuống sàn rồi bóp cổ tui rồi hiếp tui.”

Ông Gilmer hỏi: “Cô có la không? Cô có la và chống cự lại không?”

“Chắc là có, tui la om sòm hết sức, đá với la hết sức mình.”

“Rồi chuyện gì xảy ra?”

“Tui hổng nhớ rõ lắm, nhưng kế đó tui thấy tía ở trong phòng đứng khom trên tui rồi la đứa nào, đứa nào? Rồi tui như bất tỉnh, rồi kế đó tui biết ông Tate kéo tui đứng lên rồi dắt tui tới chậu nước.”

Hình như diễn lại sự việc đã làm Mayella tự tin, nhưng khác với kiểu xấc xược của cha cô: lời cô kể có vẻ lén lút, như con mèo ngoe nguẩy đuôi không chớp mắt.

Ông Gilmer hỏi: “Cô nói cô chống trả hắn hết sức mình? Quyết liệt chống trả hắn?”

“Chắc chắn tui chống,” cô bắt chước cha cô.

“Cô chắc chắn là hắn cưỡng hiếp cô?”

Mặt Mayella méo đi, tôi sợ cô lại khóc nữa. Nhưng cô nói: “Nó làm chuyện nó muốn làm.”

Ông Gilmer làm nhớ tới một ngày nóng bức bằng cách lấy tay lau đầu. Ông vui vẻ nói: “Lúc này chỉ thế thôi, nhưng cô ở lại đó. Tôi chắc ông Finch bự con dữ dằn đó có vài câu hỏi cô.”

Thẩm phán Taylor nghiêm giọng lẩm bẩm: “Công tố không được làm cho nhân chứng có thành kiến đối với luật sư của bị cáo, ít nhất là không làm lúc này.”

Atticus mỉm cười đứng lên, nhưng thay vì bước tới bục nhân chứng, ông cởi áo khoác rồi móc hai ngón tay cái lên áo gilê, sau đó ông từ từ bước ngang phòng đến dãy cửa sổ. Ông nhìn ra ngoài, nhưng hình như chẳng chú ý lắm tới cái ông thấy, rồi quay lại thả bước đến bục nhân chứng. Qua nhiều năm kinh nghiệm, tôi có thể nói ông đang cố đi đến quyết định về một điều gì.

Ông mỉm cười nói: “Cô Mayella, tôi sẽ không định làm cô sợ trong một lát, chưa. Mình hãy làm quen đã. Cô bao nhiêu tuổi?”

“Đã nói là tui mười chín, nói với ông toà đằng kia kìa.” Mayella phẫn uất hất đầu về phía quan toà.

“Cô nói rồi, cô nói rồi, thưa cô. Cô phải chịu khó với tôi, cô Mayella, tôi đang cố và nhớ không được tốt như trước nữa. Tôi có thể hỏi cô nhiều thứ cô đã nói lúc nãy rồi, nhưng cô sẽ trả lời cho tôi chứ? Tốt.”

Tôi thấy vẻ mặt Mayella chẳng có gì chứng minh cho giả định của Atticus là ông đã được cô hợp tác hết lòng. Cô đang tức giận nhìn ông.

Cô nói: “Hổng trả lời một tiếng chừng nào ông còn nhại tui.”

Atticus sửng sốt hỏi: “Thưa cô?”

“Chừng nào ông còn giễu tui.”

Thẩm phán Taylor nói: “Ông Finch không giễu cợt cô. Cô làm sao vậy?”

Mayella cau mày nhìn Atticus, nhưng cô nói với quan toà: “Chừng nào ổng còn gọi tui là thưa cô với lại cô Mayella. Tui đâu có bị bắt buộc phải nghe ổng nói xấc láo, tui hổng tới đây để chịu bị như vậy.”

Atticus lại thả bộ tới dãy cửa sổ để thẩm phán Taylor xử lý vụ này. Thẩm phán Taylor không phải loại người từng kêu gọi tới lòng thương hại của ai bao giờ, nhưng tôi cảm thấy đau khổ cho ông khi ông cố giải thích. Ông nói với Mayella: “Kiểu của ông Finch như vậy thôi. Chúng tôi làm việc trong toà này năm này qua năm khác, ông Finch luôn luôn nhã nhặn với mọi người. Ổng không định nhại cô, ổng đang cố lịch sự. Kiểu của ổng như vậy thôi.”

Quan toà dựa ngửa ra. “Atticus, mình tiếp tục việc này, biên bản hãy ghi là nhân chứng không bị xúc phạm, trái với quan điểm của cô ấy.”

Tôi tự hỏi liệu trong đời cô đã có ai xưng hô với cô là “thưa cô” hay “cô Mayella”, có lẽ chưa, vì cô thấy bị xúc phạm với cách nói nhã nhặn thông thường. Đời cô ta như thế nào? Chẳng mấy chốc tôi biết ra.

Atticus bắt đầu lại: “Cô nói cô mười chín. Cô có bao nhiêu anh chị em?” Ông bước từ cửa sổ trở lại bục nhân chứng.

Cô nói: “Bải đứa,” và tôi tự hỏi phải chăng tất cả bọn đều cùng loại với đứa tôi đã gặp ngày đầu tiên tôi đi học.

“Cô là con cả? Lớn nhất?”

“Ừ.”

“Má cô mất bao lâu rồi?”

“Hổng biết… lâu rồi.”

 “Cô có bao giờ đi học không?”

“Đọc viết khá như tía đằng kia kìa.”

Mayella nói như cái ông Jingle[116] trong cuốn sách tôi đã đọc.

“Cô đi học được bao lâu?”

“Hai năm… ba năm… hổng biết.”

Chậm nhưng chắc, tôi bắt đầu thấy hướng các câu hỏi của Atticus: bằng các câu hỏi mà ông Gilmer không cho là tới mức phải phản đối vì không thích hợp hoặc không cần thiết, Atticus lặng lẽ đưa ra trước bồi thẩm đoàn hình ảnh cuộc sống ở nhà Ewell. Bồi thẩm đoàn biết những điều sau đây: phiếu trợ cấp của họ còn lâu mới đủ để nuôi ăn gia đình, và rất đáng ngờ là ông bố nhậu hết trợ cấp đó – ông ta đôi khi ra đầm lầy mấy ngày rồi mang bệnh về nhà nằm; thời tiết ít khi đủ lạnh để cần giày, nhưng khi lạnh thì có thể làm một đôi bảnh bao từ mảnh vỏ bánh xe cũ; gia đình dùng chậu hứng nước từ dòng nước chảy ra ở cuối bãi rác – họ giữ chung quanh sạch rác – về vấn đề vệ sinh thì mỗi người tự lo lấy thân: nếu muốn tắm thì tự khiêng nước; mấy đứa nhỏ cảm lạnh liên miên và bị giun sán kinh niên; đôi khi có một bà ghé đến hỏi Mayella tại sao cô không đi học, bà ấy viết câu trả lời xuống: trong gia đình có hai người biết đọc biết viết thì những người còn lại khỏi cần phải học, tía cần tụi nó ở nhà.

Atticus nói một cách gượng gạo: “Cô Mayella, một người con gái mười chín tuổi như cô hẳn phải có bạn. Bạn cô là những ai?”

Nhân chứng nhăn mặt như thể bối rối: “Bạn?”

“Ừ, chẳng lẽ cô không biết ai trạc tuổi cô, hay lớn hơn, hay nhỏ hơn? Con trai và con gái? Chỉ bạn bè bình thường thôi?”

Sự thù địch của Mayella đã nguôi thành ôn hoà bất đắc dĩ, bây giờ lại bừng cháy: “Ông đang giễu tui nữa hả, ông Finch?”

Atticus coi câu hỏi của cô là câu trả lời cho ông.

Câu kế tiếp của ông là: “Cô có thương cha cô không, cô Mayella?”

“Thương ổng, ý ông nói gì?”

“Ý tôi là ông ấy có tốt với cô không, ông ấy có dễ chịu không?”

“Ổng chịu được, trừ khi…”

“Trừ khi nào?”

Mayella nhìn cha cô đang ngồi dựa ngửa ghế lên thanh chắn. Ông ta ngồi thẳng lại chờ cô trả lời.

Mayella nói: “Hổng có trừ khi nào, tui đã nói ổng chịu được.”

Ông Ewell lại dựa ngửa ra.

“Trừ khi ổng say?” Atticus hỏi dịu dàng đến nỗi Mayella gật đầu.

“Ông ấy có bao giờ rượt cô không?”

“Ý ông nói gì?”

“Khi ông ấy… nổi giận, ông ấy có bao giờ đánh cô không?”

Mayella nhìn xung quanh, nhìn xuống viên thư ký toà, nhìn lên ông toà. Thẩm phán Taylor nói: “Trả lời câu hỏi đi, cô Mayella.”

“Trong đời tui tía tui hổng bao giờ chạm tới một sợi tóc trên đầu tui,” cô tuyên bố chắc nịch. “Ổng chưa bao giờ đụng tới tui.”

Kính của Atticus hơi tuột xuống, ông đẩy nó lên mũi. “Chúng ta đã chuyện trò tốt, cô Mayella, bây giờ tôi nghĩ mình nên đi vào vụ án. Cô nói cô nhờ Tom Robinson tới chẻ một cái… cái gì nhỉ?”

“Cái tủ ngăn cheo áo, cái tủ áo cũ một bên có đầy ngăn kéo.”

“Cô có biết rõ Tom Robinson không?”

“Ý ông muốn nói gì?”

“Tôi muốn hỏi cô có biết anh ta là ai, anh ta sống ở đâu?”

Mayella gật. “Tui biết nó là ai, nó đi ngang nhà mỗi ngày.”

“Có phải đó là lần đầu cô yêu cầu anh ta vào bên trong hàng rào?”

Mayella hơi giật mình vì câu hỏi. Atticus lại làm cuộc hành hương chậm chạp tới dãy cửa sổ, như ông đã làm: ông sẽ hỏi một câu, rồi nhìn ra ngoài, chờ câu trả lời. Ông không thấy cô bất giác giật mình, nhưng tôi nghĩ hình như ông biết cô cử động. Ông quay lại rồi nhướng mày. Ông bắt đầu lại: “Có phải…”

“Phải.”

“Trước kia cô có bao giờ yêu cầu anh ta vào bên trong hàng rào?”

Bây giờ cô đã chuẩn bị. “Không, chắc chắn là không.”

Atticus bình thản nói: “Nói không một lần là đủ. Trước kia cô chưa bao giờ nhờ anh ta làm việc lặt vặt cho cô?”

Mayella thú nhận: “Tui đã có thể nhờ. Quanh đó có mấy đứa mọi.”

“Cô có thể nhớ vào dịp nào khác không?”

“Không.”

“Được rồi, bây giờ tới chuyện đã xảy ra. Cô nói Tom Robinson phía sau cô lúc cô quay lại trong phòng, đúng chứ?”

“Đúng.”

“Cô nói anh ta bóp cổ cô, chửi bới và nói bậy… đúng chứ?”

“Đúng.”

Trí nhớ Atticus bỗng trở nên chính xác. “Cô nói ‘anh ta nắm tui rồi bóp cổ tui rồi hiếp tui’ – đúng chứ?”

“Tui nói đúng như vậy.”

“Cô có nhớ anh ta đã đánh vào mặt cô không?”

Nhân chứng lưỡng lự.

“Cô dường như khá chắc chắn là anh ta bóp cổ cô. Trong lúc đó cô chống trả, nhớ không? Cô ‘đá rồi la hết sức.’ Cô có nhớ anh ta đánh vào mặt cô không?”

Mayella im lặng. Cô hình như đang cố hiểu điều gì. Tôi chợt nghĩ cô đang làm giống bí quyết của ông Heck Tate và của tôi là giả vờ có một người trước mặt chúng tôi. Cô liếc ông Gilmer.

“Câu hỏi đó dễ, cô Mayella, vì vậy tôi sẽ thử một lần nữa. Cô có nhớ anh ta đánh vào mặt cô không?” Giọng Atticus đã mất vẻ dễ dãi, ông đang nói bằng giọng nghề nghiệp khô khan, xa cách. “Cô có nhớ anh ta đánh vào mặt cô không?”

“Không, tui hổng nhớ nó có đánh tui hay không. Tui muốn nói là có tui nhớ, nó đánh tui.”

“Có phải câu sau là câu trả lời của cô?”

“Hả? Ừ, nó đánh… tui chỉ hổng nhớ, tui chỉ hổng nhớ… mọi thứ xảy ra lẹ quá.”

Thẩm phán Taylor nghiêm khắc nhìn Mayella. Ông mở lời: “Đừng có khóc, cô kia…” Nhưng Atticus nói: “Để cô ấy khóc nếu cô ấy muốn, thưa toà. Chúng ta có vô số thời giờ.”

Mayella sụt sịt một cách giận dữ và nhìn Atticus. “Tui sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của ông… đem tui lên đây rồi nhại tui, phải hông? Tui sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của ông…”

Atticus nói: “Tốt. Chỉ còn vài câu nữa thôi. Cô Mayella, không dài dòng lắm, cô đã khai là bị cáo đánh cô, nắm cổ cô, bóp cổ cô, và hiếp cô. Tôi muốn cô chắc chắn là cô chỉ đúng người. Cô nhận dạng được người đàn ông đã hiếp cô chứ?”

“Tui nhận được, nó ngay đằng đó.”

Atticus quay sang bị cáo. “Tom, đứng lên. Để cô Mayella nhìn thật rõ anh. Có phải người đàn ông này không, cô Mayella?”

Đôi vai khoẻ mạnh của Tom Robinson run nhẹ dưới chiếc áo sơ mi mỏng. Anh đứng lên và đứng với bàn tay phải trên lưng ghế. Anh có vẻ mất thăng bằng một cách kỳ lạ, nhưng không phải vì cách anh đang đứng. Cánh tay trái của anh ngắn hơn tay phải đủ ba tấc, lủng lẳng bại xụi bên hông. Bàn tay trái teo nhỏ lại, và từ tuốt trên ban công đằng xa tôi có thể thấy nó vô dụng đối với anh.

Jem thì thào: “Scout, Scout, nhìn kìa! Mục sư, anh ta bị tật!”

Mục sư Sykes chồm qua tôi và thì thầm với Jem: “Anh ấy bị máy tách hạt bông gòn nghiến, bị nghiến trong máy tách hạt bông gòn của ông Dolphus Raymond hồi anh ấy còn nhỏ… chảy máu tưởng chết… bắp thịt bị tuốt hết tới xương…”

Atticus nói: “Có phải đây là người đã hiếp cô?”

“Chắc chắn là nó.”

Câu hỏi kế tiếp của Atticus cụt ngủn. “Cách nào?”

Mayella nổi giận. “Tui hổng biết nó làm cách nào, nhưng nó làm… tui đã nói mọi chuyện xảy ra lẹ quá tui…”

Atticus mở lời: “Bây giờ chúng ta xem xét việc này một cách bình tĩnh…” nhưng ông Gilmer xen vào phản đối: ông không nói không thích hợp hay không cần thiết, mà là Atticus đang bắt nạt nhân chứng.

Thẩm phán Taylor bật cười lập tức. “Ồ ngồi xuống, Horace, ông ấy không làm chuyện đó đâu. Nếu có thì nhân chứng đang bắt nạt Atticus.”

Thẩm phán Taylor là người duy nhất trong phòng xử cười. Ngay cả bọn em bé cũng lặng thinh, tôi bỗng tự hỏi phải chăng chúng đã bị nghẹt thở trên vú mẹ.

Atticus nói: “Nào, cô Mayella, cô đã khai là bị cáo bóp cổ và đánh cô… cô không nói là anh ta lẻn tới sau lưng cô rồi đánh cô bất tỉnh, mà cô quay lại rồi thế là thấy anh ta…” Atticus trở lại sau bàn ông, và ông nhấn mạnh từng chữ bằng cách gõ đốt ngón tay lên bàn, “… cô có muốn xét lại lời khai nào của cô không?”

“Ông muốn tui nói cái gì hổng có xảy ra hả?”

“Không thưa cô, tôi muốn cô nói điều gì đã xảy ra. Làm ơn kể cho chúng tôi một lần nữa điều gì đã xảy ra?”

“Tui đã kể rồi cho ông chuyện gì xảy ra rồi.”

“Cô khai là cô quay lại rồi thấy anh ta. Khi đó anh ta bóp cổ cô?”

“Ừ.”

“Rồi anh ta buông cổ cô ra rồi đánh cô?”

“Tui đã kể là nó làm như vậy rồi.”

“Anh ta đánh bầm mắt trái của cô bằng nắm tay phải của anh ta?”

“Tui né rồi nó… nó sớt qua, như vậy đó. Tui né rồi nó sớt qua.” Mayella rốt cuộc thấy ra.

“Cô bỗng nhiên rất rõ về điểm này. Mới lúc nãy cô không nhớ được rõ lắm phải không?”

“Tui nói nó đánh tui.”

“Thôi được. Anh ta bóp cổ cô, anh ta đánh cô, rồi anh ta hiếp cô, đúng không?”

“Chắc chắn là đúng.”

“Cô là một cô gái khoẻ, suốt lúc đó cô làm gì, cứ đứng đó à?”

“Tui đã kể cho ông là tui la tui đá tui đánh…”

Atticus đưa tay lên gỡ kính, quay con mắt tốt bên phải về phía nhân chứng và hỏi dồn dập. Thẩm phán Taylor nói: “Hỏi mỗi lần một câu thôi, Atticus. Cho nhân chứng có cơ hội trả lời.”

“Được rồi, tại sao cô không chạy?”

“Tui cố…”

“Cố làm điều gì? Cái gì cản cô?”

“Tui… nó vật tui xuống. Đúng rồi, nó vật tui xuống rồi đè lên tui.”

“Suốt lúc đó cô la hét?”

“Chắc chắn tui la.”

“Thế thì tại sao mấy đứa em kia không nghe cô la? Chúng ở đâu? Ở bãi rác?”

“Chúng ở đâu?”

Không có câu trả lời.

“Tại sao tiếng la của cô không làm chúng chạy tới? Bãi rác gần hơn rừng, đúng không?”

Không có câu trả lời.

“Hay là cô không la cho tới khi cô thấy cha cô ở cửa sổ? Trước lúc đó cô không nghĩ tới la hét, phải không?”

Không có câu trả lời.

“Có phải ban đầu cô hét cha cô thay vì hét Tom Robinson? Phải không?”

Không có câu trả lời.

“Ai đánh cô? Tom Robinson hay cha cô?”

Không có câu trả lời.

“Cha cô thấy gì bên trong cửa sổ, tội hãm hiếp hay cảnh cố sức chống trả? Tại sao cô không nói sự thật, cô bé, không phải Bob Ewell đánh cô hay sao?”

Khi Atticus quay lưng lại Mayella, ông có vẻ như đang đau bao tử, nhưng mặt Mayella vừa khiếp sợ vừa tức giận. Atticus mệt mỏi ngồi xuống lấy khăn tay lau mắt kính của ông.

Thình lình Mayella trở nên lưu loát. Cô nói: “Tui có điều muốn nói.”

Atticus ngẩng đầu. “Có phải cô muốn kể cho chúng tôi chuyện gì đã xảy ra?”

Nhưng cô không nghe thấy vẻ trắc ẩn trong lời mời của ông. “Tui có điều muốn nói rồi tui sẽ hổng nói nữa. Thằng mọi đằng kia hiếp tui, nếu mấy ông hào hoa quý phái sang trọng hổng muốn làm gì trong chuyện này thì tất cả mấy ông đều là đồ mặt bủng hèn nhát hôi hám, đồ hèn nhát hôi hám, cả đám mấy ông. Điệu bộ màu mè của mấy ông hổng đi tới đâu… thưa cô với lại cô Mayella hổng đi tới đâu, ông Finch…”

Rồi cô bật khóc chảy nước mắt. Vai cô run theo tiếng nức nở tức giận. Cô giữ đúng lời. Cô không trả lời câu hỏi nào nữa, ngay cả khi ông Gilmer cố làm cho cô bình tĩnh lại. Tôi đoán nếu cô không nghèo và dốt nát, thẩm phán Taylor sẽ nhốt cô vào tù vì tội coi thường toà mà cô đã tỏ ra cho mọi người trong phòng xử thấy. Bằng cách nào đó, Atticus đã tác động mạnh đến cô cách nào tôi không rõ, nhưng ông không thích điều ông đã làm. Ông ngồi gục đầu, và tôi chưa hề thấy ai nhìn trừng trừng kẻ khác với vẻ thù ghét như Mayella đã tỏ ra khi cô rời ghế nhân chứng và đi ngang bàn Atticus.

Khi ông Gilmer nói với thẩm phán Taylor rằng bên công tố đã xong, thẩm phán Taylor nói: “Đến lúc tất cả chúng ta tạm nghỉ. Chúng ta nghỉ mười phút.”

Atticus và ông Gilmer gặp nhau thì thầm trước chỗ quan toà, rồi họ rời phòng xử bằng cánh cửa phía sau bục nhân chứng, một dấu hiệu cho tất cả chúng tôi có thể giãn gân giãn cốt. Tôi chợt thấy mình đang ngồi ở mép một băng ghế dài, và hơi bị tê. Jem đứng lên ngáp, Dill cũng làm tương tự, mục sư Sykes lấy mũ lau mặt. Ông nói nhiệt độ lên tới ba mươi lăm độ như chơi.

Ông Braxton Underwood đang ngồi im trên ghế dành riêng cho Báo chí, bộ não như miếng bọt biển của ông ngấm hết lời khai, ông đưa cặp mắt cay đắng la cà nhìn khắp ban công người da màu và bắt gặp mắt chúng tôi. Ông khịt mũi rồi ngó chỗ khác.

Tôi nói: “Jem, ông Underwood thấy tụi mình.”

“Hổng sao đâu. Ổng hổng mách Atticus đâu, ổng sẽ viết trên trang xã hội của tờ Tribune.” Jem quay sang Dill, tôi nghĩ là để giải thích những điểm tế nhị của phiên toà cho nó, nhưng tôi tự hỏi điểm gì. Chẳng có tranh cãi dông dài nào giữa Atticus với ông Gilmer về bất cứ điểm nào; ông Gilmer hình như truy tố rất miễn cưỡng; các nhân chứng bị xỏ mũi dắt đi như con la, với rất ít lời phản đối. Nhưng có một lần Atticus kể cho chúng tôi rằng trong toà của thẩm phán Taylor luật sư nào cứng nhắc lý giải chứng cớ thường rốt cuộc bị quan toà gò bó chặt. Ông tiết lộ điều này cho tôi để nói rằng thẩm phán Taylor có thể nom lờ đờ vừa ngủ vừa làm việc, nhưng bản án của ông ấy ít khi bị toà cấp trên đảo ngược, và như thế mới ngon lành. Atticus nói ông ấy là thẩm phán giỏi.

Lúc này thẩm phán Taylor đã trở lại và leo lên cái ghế xoay của ông. Ông rút điếu xì gà trong túi áo gilê ra rồi trầm ngâm xem xét nó. Tôi thúc Dill. Sau khi được ông toà kiểm tra, điếu xì gà chịu một cái cắn tàn nhẫn. Tôi giải thích: “Tụi tao thỉnh thoảng tới coi ổng. Bây giờ ổng sẽ mất cả buổi chiều với nó. Mày chờ xem.” Không biết có công chúng trên cao đang dò xét, thẩm phán Taylor tống khứ cái đuôi bị đứt lìa đi bằng cách dùng môi phun nó ra một cách nhà nghề, “Phù!” Ông bắn đúng ngay giữa ống nhổ, chúng tôi nghe nó kêu tõm. Dill lẩm bẩm: “Dám cá ổng thuộc loại bắn đạn nhai hay chết bỏ.”

Theo thông lệ, lúc tạm nghỉ là lúc mọi người lũ lượt ra ngoài, nhưng hôm nay thiên hạ không nhúc nhích. Ngay cả Câu lạc bộ Ngồi không vẫn đứng nguyên dọc vách tường, vì không thể nào làm cho đám trẻ xấu hổ ra khỏi ghế để nhường chỗ cho họ. Tôi đoán ông Heck Tate đã dành riêng phòng vệ sinh của quận hạt cho các viên chức toà án.

Atticus và ông Gilmer trở lại, thẩm phán Taylor nhìn đồng hồ của ông. Ông nói: “Sắp bốn giờ rồi,” câu nói làm tôi ngạc nhiên, vì đồng hồ toà án hẳn đã gõ báo giờ ít nhất hai lần, nhưng tôi đã không nghe và không cảm thấy nó rung.

Thẩm phán Taylor hỏi: “Mình có nên làm cho xong trong chiều nay không? Thế nào, Atticus?”

Atticus nói: “Tôi nghĩ mình có thể xong.”

“Anh có bao nhiêu nhân chứng?”

“Một.”

“Vậy thì gọi lên.”

 

 

 

 

 

19

 

Thomas Robinson vòng tay qua, đưa mấy ngón tay xuống nâng cánh tay trái lên. Anh đỡ cánh tay lên cuốn Kinh Thánh, bàn tay trái như cao su của anh tìm cách chạm vào bìa sách màu đen. Lúc anh giơ tay phải lên, bàn tay trái vô dụng trượt khỏi cuốn Kinh Thánh đụng vào bàn của viên thư ký. Khi anh định làm lại, thẩm phán Taylor càu nhàu: “Như vậy cũng được rồi, Tom.” Tom tuyên thệ rồi bước tới ghế nhân chứng. Atticus nhanh chóng khiến anh kể cho chúng tôi:

Tom hai mươi lăm tuổi; anh có vợ và ba con. Trước kia anh đã gặp rắc rối với pháp luật: một lần anh bị nhốt ba chục ngày vì phá rối trật tự.

Atticus nói: “Hẳn là phá rối trật tự. Chuyện gì vậy?”

“Dính vào vụ đánh nhau với một người khác, hắn định chém tôi.”

“Hắn chém được không?”

“Được thưa ông, phớt qua, không đủ để bị thương. Ông thấy, tôi…” Tom cử động vai trái.

Atticus nói: “Thấy. Cả hai anh đều bị lãnh án?”

“Vâng thưa ông, tôi phải ngồi tù vì không trả nổi tiền phạt. Anh chàng kia chịu nộp phạt.”

Dill chồm qua tôi và hỏi Jem là Atticus đang làm cái gì vậy. Jem nói Atticus đang cho bồi thẩm đoàn thấy là Tom không giấu điều gì.

Atticus hỏi: “Anh có quen Mayella Violet Ewell không?”

“Có, thưa ông, mỗi ngày ra ruộng tôi phải đi và về ngang chỗ cô ta.”

“Ruộng của ai?”

“Tôi hái cho ông Link Deas.”

“Anh hái bông gòn vào tháng Mười Một à?”

“Không thưa ông, mùa thu với mùa đông tôi làm trong vườn của ổng. Tôi làm việc đều đặn cho ổng quanh năm, ổng có rất nhiều cây hồ đào với mấy thứ khác.”

“Anh nói anh phải đi và về ngang qua nhà Ewell khi đi làm. Có đường nào khác không?”

“Không thưa ông, tôi không biết đường nào khác.”

“Tom, cô ta có bao giờ nói chuyện với anh không?”

“Có chứ, thưa ông, tôi giở nón chào lúc tôi đi ngang, rồi một bữa cô ta bảo tôi vào bên trong hàng rào để phá cái tủ ngăn treo áo cho cô ta.”

“Cô ta nhờ anh chẻ cái… cái tủ ngăn treo áo, khi nào?”

“Ông Finch, từ hồi mùa xuân năm ngoái lận. Tôi nhớ vì lúc đó là mùa giẫy cỏ, tôi có mang theo cái cuốc. Tôi nói tôi chỉ có cái cuốc, nhưng cô ta nói cô ta có cái rìu nhỏ. Cô ta đưa tôi cái rìu rồi tôi phá cái tủ ngăn treo áo. Cô ta nói ‘chắc là tao phải trả mày năm xu hả?’ tôi nói ‘không, thưa cô, hổng tính tiền.’ Rồi tôi về nhà. Ông Finch, lúc đó mãi tận mùa xuân năm ngoái, lâu cả năm trước.”

“Anh có bao giờ vào chỗ đó nữa không?”

“Có, thưa ông.”

“Khi nào?”

“Ồ, tôi vào rất nhiều lần.”

Thẩm phán Taylor theo bản năng với lấy cây búa của ông, nhưng thả tay xuống. Tiếng xì xào bên dưới chúng tôi tắt ngấm mà không cần ông.

“Trong trường hợp nào?”

“Thưa ông nói sao?”

“Tại sao anh vào bên trong hàng rào rất nhiều lần?”

Trán Tom Robinson giãn ra. “Thưa ông, cô ta gọi tôi vào. Hình như mỗi lần tôi đi ngang đó cô ta đều có chút việc vặt cho tôi làm – chẻ đóm, khiêng nước cho cô ta. Cô ta tưới mấy cây bông đỏ mỗi ngày…”

“Anh có được trả công không?”

“Không thưa ông, không lần nào sau lần đầu cô ta muốn trả tôi năm xu. Tôi vui vẻ giúp, ông Ewell hình như chẳng giúp cô ta việc gì, và cả đám nhỏ cũng vậy, còn tôi biết cô ta hổng có dư đồng năm xu nào.”

“Đám nhỏ kia ở đâu?”

“Tụi nó lúc nào cũng ở quanh đó, khắp xó mọi nơi. Mấy đứa coi tôi làm, mấy đứa ngồi trong cửa sổ.”

“Cô Mayella có nói chuyện với anh không?”

“Có thưa ông, cô ta có nói chuyện với tôi.”

Khi Tom Robinson khai báo, tôi bỗng nghĩ Mayella Ewell phải là người cô đơn nhất trần gian. Cô ta thậm chí cô đơn hơn cả Boo Radley, người không ra khỏi nhà đã hai mươi lăm năm. Khi Atticus hỏi cô có bạn không, cô hình như không biết ông nói gì và nghĩ ông chế giễu cô. Tôi nghĩ cô buồn như đứa nhỏ mà Jem gọi là tạp chủng: người da trắng sẽ không liên hệ với cô vì cô sống giữa chỗ bẩn thỉu; người da đen sẽ không liên hệ với cô vì cô da trắng. Cô không thể sống như ông Dolphus Raymond thích la cà với người da đen, vì cô không làm chủ một bờ sông và không xuất thân từ một gia đình danh giá lâu đời. Người ta không nói: “Kiểu của họ như vậy thôi mà” về gia đình Ewell. Maycomb cho họ giỏ quà Giáng sinh, tiền trợ cấp, và cái tát ngược. Tom Robinson hẳn là người duy nhất tử tế với cô. Nhưng cô nói anh hãm hiếp cô, và khi cô đứng lên cô nhìn anh như thể anh là bụi đất dưới chân cô.

Atticus làm gián đoạn suy nghĩ của tôi: “Anh có bao giờ, vào bất kỳ lúc nào, đi vào đất của Ewell… có bao giờ anh đặt chân lên đất của Ewell mà không có lời mời rõ ràng của một người trong nhà không?”

“Không thưa ông, ông Finch, tôi không bao giờ. Tôi sẽ không bao giờ làm như vậy, thưa ông.”

Đôi khi Atticus nói có một cách để biết nhân chứng đang nói dối hay nói thật là lắng nghe hơn là nhìn: tôi áp dụng phép thử của ông – Tom chối một hơi ba lần, nhưng lặng lẽ, không có chút than vãn nào trong giọng nói, và tôi thấy mình tin anh ta tuy rằng anh chối quá nhiều. Hình như anh là một người da đen đáng kính, và một người da đen đáng kính sẽ không bao giờ tự ý vào sân nhà ai.

“Tom, chuyện gì xảy ra cho anh tối hôm hai mươi mốt tháng Mười Một năm ngoái?”

Bên dưới chúng tôi, khán giả đồng loạt hít một hơi rồi chồm tới phía trước. Đằng sau chúng tôi, những người da đen cũng làm tương tự.

Tom có nước da đen như nhung, không bóng, mà là nhung đen mịn. Tròng trắng mắt sáng rỡ trên khuôn mặt anh, khi anh nói chúng tôi thấy răng anh lấp lánh. Nếu nguyên vẹn không bị tàn tật, anh sẽ là mẫu người đàn ông đẹp.

Anh nói: “Ông Finch, tối hôm đó tôi về nhà như thường lệ, khi tôi đi qua nhà Ewell thì cô Mayella đang ở trên hàng hiên, như cô ta nói. Xung quanh hình như rất yên tĩnh, tôi không biết tại sao. Lúc đi ngang tôi đang nghĩ tại sao thì cô ta gọi tôi vào để nhờ chút việc. Ồ, tôi vào bên trong hàng rào ngó quanh tìm củi để chẻ nhưng không thấy, cô ta nói ‘Không đâu, tao có việc cho mày làm trong nhà. Cái cửa cũ đó long bản lề sắp rơi ra tới nơi rồi.’ Tôi hỏi cô có cây vặn vít không, cô Mayella? Cô ta nói chắc là có. Ồ, tôi bước lên bậc thềm, cô ta ra hiệu cho tôi vào trong, tôi vào cái phòng đầu tiên, xem cánh cửa. Tôi nói thưa cô Mayella, cánh cửa này có vẻ tốt. Tôi mở ra đóng vào, mấy cái bản lề đó đều tốt. Khi đó cô ta đóng cánh cửa ngay mặt tôi. Ông Finch, tôi đang không biết tại sao yên tĩnh như vậy, và tôi chợt thấy hổng có đứa nhỏ nào ở nhà, hổng có một đứa nào, tôi nói thưa cô Mayella, tụi nhỏ đâu?”

Làn da đen như nhung của Tom bắt đầu bóng, anh lấy tay xoa mặt.

Anh nói tiếp: “Tôi hỏi tụi nhỏ đâu? Cô ta nói… cô ta như đang cười… cô ta nói tụi nó ra thị trấn mua cà rem hết rồi. Cô ta nói ‘tao mất cả năm mới để dành được bải đồng năm xu, nhưng tao để dành được. Tụi nó ra thị trấn hết rồi.’”

Vẻ khó chịu của Tom không phải vì trời ẩm. Atticus hỏi: “Rồi anh nói gì, Tom?”

“Tôi nói đại khái là, sao vậy cô Mayella, cô đãi tụi nó thiệt giỏi. Rồi cô ta nói ‘Mày nghĩ vậy hả?’ Tôi không nghĩ cô ta hiểu tôi nói gì… ý tôi là cô ta để dành tiền thiệt giỏi, và cô ta thật tốt bụng đãi tụi nó.”

Atticus nói: “Tôi hiểu anh, Tom. Cứ kể tiếp.”

“Ồ, tôi nói tôi phải đi thôi, tôi chẳng làm được gì cho cô ta, thì cô ta nói ồ có, tôi hỏi cô ta là làm cái gì, cô ta nói cứ bước lên cái ghế đằng đó rồi lấy cái hộp trên nóc tủ ngăn treo áo đó xuống.”

Atticus hỏi: “Không phải cái tủ ngăn treo áo anh đã phá?”

Nhân chứng mỉm cười. “Không thưa ông, cái tủ khác. Cao gần bằng cái phòng. Vì vậy tôi làm theo lời cô ta, khi tôi vừa mới với lên cao thì ngay lập tức tôi thấy cô ta… cô ta ôm chân tôi, ôm chân tôi, ông Finch. Cô ta làm tôi sợ tới nỗi tôi nhảy xuống làm đổ cái ghế – cái duy nhất, món đồ duy nhất bị đổ trong phòng đó lúc tôi ra ngoài, ông Finch. Tôi thề trước Chúa.”

“Điều gì xảy ra sau khi anh làm đổ cái ghế?”

Tom Robinson đã im bặt. Anh liếc Atticus, rồi tới bồi thẩm đoàn, rồi tới ông Underwood đang ngồi bên kia phòng.

“Tom, anh đã tuyên thệ nói toàn bộ sự thật. Anh nói đi chứ?”

Tom bối rối đưa tay lên miệng.

“Điều gì xảy ra sau đó?”

Thẩm phán Taylor nói: “Trả lời câu hỏi đi.” Một phần ba điếu xì gà của ông đã tiêu tùng.

“Ông Finch, tôi nhảy xuống cái ghế đó rồi quay lại, cô ta như thể chồm lên tôi.”

“Chồm lên anh? Dữ tợn?”

“Không thưa ông, cô ta… cô ta ôm tôi. Cô ta ôm quanh eo tôi.”

Lần này cây búa của thẩm phán Taylor đập xuống một cái bốp, và các ngọn đèn trên trần phòng xử bật lên theo tiếng gõ. Trời chưa tối, nhưng mặt trời chiều đã khuất khỏi dãy cửa sổ. Thẩm phán Taylor nhanh chóng tái lập trật tự.

“Rồi cô ta làm gì?”

Nhân chứng vất vả nuốt nước bọt. “Cô ta chồm lên hôn một bên mặt tôi. Cô ta nói trước kia cô ta chưa từng hôn một người lớn nào, và cô ta cũng muốn hôn một đứa mọi đen. Cô ta nói những gì tía cô ta làm với cô ta đều không tính. Cô ta nói ‘hôn lại tao đi, thằng mọi.’ Tôi nói cô Mayella cho tôi ra khỏi đây rồi cố chạy, nhưng cô ta dựa lưng lên cửa rồi nói tôi phải đẩy cô ta ra. Tôi không muốn gây thương tích cho cô ta, ông Finch, tôi nói cho tôi qua, nhưng đúng lúc tôi nói câu đó thì ông Ewell đằng kia la hét qua cửa sổ.”

“Ông ta nói gì?”

Tom Robinson lại nuốt nước bọt, mắt anh mở lớn. “Nói ra không thích hợp… không thích hợp cho mọi người và con nít ở đây nghe…”

“Ông ta nói gì, Tom? Anh phải kể cho bồi thẩm đoàn là ông ta đã nói gì.”

Tom Robinson nhắm chặt mắt. “Ông ta nói đồ con điếm trời đánh, tao giết mày.”

“Sau đó xảy ra chuyện gì?”

“Ông Finch, tôi chạy lẹ tới nỗi tôi không biết chuyện gì xảy ra.”

“Tom, anh có hãm hiếp Mayella Ewell không?”

“Không, thưa ông.”

“Anh có gây thương tích cho cô ta cách này hay cách khác không?”

“Không, thưa ông.”

“Anh có cự tuyệt lời tán tỉnh của cô ta không?”

“Ông Finch, tôi đã cố. Tôi đã cố không xấu đối với cô ta. Tôi không muốn xấu. Tôi không muốn xô đẩy gì cô ta cả.”

Tôi chợt thấy bằng cách riêng của họ, lối cư xử của Tom Robinson cũng lịch lãm như Atticus. Về sau được cha tôi giải thích, tôi mới hiểu tình thế khó khăn rất tế nhị của Tom: anh không dám đánh một phụ nữ da trắng trong bất kỳ tình huống nào mà còn hy vọng sống lâu, vì thế ngay khi có cơ hội là anh bỏ chạy – một dấu hiệu có tội rõ ràng.

Atticus nói: “Tom, trở lại với ông Ewell một lần nữa. Ông ta có nói gì với anh không?”

“Không, thưa ông. Ông ta có thể nói, nhưng tôi không có ở đó…”

“Được rồi,” Atticus đột ngang cắt ngang. “Câu nói mà anh nghe, ông ta nói với ai?”

“Ông Finch, ông ta nói lúc nhìn cô Mayella.”

“Sau đó anh chạy?”

“Tôi chạy, thưa ông.”

“Tại sao anh chạy?”

“Tôi sợ, thưa ông.”

“Tại sao anh sợ?”

“Ông Finch, nếu ông là một đứa da đen như tôi thì ông cũng sẽ sợ.”

Atticus ngồi xuống. Ông Gilmer tiến tới bục nhân chứng, nhưng trước khi ông tới nơi, ông Link Deas từ đám dự khán đứng lên tuyên bố:

“Tôi chỉ muốn tất cả các ông bà biết một điều ngay bây giờ. Thằng nhỏ đó làm việc cho tôi đã tám năm và tôi hổng có một tẹo rắc rối nào với nó. Không một tẹo nào.”

Câm miệng ông lại!” Thẩm phán Taylor gầm lên, tỉnh như sáo sậu. Mặt ông cũng đỏ bừng. Như có phép lạ, tiếng ông nói không bị điếu xì gà làm suy suyển. Ông quát: “Link Deas, nếu ông có điều gì muốn nói thì ông có thể nói sau khi tuyên thệ và nói đúng lúc, nhưng bây giờ ông cút ra khỏi cái phòng này, ông nghe tôi không? Cút ra khỏi cái phòng này, thưa ông, ông nghe tôi không? Trời đánh tôi nếu tôi còn nghe như vậy nữa!”

Thẩm phán Taylor nhìn chòng chọc Atticus, như thể thách ông nói, nhưng Atticus đã né đầu và đang cười vào bụng mình. Tôi nhớ điều ông đã nói về lời phán từ ngôi cao của thẩm phán Taylor[117] đôi khi vượt quá nhiệm vụ của ông, nhưng ít luật sư nào có phản ứng. Tôi nhìn Jem, nhưng Jem lắc đầu. Anh nói: “Hổng giống như một người trong bồi thẩm đoàn đứng lên nói. Tao nghĩ khi đó thì khác. Ông Link chỉ phá rối trật tự hay đại khái như vậy thôi.”

Thẩm phán Taylor bảo viên thư ký xoá hết những gì ông ta đã tình cờ chép xuống sau câu ông Finch nếu ông là một đứa da đen như tôi thì ông cũng sẽ sợ, và bảo bồi thẩm đoàn đừng đếm xỉa gì tới vụ gián đoạn đó. Ông nhìn một cách khả nghi xuống lối đi giữa rồi chờ, tôi đoán là chờ cho ông Link Deas hoàn toàn ra khỏi phòng. Sau đó ông nói: “Tiếp tục đi, ông Gilmer.”

Ông Gilmer hỏi: “Có lần mày bị lãnh ba chục ngày vì phá rối trật tự phải không, Robinson?”

“Vâng thưa ông.”

“Thằng đen kia người ngợm ra sao lúc mày xong chuyện với nó?”

“Nó đánh tôi, ông Gilmer.”

“Ừ, nhưng mày bị kết án, đúng không?”

Atticus ngẩng đầu. “Tội nhẹ và có trong hồ sơ, thưa toà.” Tôi nghĩ giọng ông mệt mỏi.

Thẩm phán Taylor nói: “Dù vậy, nhân chứng phải trả lời,” giọng ông cũng mệt tương tự.

 “Vâng thưa ông, tôi lãnh ba chục ngày.”

Tôi biết ông Gilmer sẽ thành thật nói với bồi thẩm đoàn rằng bất kỳ ai đã bị kết án phá rối trật tự đều có thể dễ dàng có ý hãm hiếp Mayella Ewell, ông chỉ chú ý tới lý lẽ đó. Những lý lẽ như thế có hiệu quả.

“Robinson, mày phá cái tủ ngăn treo áo khá giỏi và chẻ củi một tay, phải không?”

“Vâng thưa ông, tôi nghĩ vậy.”

“Đủ mạnh để bóp nghẹt thở một phụ nữ rồi ném cô ta xuống sàn nhà?”

“Tôi không hề làm như vậy, thưa ông.”

“Nhưng mày đủ mạnh?”

“Tôi nghĩ vậy, thưa ông.”

“Mày để mắt tới cô ta lâu rồi, phải không mày?”

“Không thưa ông, tôi không bao giờ nhìn cô ta.”

“Vậy thì mày rất ư lịch sự khi làm mấy việc chẻ củi khiêng nước cho cô ta, phải không mày?”

“Tôi chỉ cố giúp cô ta, thưa ông.”

“Vậy thì mày rất ư rộng rãi, mày có nhiều việc ở nhà sau khi đi làm về mỗi ngày, phải không?”

“Vâng thưa ông.”

“Tại sao mày không làm việc nhà mà làm những việc của cô Ewell?”

“Tôi làm cả hai, thưa ông.”

“Mày chắc phải bận lắm. Tại sao vậy?”

“Tại sao cái gì, thưa ông?”

“Tại sao mày hăm hở làm việc nhà của cô đó dữ vậy?”

Tom Robinson lưỡng lự, tìm câu trả lời. “Hình như cô ta không có ai giúp, như tôi nói…”

“Với ông Ewell và bảy đứa nhỏ ở đó, hả mày?”

“Ồ, tôi nói có vẻ họ chẳng bao giờ phụ giúp cô ta…”

“Mày làm hết mấy việc bửa chẻ này và làm hoàn toàn vì lòng tốt, hả mày?”

“Tôi nói là tôi cố gắng giúp cô ta.”

Ông Gilmer nham hiểm mỉm cười với bồi thẩm đoàn. “Mày là một đứa rất ư tốt, hình như… làm hết mấy việc này mà không lấy một xu?”

“Vâng, thưa ông. Tôi cảm thấy thật tội nghiệp cho cô ta, cô ta hình như vất vả hơn mọi người khác trong nhà…”

Mày cảm thấy tội nghiệp cho cô ta, mày cảm thấy tội nghiệp cho cô ta?” Ông Gilmer hình như sắp bay lên trần nhà.

Nhân chứng nhận ra lỗi lầm của mình và lo lắng cựa quậy trên ghế. Nhưng tai hại đã xảy ra. Bên dưới chúng tôi, không ai thích câu trả lời của Tom Robinson. Ông Gilmer ngừng một lúc lâu để nó ngấm.

Ông nói: “Nào, mày đi ngang nhà như thường lệ, hai mươi mốt tháng Mười Một vừa rồi, và cô ta nhờ mày vào phá cái tủ ngăn treo áo?”

“Không thưa ông.”

“Mày chối là mày đi ngang nhà hả?”

“Không thưa ông… cô ta nói cô ta có việc nhờ tôi làm trong nhà…”

“Cô ta nói cô ta nhờ mày phá cái tủ ngăn treo áo, đúng không?”

“Không thưa ông, không đúng.”

“Vậy thì mày nói cô ta nói láo, hả mày?”

Atticus đứng lên, nhưng Tom Robinson không cần ông. “Tôi không nói cô ta nói láo, ông Gilmer, tôi nói cô ta lẫn lộn trong đầu.”

Trong mười câu hỏi kế tiếp ông Gilmer ôn lại biến cố theo lời kể của Mayella, câu trả lời trước sau như một của nhân chứng là cô ta lẫn lộn trong đầu.

“Ông Ewell không đuổi mày chạy khỏi nhà, hả mày?”

“Không thưa ông, tôi không nghĩ ông ấy đuổi.”

“Không nghĩ, mày định nói gì?”

“Tôi muốn nói tôi không ở lại đủ lâu để ông ấy đuổi tôi ra.”

“Mày rất thật thà ở điểm này, tại sao mày chạy lẹ dữ vậy?”

“Tôi đã nói là tôi sợ, thưa ông.”

“Nếu lương tâm mày trong sạch thì tại sao mày sợ?”

“Như tôi nói lúc nãy, bất kỳ một đứa da đen nào cũng đều không an toàn trong một… vụ dàn xếp như vậy.”

“Nhưng mày đâu có ở trong một vụ dàn xếp… mày khai là mày chống cự lại cô Ewell. Có phải mày sợ cô ta đả thương mày tới nỗi mày chạy, một thằng lớn xác như mày?”

“Không thưa ông, tôi sợ tôi sẽ ra toà, như bây giờ.”

“Sợ bị bắt, sợ mày sẽ phải đối diện với việc mày đã làm?”

“Không thưa ông, sợ tôi phải đối diện với việc tôi không làm.”

“Mày hỗn với tao, hả mày?”

“Không thưa ông, tôi không định hỗn.”

Tôi chỉ nghe phần đối chất của ông Gilmer tới đó, vì Jem bắt tôi đưa Dill ra. Không hiểu vì lý do gì Dill đã bắt đầu khóc và không thể nín; lúc đầu lặng lẽ, rồi tiếng nức nở của nó bị vài người trên ban công nghe được. Jem nói nếu tôi không đi với nó thì anh sẽ bắt tôi, và mục sư Sykes nói tôi nên đi, vì thế tôi đi. Hôm đó Dill có vẻ khoẻ mạnh, nó chẳng ốm đau gì, nhưng tôi đoán nó chưa hoàn toàn khoẻ lại sau vụ trốn nhà.

Khi chúng tôi xuống đến cuối thang, tôi hỏi: “Mày thấy hổng khoẻ hả?”

Dill cố trấn tĩnh lại lúc chúng tôi chạy xuống bậc thềm phía nam. Ông Link Deas là hình ảnh cô đơn trên bậc thềm trên cùng. Ông hỏi khi chúng tôi đi qua: “Có chuyện gì không, Scout?” Tôi ngoái lại trả lời: “Không, thưa ông. Thằng Dill này bị ốm.”

Tôi nói: “Ra dưới gốc cây. Tao nghĩ mày bị nóng.” Chúng tôi chọn cây sồi mập nhất rồi ngồi bên dưới.

Dill nói: “Tao chỉ không chịu nổi ông đó.”

“Ai, Tom hả?”

“Cái lão Gilmer hỏi anh ta kiểu đó, nói năng đầy thù ghét với anh ta…”

“Dill, việc của ổng mà. Sao nhỉ, nếu mình không có công tố viên… ôi dào, thì tao đoán mình cũng không thể có luật sư biện hộ.”

Dill kiên nhẫn thở ra. “Tao biết hết mấy chuyện đó, Scout. Chỉ vì cái cách ổng nói làm tao buồn nôn, thật sự buồn nôn.”

“Chắc ổng phải cư xử cách đó, Dill, ổng đang đối ch…”

“Ổng không cư xử cách đó lúc…”

“Dill, mấy người kia là nhân chứng của ổng.”

“Ồ, ông Finch không cư xử kiểu đó với Mayella và lão Ewell lúc ổng đối chất họ. Cách ông đó luôn luôn gọi anh ta là ‘mày’, chế nhạo anh ta, rồi quay nhìn bồi thẩm đoàn mỗi khi anh ta trả lời…”

“Ồ, Dill, xét cho cùng anh ta là người da đen.”

“Tao bất cần. Như vậy không đúng, dù sao đối xử với họ kiểu đó là hổng đúng. Không ai có việc gì phải nói như vậy… nó làm tao buồn nôn.”

“Cách ông Gilmer như vậy thôi, Dill, ổng cư xử với họ kiểu đó cả. Mày chưa hề thấy ổng trổ tài với ai đâu. Sao nhỉ, khi… ôi dào, đối với tao hôm nay ông Gilmer hình như chưa cố hết sức. Họ cư xử như vậy hết, tao muốn nói phần lớn luật sư là như vậy hết.”

“Ông Finch không như vậy.”

“Ổng hổng phải là điển hình, Dill, ổng…” tôi cố moi trong trí nhớ để tìm một câu sắc bén của cô Maudie Atkinson. Tôi tìm ra: “Ổng ở trong toà cũng giống như ổng ở ngoài đường.”

Dill nói: “Ý tao không như vậy.”

Một giọng nói phía sau chúng tôi: “Ê nhóc tì, ông biết ý cháu muốn nói gì.” Chúng tôi nghĩ thân cây phát ra tiếng nói, nhưng đó là câu nói của ông Dolphus Raymond. Ông thò đầu qua thân cây nhìn chúng tôi. “Cháu là dân chơi mà, cháu chỉ buồn nôn thôi, phải không?”

 

 

 

 

 

20

 

“Qua bên này nè, nhóc tì, ông có cái này làm êm bụng cháu.”

Vì ông Dolphus Raymond là một người xấu nên tôi miễn cưỡng nhận lời mời của ông, tôi đi theo Dill. Không hiểu tại sao tôi nghĩ nếu chúng tôi làm bạn với ông Raymond thì Atticus sẽ không thích, và tôi biết bác Alexandra sẽ không thích.

Ông nói: “Đây nè,” ông đưa cái bao giấy có mấy ống hút trong đó để mời Dill. “Nhấp một ngụm là cháu êm liền.”

Dill hút, mỉm cười, rồi kéo một hơi dài.

Ông Raymond cười “hi hi”, rõ ràng khoái chí làm hư một đứa nhỏ.

Tôi cảnh cáo: “Dill, mày coi chừng.”

Dill thả ống hút ra, rồi nhe răng cười. “Scout, toàn là Coca-Cola.”

Ông Raymond ngồi thẳng lên dựa vào thân cây. Lúc nãy ông nằm trên cỏ. “Tụi bay hổng méc ông đó nhe? Tụi bay méc là tiêu tùng danh giá của ông.”

“Bộ ông uống toàn là Coca-Cola trong cái bao đó thôi hả? Toàn là Coca-Cola thôi hả?”

Ông Raymond gật: “Dạ đúng, thưa cô.” Tôi thích mùi của ông: mùi da thuộc, mùi ngựa, mùi hạt bông gòn. Ông đi đôi ủng cưỡi ngựa kiểu Anh duy nhất mà tôi thấy. “Ông chỉ uống thứ đó thôi, gần như cả ngày.”

“Thế thì ông chỉ giả vờ là ông bét nh…? Cháu xin lỗi ông, thưa ông,” tôi kìm lại, “cháu không có ý…”

Ông Raymond cười khúc khích, không chút phật lòng, và tôi cố đặt một câu hỏi tế nhị: “Tại sao ông làm như vậy?”

Ông nói: “Hả… ồ, phải, cháu muốn hỏi tại sao ông giả vờ? Ôi dào, đơn giản lắm. Một số người không… thích cách ông sống. Ông có thể bảo họ là mẹ kiếp mặc xác họ, nếu họ không thích thì ông cũng bất cần. Đúng là ông có nói nếu họ không thích thì ông cũng bất cần, vậy là đủ… nhưng ông không bảo họ là mẹ kiếp mặc xác họ, thấy chưa?”

Dill và tôi nói: “Chưa, thưa ông.”

“Các cháu thấy đây nhé, ông cố cho họ một lý do. Nếu họ có thể bám vô một lý do để hiểu thì tốt cho họ. Khi ông vào phố, mặc dù rất ít khi ông đi, nếu ông hơi lắc lư rồi uống cái bao này thì thiên hạ có thể nói Dolphus Raymond nghiện rượu… vì vậy ổng sẽ không đổi cách sống. Ổng hổng làm sao khác được, vì vậy ổng sống kiểu đó.”

“Như vậy hổng thành thật, ông Raymond, ông bịa đặt làm cho chính ông xấu hơn là ông đã…”

“Hổng thành thật nhưng rất có ích cho thiên hạ. Bí mật nhe, cô Finch, ông đâu có là kẻ bét nhè, nhưng cô thấy họ không bao giờ, không bao giờ có thể hiểu là ông sống như ông đang sống chỉ vì đó là cách ông muốn sống.”

Tôi có cảm tưởng mình không nên ở đây nghe chuyện người đàn ông tội lỗi này, người có con tạp chủng và bất cần ai biết, nhưng ông hấp dẫn. Tôi chưa bao giờ gặp ai cố tình gian lận để bôi xấu chính mình. Nhưng tại sao ông tiết lộ bí mật sâu kín nhất của ông cho chúng tôi? Tôi hỏi ông tại sao.

Ông nói: “Vì các cháu là trẻ con và các cháu có thể hiểu, và vì ông nghe nó nói…”

Ông hất đầu chỉ Dill: “Bản năng của nó chưa theo kịp sự việc. Để nó lớn thêm chút nữa, nó sẽ không buồn nôn hay khóc nữa. Có thể nó sẽ thấy sự việc vốn là như thế… không đúng lắm chẳng hạn, nhưng nó sẽ không khóc, khi lớn thêm vài năm nữa nó sẽ không khóc.”

Nam tính của Dill bắt đầu biểu lộ: “Khóc vì cái gì, ông Raymond?”

“Khóc vì cái khốn nạn vớ vẩn thiên hạ vẫn đổ cho người khác… mà thậm chí không suy nghĩ. Khóc vì cái khốn nạn người da trắng đổ cho đám da màu, mà thậm chí không dừng lại để nghĩ họ cũng là người.”

Tôi lẩm bẩm: “Atticus nói lừa gạt một người da màu thì tệ gấp mười lần lừa gạt một người da trắng. Ổng nói đó là điều tệ nhất.”

Ông Raymond nói: “Tôi không nghĩ… cô Jean Louise, cô chưa biết đâu, ba cô đâu có phải là người xoàng xĩnh nhì nhằng, cần vài năm nữa mới thấm thía… cô chưa biết đủ cuộc đời đâu. Cô thậm chí chưa hiểu thị trấn này, nhưng trước nhất điều cô cần làm là vào lại toà án.”

Câu nói làm chúng tôi nhớ là mình đã bỏ lỡ gần hết phần đối chất của ông Gilmer. Tôi nhìn mặt trời đang lặn nhanh sau nóc các cửa hiệu ở phía tây quảng trường. Giữa hai phía hấp dẫn, tôi không thể quyết định mình muốn nhảy vào phía nào: ông Raymond hay Toà Lưu động Vùng 5. Tôi nói: “Sao, Dill, bây giờ mày êm chưa?”

“Êm rồi. Hâng hạnh được gặp ôn, ôn Raymond, và cám ơn đồ uống, êm hết sẩy.”

Chúng tôi chạy về trụ sở toà án, lên các bậc thềm, lên hai tầng cầu thang, rồi chen dọc theo lan can trên ban công. Mục sư Sykes đã giữ chỗ cho chúng tôi.

Phòng xử lặng im, một lần nữa tôi tự hỏi các em bé đang ở đâu. Điếu xì gà của thẩm phán Taylor là một đốm nâu giữa miệng ông; ông Gilmer đang viết lên tập giấy vàng trên bàn, cố viết nhanh hơn viên thư ký toà có bàn tay đang giật lia lịa. Tôi lẩm bẩm: “Xui quá, mình lỡ mất rồi.”

Atticus đang nói dở dang với bồi thẩm đoàn. Rõ ràng ông đã rút ra vài tờ giấy trong cái cặp để bên cạnh ghế của ông, vì giấy nằm trên bàn ông. Tom Robinson đang mân mê nó.

“… không có chứng cớ vững chắc cụ thể nào, người đàn ông này bị buộc tội có thể tử hình và bây giờ sinh mạng anh ta đang bị xét xử…”

Tôi thúc Jem: “Ổng nói lâu chưa?”

Jem thì thào: “Ổng mới lược qua các chứng cớ, mình sẽ thắng, Scout. Tao không thấy cách nào mình thua được. Ổng mới nói khoảng năm phút. Ổng làm rõ và dễ như… ôi dào, như tao giải thích cho mày. Ngay cả mày cũng có thể hiểu được.”

“Ông Gilmer có…?”

“Suỵt. Không có gì mới, chỉ toàn chuyện cũ. Bây giờ im đi.”

Chúng tôi lại nhìn xuống. Atticus đang nói trôi chảy, theo kiểu xa cách mà ông thường có khi đọc một lá thư cho người khác viết. Ông chậm rãi đi qua đi lại trước bồi thẩm đoàn, và bồi thẩm đoàn có vẻ chăm chú: đầu họ ngẩng lên, họ theo dõi bước đi của Atticus với vẻ cảm kích. Tôi đoán vì Atticus không phải là người to tiếng.

Atticus ngừng lại, rồi làm một điều mà ông không thường làm. Ông gỡ đồng hồ và dây đeo ra rồi đặt lên bàn, ông nói: “Xin toà cho phép…”

Thẩm phán Taylor gật, khi đó Atticus làm một điều tôi chưa từng thấy ông làm trước kia hay sau đó, ở nơi công cộng hay chỗ riêng tư: ông cởi cúc áo gilê, cởi cúc cổ áo, tháo lỏng cà vạt, và cởi áo khoác. Ông chưa bao giờ nới lỏng một mẩu y phục nào trừ khi ông thay quần áo lúc đi ngủ, và đối với Jem và tôi, điều này tương tự như ông đang đứng hoàn toàn trần truồng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi hoảng vía liếc nhau.

Atticus xỏ tay vào túi, và khi ông trở lại với bồi thẩm đoàn, tôi thấy cúc cổ áo màu vàng với đầu cây viết mực và viết chì của ông lấp lánh dưới ánh đèn.

Ông nói: “Thưa quý vị.” Jem và tôi lại nhìn nhau: Atticus có thể như mới nói “Scout”. Giọng ông đã mất vẻ khô khan, vẻ xa cách, và ông đang nói với bồi thẩm đoàn như thể họ là những người ở góc bưu điện.

Ông nói: “Thưa quý vị, tôi sẽ nói ngắn, nhưng tôi xin dùng thời gian còn lại của tôi với quý vị để nhắc quý vị rằng vụ án này không phải là một vụ khó, nó không đòi phải sàng sẩy chi ly qua các sự kiện phức tạp, nhưng nó đòi quý vị chỉ kết tội khi tin rằng tội của bị cáo là chắc chắn không còn chỗ nào để hoài nghi. Trước hết, vụ án này lẽ ra không cần đưa ra xử. Vụ án này đơn giản như giấy trắng mực đen.

“Bên công tố không đưa ra một chút chứng cớ y khoa nào cho thấy là đã xảy ra tội ác mà Tom Robinson bị tố cáo. Thay vào đó vụ án dựa trên lời khai của hai nhân chứng mà bằng cớ của họ không những có vấn đề nghiêm trọng khi bị đối chất, mà còn hoàn toàn trái ngược với lời khai của bị cáo. Bị cáo vô tội, nhưng có người trong phòng xử này có tội.

“Trong tim tôi chỉ có sự thương xót cho nhân chứng chính của bên công tố, nhưng lòng thương xót của tôi không vươn xa tới việc cô ấy đặt sinh mạng một người vào chỗ hiểm nguy, như cô ấy đã làm để cố xoá bỏ tội lỗi của chính mình.

“Tôi nói là tội lỗi, thưa quý vị, vì chính tội lỗi đã xui khiến cô. Cô ấy không phạm một tội ác nào, cô ấy chỉ vi phạm một quy tắc cứng nhắc và lâu đời của xã hội chúng ta, một quy tắc khắt khe tới nỗi bất cứ ai vi phạm đều bị đuổi khỏi đám chúng ta, như thể thiếu tư cách để sống chung. Cô là nạn nhân của sự dốt nát và nghèo đói tàn nhẫn, nhưng tôi không thể tội nghiệp cô ấy: cô ấy da trắng. Cô ấy biết rất rõ tầm vóc của vi phạm ấy, nhưng vì khao khát của cô mạnh hơn cái quy tắc mà cô vi phạm, cô nhất quyết vi phạm nó. Cô ấy nhất quyết, và phản ứng kế tiếp của cô ấy là một điều mà tất cả chúng ta đều biết lúc này hay lúc khác. Cô ấy đã làm một điều mà mọi đứa trẻ đều làm - cô ấy cố gạt chứng cớ vi phạm của cô ấy ra xa mình. Nhưng trong vụ này cô ấy không phải là đứa trẻ giấu hàng lậu ăn cắp: cô ấy diệt bỏ nạn nhân của cô – nhất thiết cô phải xua anh ta ra xa cô – anh ta phải bị xoá khỏi tầm mắt cô, khỏi thế giới này. Cô ấy phải tiêu hủy chứng cớ vi phạm của mình.

“Chứng cớ vi phạm của cô ấy là gì? Là Tom Robinson, là một người. Cô ấy phải gạt Tom Robinson ra xa cô. Tom Robinson là lời nhắc nhở hằng ngày cho cô về việc cô đã làm. Cô ấy đã làm gì? Cô ấy đã quyến rũ một người da đen.

“Cô ấy da trắng, và cô ấy quyến rũ một người da đen. Cô ấy làm một điều ghê gớm khôn tả trong xã hội chúng ta: cô ấy hôn một người đàn ông da đen. Không phải một Chú Tom già, mà là một thanh niên da đen khoẻ mạnh. Trước khi cô vi phạm cô bất chấp mọi quy tắc, nhưng sau đó nó giáng xuống cô.[118]

“Cha cô thấy, và bị cáo đã làm chứng cho lời của ông ấy. Cha cô làm gì? Chúng ta không biết, nhưng có chứng cớ gián tiếp cho thấy Mayella Ewell đã bị đánh dã man bởi một người hầu như hoàn toàn thuận tay trái. Chúng ta biết một phần những gì ông Ewell làm: ông ta làm những gì bất cứ một người da trắng nào kính sợ Chúa, bền chí, đáng trọng cũng sẽ làm trong tình huống đó – ông xin trát bắt giam, dĩ nhiên ký xin bằng tay trái, và Tom Robinson hiện đang ngồi trước quý vị, đã tuyên thệ bằng bàn tay duy nhất còn dùng được của anh ta – bàn tay phải.

“Và thế là một người da đen trầm lặng, đáng kính, khiêm tốn, một kẻ liều lĩnh một cách dại dột khi ‘cảm thấy tội nghiệp’ cho một phụ nữ da trắng, anh ta đã phải nói trái ngược với lời khai của hai người da trắng. Tôi không cần phải nhắc cho quý vị nhớ tới bề ngoài và cách cư xử của họ trên ghế nhân chứng - quý vị tự thấy. Ngoại trừ ông cảnh sát trưởng hạt Maycomb, các nhân chứng của bên công tố đã tự trình bày trước quý vị, trước toà án này, trong niềm tin bất cần đạo lý rằng lời khai của họ sẽ không bị nghi ngờ, tin rằng quý vị sẽ đồng ý với họ về giả định – giả định xấu xa – rằng tất cả người da đen đều nói dối, rằng tất cả người da đen cơ bản là những kẻ vô đạo đức, rằng tất cả đàn ông da đen đều không đáng tin cậy bên cạnh phụ nữ của chúng ta, một giả định gắn liền với não trạng của loại người như họ.

“Thưa quý vị, chúng ta biết giả định đó tự nó là lời dối trá đen tối như làn da của Tom Robinson, một lời dối trá mà tôi không phải vạch ra cho quý vị. Quý vị biết sự thật, và sự thật là: một số người da đen nói dối, một số người da đen vô đạo đức, một số đàn ông da đen không đáng tin cậy bên cạnh nữ giới – bất kể phụ nữ đen hay trắng. Nhưng đây là sự thật áp dụng cho loài người chứ không cho một chủng tộc riêng rẽ nào. Không một người nào trong phòng xử này chưa bao giờ nói dối, chưa bao giờ làm điều trái đạo đức, và chưa có người đàn ông nào không bao giờ nhìn một người phụ nữ mà không có ham muốn.”

Atticus ngừng lại rút khăn tay ra. Rồi ông gỡ kính ra lau, và chúng tôi thấy một “điều đầu tiên” khác nữa: chúng tôi chưa từng thấy ông đổ mồ hôi – ông là một trong số những người có khuôn mặt không bao giờ toát mồ hôi, nhưng lúc này mặt ông nâu bóng.

“Thưa quý vị, một điều nữa trước khi tôi nói xong. Thomas Jefferson đã một lần nói rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng [119], một câu mà bọn Yankee và nữ giới bên ngành Hành pháp[120] ở thủ đô Washington thích quăng vào chúng ta. Vào thời điểm 1935 năm sau khi Chúa giáng sinh này, một số người có xu hướng dùng câu ấy ngoài văn cảnh để thoả mãn mọi tình huống. Thí dụ lố bịch nhất tôi có thể nghĩ ra là những người điều hành nền giáo dục công lập cho đứa trẻ dốt nát và lười biếng cùng lên lớp với đứa chăm chỉ – vì tất cả mọi người sinh ra ngang bằng nhau, các nhà giáo dục sẽ nghiêm nghị nói với quý vị rằng bọn trẻ ở lại lớp sẽ chịu mặc cảm thua kém kinh khủng. Chúng ta biết mọi người sinh ra không ngang bằng nhau theo nghĩa một số người muốn chúng ta tin – một số thông minh hơn kẻ khác, một số có nhiều cơ hội hơn vì họ sinh ra với sẵn cơ hội, một số ông kiếm ra tiền nhiều hơn một số ông khác, một số bà có thể làm bánh ngon hơn một số bà khác – một số người sinh ra có năng khiếu vượt xa mức bình thường so với hầu hết mọi người khác.

“Nhưng có một chỗ trên đất nước này cho tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng – có một thể chế của con người khiến cho một kẻ cùng đinh bình đẳng với một Rockefeller, một người đần độn bình đẳng với một Einstein[121], một người dốt nát bình đẳng với bất kỳ vị viện trưởng đại học nào. Thưa quý vị, thể chế đó là toà án. Nó có thể là Tối cao Pháp viện của Hoa Kỳ, hay là toà hoà giải thấp nhất của đất nước, hay toà án danh giá mà quý vị đang phục vụ này. Toà án của chúng ta có các khuyết điểm của nó, như bất kỳ thể chế nào của con người, nhưng trên đất nước này toà án là thể chế bình đẳng vĩ đại, và trong toà án của chúng ta tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.

“Tôi không phải là kẻ lý tưởng tin chắc rằng toà án chúng ta và hệ thống bồi thẩm là hoàn hảo – đối với tôi nó không lý tưởng, nó là một thực tại sinh động, chấp nhận được. Thưa quý vị, một toà án không tốt hơn mỗi người quý vị đang ngồi trước tôi trong bồi thẩm đoàn này. Một toà án chỉ đúng như bồi thẩm đoàn của nó, và bồi thẩm đoàn chỉ đúng như các thành viên của nó. Tôi tin quý vị sẽ xem xét lại các chứng cớ quý vị đã nghe mà không bị tình cảm chi phối, đi đến quyết định, và trả bị cáo này về với gia đình anh ta. Vì Chúa, hãy làm nhiệm vụ của quý vị.”

Giọng Atticus trầm xuống, và khi quay lưng lại bồi thẩm đoàn ông nói điều gì tôi không nghe rõ. Ông nói với chính ông hơn là với toà. Tôi thúc Jem: “Ổng nói gì vậy?”

“Tao nghĩ ổng nói ‘Vì Chúa, hãy tin anh ta.’”

Dill bỗng chồm qua tôi rồi kéo Jem: “Nhìn đằng kia kìa!”

Chúng tôi nhìn theo ngón tay của nó và giật đứng tim. Calpurnia đang len lên lối đi giữa, bước thẳng tới Atticus.

 

 

 

 

21

 

Bà rụt rè ngừng lại nơi rào chắn chờ được thẩm phán Taylor chú ý. Bà mặc cái tạp dề mới giặt, tay bà cầm một bao thư.

Thẩm phán Taylor thấy bà liền hỏi: “Calpurnia đó phải không?”

Bà nói: “Vâng, thưa ông. Xin phép ông, tôi đưa thư này cho ông Finch được không? Thư không liên can gì tới… tới vụ xử này.”

Thẩm phán Taylor gật đầu, Atticus cầm lấy bao thư trong tay Calpurnia. Ông mở ra, đọc nội dung rồi nói: “Thưa toà, tôi… thư này của chị tôi. Chị ấy nói các con tôi mất tích, từ trưa tới giờ không thấy đâu… tôi… ông có thể…”

Ông Underwood lên tiếng: “Atticus, tôi biết tụi nó ở đâu. Tụi nó ở tuốt đằng kia trên ban công người da màu… ở đó từ lúc đúng một giờ mười tám phút trưa nay.”

Cha chúng tôi quay lại rồi nhìn lên. Ông gọi: “Jem, xuống đây.” Rồi ông nói điều gì với quan toà mà chúng tôi không nghe. Chúng tôi leo qua mục sư Sykes rồi len tới cầu thang.

Atticus và Calpurnia gặp chúng tôi dưới lầu. Calpurnia có vẻ cáu kỉnh, nhưng Atticus trông mệt nhoài.

Jem nhảy cỡn lên hào hứng: “Mình thắng, phải không?”

Atticus nói cộc lốc: “Ba không biết. Các con ở đây suốt buổi chiều à? Về nhà với Calpurnia rồi ăn tối… rồi ở nhà.”

Jem nài nỉ: “A, Atticus, cho tụi con quay lại. Làm ơn cho tụi con nghe bản án.”

“Bồi thẩm đoàn có thể ra rồi trở lại lập tức, mình không biết…” nhưng chúng tôi có thể thấy Atticus nguôi lại. “Ôi dào, các con đã nghe hết từ đầu, vì vậy các con cũng có thể nghe phần còn lại. Thôi thế này, các con có thể trở lại sau khi ăn xong bữa tối – ăn chậm rãi, các con sẽ không bỏ lỡ điều gì quan trọng đâu – và nếu bồi thẩm đoàn vẫn chưa xong thì các con có thể đợi với mọi người. Nhưng ba cho là sẽ xong trước khi các con trở lại.”

Jem hỏi: “Ba nghĩ họ tha bổng anh ta lẹ như vậy à?”

Atticus mở miệng định trả lời, nhưng ngậm lại rồi bỏ đi.

Tôi cầu mong mục sư Sykes sẽ giữ chỗ cho chúng tôi, nhưng ngừng cầu nguyện khi nhớ mọi người đã lũ lượt đứng dậy đi lúc bồi thẩm đoàn ra – tối nay họ sẽ tràn ngập tiệm tạp hoá, quán O.K. Café và khách sạn, đúng thế, trừ phi họ cũng mang theo thức ăn tối.

Calpurnia áp giải chúng tôi về nhà: “… lột da từng cô cậu, nghĩ coi, trẻ con như các cô cậu mà nghe hết mấy chuyện đó! Ông Jem, ông hổng nghĩ được gì hay hơn hay sao mà đem con nhỏ em của ông tới phiên xử đó? Bác Alexandra chắc chắn sẽ lên cơn tê liệt khi bác ấy biết! Hổng hợp cho con nít nghe…”

Đèn đường đã bật, chúng tôi thoáng thấy nét mặt Calpurnia căm phẫn lúc chúng tôi đi dưới ánh đèn. “Ông Jem, tôi tưởng ông có cái đầu nào đó trên vai… nghĩ coi, cô ấy là con nhỏ em của ông! Nghĩ coi, thưa cậu! Cậu nên tự xấu hổ lắm… cậu hổng biết nghĩ chút nào hay sao?”

Tôi thích chí. Quá nhiều thứ xảy ra quá nhanh đến nỗi tôi cảm thấy cần nhiều năm mới sắp xếp lại được, còn bây giờ Calpurnia đang hạ bệ ngay tại chỗ cậu Jem quý báu của bà xuống đất đen – tối nay còn thêm kỳ công nào nữa?

Jem cười khúc khích: “Cal, bà không muốn nghe vụ này à?”

“Im miệng lại, thưa cậu! Lúc cậu đáng lẽ phải cúi đầu xấu hổ thì cậu lại cười…” Calpurnia lặp lại một tràng đe doạ cũ kỹ chẳng làm Jem hối hận, rồi bà oai vệ đi lên bậc thềm trước nhà với câu cổ điển của bà: “Nếu ông Finch không cho cậu đứ đừ thì tôi sẽ… đi vào nhà, thưa cậu!”

Jem nhe răng đi vào, và Calpurnia gật đầu ngụ ý cho phép Dill vào ăn tối. Bà bảo nó: “Cậu liệu hồn gọi cô Rachel ngay lập tức cho cô biết cậu đang ở đâu. Cô ấy đã chạy nháo nhào tìm cậu… cậu coi chừng đừng để sáng sớm mai cô ấy đóng thùng gửi cậu về Meridian.”

Bác Alexandra đón chúng tôi và suýt bất tỉnh khi Calpurnia kể cho bác là chúng tôi ở đâu. Tôi đoán bác cảm thấy khó chịu khi chúng tôi kể cho bác là Atticus nói chúng tôi có thể trở lại, vì bác không nói tiếng nào suốt bữa ăn tối. Bác chỉ sắp xếp lại thức ăn trên đĩa của bác, buồn rầu nhìn nó, trong khi Calpurnia cáu kỉnh dốc sức dọn thức ăn cho Jem, Dill và tôi. Calpurnia vừa rót sữa, dọn sà lách trộn khoai tây và thịt heo muối, vừa lẩm bẩm “tự xấu hổ” với nhiều cường độ khác nhau. Mệnh lệnh cuối cùng bà là “Bây giờ các cô cậu ăn từ từ.”

Mục sư Sykes đã giữ chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi ngạc nhiên thấy mình đã đi về gần một tiếng, và cũng ngạc nhiên không kém khi thấy phòng xử đúng y như lúc chúng tôi ra về, với vài thay đổi nhỏ: khu bồi thẩm đoàn trống trơn, bị cáo vắng bóng, thẩm phán Taylor đã biến, nhưng ông tái xuất hiện khi chúng tôi ngồi vào chỗ.

Jem nói: “Hổng ai nhúc nhích chút xíu nào.”

Mục sư Sykes nói: “Họ đi loanh quanh một chút lúc bồi thẩm đoàn ra. Mấy ông dưới đó kiếm thức ăn tối cho mấy bà, rồi họ cho em bé ăn.”

Jem hỏi: “Họ ra ngoài đã lâu chưa?”

“Khoảng ba chục phút. Ông Finch với ông Gilmer có nói thêm, rồi thẩm phán Taylor dặn dò bồi thẩm đoàn trước khi họ hội ý.”

Jem hỏi: “Ông toà thế nào?”

“Nói làm sao nhỉ? Ồ, ông ta làm rất tốt. Tôi chẳng phàn nàn chút nào – ổng rất công bằng. Đại khái ổng nói nếu quý vị tin thế này thì quý vị sẽ phải tuyên án này, nhưng nếu quý vị tin thế kia thì quý vị sẽ phải tuyên án kia. Tôi nghĩ ổng hơi nghiêng về phía mình…” Mục sư Sykes gãi đầu.

Jem mỉm cười. Anh nói một cách thông thái: “Ổng có bổn phận không được nghiêng bên nào, thưa mục sư, nhưng đừng lo, mình thắng rồi. Hổng thấy bồi thẩm đoàn có cách nào kết tội dựa theo những gì mình đã nghe…”

“Nào, đừng quá tự tin, ông Jem, tôi chưa hề thấy bồi thẩm đoàn nào quyết định thiên về phía người da màu hơn người da trắng…” Nhưng Jem không đồng ý với mục sư Sykes, và chúng tôi phải chịu nghe điểm lại dài dòng các chứng cớ với ý kiến của Jem về luật liên quan tới hãm hiếp: nếu cô ta chịu thì không phải là hãm hiếp, nhưng cô ta phải mười tám tuổi – theo luật ở Alabama – và Mayella mười chín. Rõ ràng là phải đá với la hét, phải bị áp đảo và bị đạp ngã, bị đánh bất tỉnh càng tốt. Nếu dưới mười tám thì không cần phải chịu mấy thứ đó.

Mục sư Sykes ngập ngừng ngăn lại: “Ông Jem, chuyện này cho mấy cô nhỏ nghe thì hổng nhã nhặn…”

Jem nói: “Ối dào, nó không biết mình nói gì đâu. Scout, chuyện này quá lớn đối với mày, phải không?”

“Chắc chắn là không, em biết từng chữ anh đang nói.” Có lẽ tôi nói đáng tin quá, vì Jem im và không hề thảo luận vấn đề nữa.

Anh hỏi: “Mấy giờ rồi, thưa mục sư?”

“Gần tới tám giờ.”

Tôi nhìn xuống thấy Atticus đang xỏ tay trong túi đi loanh quanh: ông làm một vòng các cửa sổ, rồi đi dọc rào chắn tới khu bồi thẩm đoàn. Ông nhìn vào, xem xét thẩm phán Taylor trên ngai, rồi đi ngược về chỗ ông bắt đầu. Tôi bắt gặp mắt ông và vẫy ông. Ông nhận cử chỉ chào đón của tôi bằng cái gật đầu, rồi tiếp tục vòng đi của ông.

Ông Gilmer đứng bên dãy cửa sổ nói chuyện với ông Underwood. Bert, ông thư ký toà, hút thuốc liên miên, ngồi dựa ngửa, gác chân lên bàn.

Nhưng các viên chức toà án đang hiện diện – Atticus, ông Gilmer, thẩm phán Taylor đang ngủ ngon, và Bert – là những người duy nhất có thái độ dường như bình thường. Tôi chưa hề thấy một phòng xử chật cứng nào im đến thế. Thỉnh thoảng một em bé khóc nức nở, một đứa nhỏ chạy nhốn nháo ra ngoài, nhưng người lớn ngồi như thể họ đang ở trong nhà thờ. Trên ban công, người da đen đứng ngồi xung quanh chúng tôi với vẻ nhẫn nại của thời kinh thánh.

Chiếc đồng hồ già nua của toà án chịu căng thẳng từ lâu, gõ báo giờ, tám tiếng boong điếc tai làm rúng động tận xương chúng tôi.

Khi nó boong mười một lần thì tôi đã hết cảm giác: mệt vì chống lại cơn buồn ngủ, tôi thả mình thiếp đi một giấc ngắn trên cánh tay và bờ vai êm của mục sư Sykes. Tôi giật mình thức dậy, và thực tình cố giữ tỉnh táo bằng cách nhìn xuống lầu, tập trung vào mấy cái đầu bên dưới: mười sáu cái hói, mười bốn ông có thể xem như tóc đỏ, bốn chục cái đầu giữa nâu và đen, và… tôi nhớ đến điều Jem đã có lần giải thích cho tôi khi anh trải qua thời kỳ ngắn ngủi nghiên cứu tâm linh: anh nói nếu đủ người, có lẽ nếu đầy một sân vận động, chịu tập trung vào một ý, chẳng hạn như làm một cái cây trong rừng bốc cháy, thì cái cây đó sẽ tự cháy. Tôi vẩn vơ với ý tưởng yêu cầu mọi người bên dưới cùng tập trung vào việc trả tự do cho Tom Robinson, nhưng nghĩ nếu họ cũng mệt mỏi như tôi thì sẽ không hiệu quả.

Dill đang ngủ ngon, đầu nó trên vai Jem, và Jem đang im lặng.

Tôi hỏi anh: “Lâu quá hả?”

Anh vui vẻ nói: “Phải lâu chứ, Scout.”

“Ôi dào, theo cách anh nói thì chỉ cần năm phút.”

Jem nhướng mắt nói: “Có nhiều thứ mày không hiểu,” và tôi quá mệt không muốn cãi.

Nhưng chắc tôi phải khá tỉnh táo, nếu không tôi đã không nhận ra cái cảm giác đang len lỏi vào mình. Nó không khác với cảm giác tôi đã có hồi mùa đông vừa rồi, và tôi lạnh run, mặc dù đêm nay nóng. Cảm giác đó càng lúc càng tăng tới khi bầu không khí trong phòng xử đúng y như buổi sáng tháng Hai lạnh buốt, khi những con chim nhại lặng yên, các ông thợ mộc ngưng gõ búa bên căn nhà mới của cô Maudie, và mọi cánh cửa gỗ trong xóm đều đóng chặt như cửa nhà Radley. Đường phố vắng ngắt, chờ đợi, trống trải, và phòng xử chật ních người. Một tối mùa hè oi bức mà chẳng khác gì một sáng mùa đông. Ông Heck Tate vào phòng xử nói chuyện với Atticus, có thể ông đang đi đôi ủng cao và mặc áo khoác thợ rừng. Atticus đã ngừng vòng đi lặng lẽ, gác chân lên thanh thấp nhất của cái ghế, chầm chậm chà xát tay lên đùi trong lúc nghe ông Tate nói. Tôi mong chờ ông Tate nói ngay lúc ấy: “Đem anh ta về đi, ông Finch…”

Nhưng bằng giọng oang oang đầy uy quyền, ông Tate nói: “Yêu cầu vãn hồi trật tự trong toà,” và những cái đầu bên dưới bật dậy. Ông Tate ra khỏi phòng, rồi trở lại với Tom Robinson. Ông dẫn Tom tới bên cạnh Atticus, và đứng lại đó. Thẩm phán Taylor bỗng tỉnh táo ngồi thẳng lên nhìn khu bồi thẩm đoàn còn trống trải.

Những gì xảy ra sau đó tựa như giấc mơ: trong cơn mơ tôi thấy bồi thẩm đoàn trở lại, di chuyển như những người đang bơi dưới nước, và giọng thẩm phán Taylor nho nhỏ từ xa vọng đến. Tôi thấy một điều mà chỉ con của một luật sư mới có thể thấy, mới có thể trông chờ, tựa như nhìn Atticus bước xuống đường, nâng khẩu súng trường lên vai rồi bóp cò, nhưng trong suốt lúc nhìn đã biết rằng khẩu súng không nạp đạn.

Bồi thẩm đoàn không bao giờ nhìn bị cáo mà họ kết án, và khi đoàn bồi thẩm này vào, không ai trong đám họ nhìn Tom Robinson. Người trưởng đoàn đưa một mảnh giấy cho ông Tate, ông đưa nó cho viên thư ký, ông thư ký đưa nó cho quan toà…

Tôi nhắm mắt, thẩm phán Taylor đang hỏi bồi thẩm đoàn: “Có tội… có tội… có tội… có tội…” Tôi nhìn trộm Jem: hai tay anh trắng bệch vì nắm chặt lan can ban công, hai vai anh co giật như thể mỗi tiếng “có tội” là một nhát đâm vào giữa vai.

Thẩm phán Taylor nói vài lời. Cái búa của ông trong tay, nhưng ông không dùng nó. Lờ mờ, tôi thấy Atticus đang nhét giấy tờ trên bàn vào cặp. Ông đóng cặp lại, đến nói vài lời với viên thư ký toà, gật đầu chào ông Gilmer, sau đó tới thì thầm vài lời với Tom Robinson. Atticus đặt tay lên vai Tom lúc ông thì thầm. Atticus lấy cái áo vét của ông trên lưng ghế rồi khoác lên vai mình. Sau đó ông rời phòng xử, nhưng không đi bằng lối ra thường lệ của ông. Chắc ông muốn về nhà bằng đường ngắn, vì ông bước nhanh xuống lối đi giữa để tới cửa ra hướng nam. Tôi nhìn theo đỉnh đầu ông lúc ông bước ra cửa. Ông không nhìn lên.

Có người thúc tôi, nhưng tôi không muốn rời mắt khỏi những người bên dưới cùng với hình ảnh Atticus đang cô đơn bước xuống lối đi giữa.

“Cô Jean Louise?”

Tôi nhìn quanh. Họ đang đứng. Tất cả quanh chúng tôi và trên ban công bên phía bức tường đối diện, những người da đen đang đứng lên. Giọng mục sư Sykes xa xăm như giọng của thẩm phán Taylor:

“Cô Jean Louise, đứng lên chứ. Cha cô đang đi ngang.”

 

 

 

 

 

22

 

Đến lượt Jem khóc. Mặt anh lem luốc những dòng nước mắt giận dữ lúc chúng tôi len lỏi qua đám đông đang hớn hở. Anh lẩm bẩm “không đúng” đến tận góc quảng trường nơi chúng tôi thấy Atticus đang chờ. Atticus đứng dưới ngọn đèn đường trông như chẳng có gì xảy ra: áo gilê của ông cài cúc, cổ áo và cà vạt gọn gàng đúng chỗ, dây đeo đồng hồ lấp lánh, ông lại trở về với bản chất bình thản của ông.

Jem nói: “Không đúng, Atticus.”

“Ừ con, không đúng.”

Chúng tôi đi bộ về nhà.

Bác Alexandra đang thức đợi. Bác mặc áo khoác ở nhà, và tôi thề là bác có mặc áo nịt bên trong. Bác thì thầm: “Chị rất tiếc, em à.” Trước kia tôi chưa bao giờ nghe bác gọi Atticus là “em”, tôi liếc trộm Jem, nhưng anh không nghe. Anh ngước lên Atticus, rồi nhìn xuống sàn, tôi tự hỏi liệu anh có nghĩ Atticus phần nào chịu trách nhiệm về bản án của Tom Robinson hay không.

Bác hỏi: “Nó thế nào?” ám chỉ Jem.

Atticus nói: “Chốc nữa nó sẽ nguôi. Hơi quá mạnh đối với nó.” Cha chúng tôi thở dài nói: “Em đi ngủ. Nếu ngày mai em không thức dậy thì đừng gọi em.”

“Từ đầu tôi đã nghĩ không nên để chúng…”

Atticus nói: “Thưa chị, đây là quê của chúng. Mình đã tạo ra nó như thế cho chúng, chúng cũng nên học cách thích nghi với nó.”

“Nhưng chúng không phải đến toà án rồi hì hụp trong đó…”

“Toà án cũng là quận Maycomb như các bữa tiệc trà truyền giáo.”

“Atticus…” Mắt bác Alexandra lo lắng. “Tôi không nghĩ cậu sẽ hoá ra cay đắng vì việc này.”

“Em không cay đắng, em chỉ mệt. Em đi ngủ.”

Jem thảm não gọi: “Atticus…”

Ông quay lại nơi khung cửa: “Cái gì, con?”

“Làm sao họ có thể làm như thế, làm sao họ có thể?”

“Ba không biết, nhưng họ làm như thế. Trước kia họ đã làm như thế, tối nay họ làm như thế, và họ sẽ làm như thế nữa, và khi họ làm như thế… thì hình như chỉ có trẻ con khóc. Thôi, ngủ ngon.”

Nhưng khi trời sáng sự việc luôn luôn khá hơn. Atticus vẫn thức dậy đúng giờ giấc quái gở thường lệ của ông và ngồi trong phòng khách phía sau tờ Mobile Register lúc chúng tôi lảo đảo bước vào. Bộ mặt buổi sáng của Jem biểu lộ câu hỏi mà đôi môi ngái ngủ của anh cố nói.

Lúc chúng tôi vào phòng ăn, Atticus trấn an anh: “Chưa tới lúc lo. Mình chưa đi tới cùng mà. Con cứ cầm chắc là sẽ có kháng cáo. Trời ơi, Cal, cái gì thế này?” Ông nhìn đăm đăm vào đĩa thức ăn điểm tâm.

Calpurnia nói: “Sáng nay ông bố Tom Robinson gửi biếu ông con gà này. Tôi nấu nó.”

“Bà nhắn với ông ấy là tôi hân hạnh nhận… dám chắc là bữa điểm tâm ở Toà Bạch ốc cũng không có món gà. Những thứ gì đây?”

Calpurnia nói: “Bánh mì. Estelle dưới khách sạn gửi.”

Atticus ngạc nhiên nhìn bà, bà nói: “Ông Finch, ông nên ra đây xem trong bếp.”

Chúng tôi đi theo ông. Bàn nhà bếp đầy thức ăn đủ chôn cả gia đình: mấy tảng thịt heo muối, cà chua, đậu, có cả nho xạ. Atticus mỉm cười khi thấy một vại chân giò heo muối chua. “Chẳng hiểu bác gái có cho tôi ăn các món này trong phòng ăn không?”

Calpurnia nói: “Sáng nay mấy thứ này để đầy trên thềm sau nhà lúc tôi đến. Họ… họ cám ơn những việc ông làm, ông Finch. Họ… họ không quá trớn chứ?”

Lệ dâng lên mắt Atticus. Ông lặng im một lúc. Rồi ông nói: “Bảo với họ là tôi rất biết ơn. Bảo họ… bảo họ là đừng bao giờ làm thế này nữa. Thời buổi quá khó khăn…”

Ông ra khỏi gian bếp, vào phòng ăn cáo từ bác Alexandria, rồi đội mũ đi ra thị trấn.

Chúng tôi nghe bước chân Dill trong hành lang, vì thế Calpurnia để lại đĩa điểm tâm chưa ăn của Atticus trên bàn. Vừa nhấm như thỏ, Dill vừa kể cho chúng tôi phản ứng của cô Rachel tối hôm qua: nếu một người như Atticus Finch muốn húc đầu vô bức tường đá thì đó là cái đầu của ổng.

Dill vừa làu bàu, vừa gặm đùi gà: “Tao đã làm bả nói được rồi, nhưng sáng nay bả có vẻ hổng thích nói cho lắm. Nói dì thức cả nửa buổi tối lo tao ở đâu, nói lẽ ra dì đã nhờ ông cảnh sát trưởng kiếm tao nhưng ổng kẹt ở toà.”

Jem nói: “Dill, mày phải bỏ cái thói đi mất tiêu mà không nói với dì. Mày chỉ làm dì bực thêm.”

Dill thở dài cam chịu: “Tao đã nói với dì cho tới khi tao xanh lè mặt mũi là tao đi đâu… bả chỉ thấy toàn rắn rít trong tủ áo. Dám cá là sáng nào cái bà đó cũng uống nửa lít để điểm tâm… biết bả uống hai ly đầy. Thấy bả mà.”

Bác Alexandra nói: “Đừng nói kiểu đó, Dill. Trẻ con nói như vậy không hợp. Như vậy là… nhạo báng.”

“Cháu hổng có nhạo báng, thưa bác Alexandra. Nói sự thật thì đâu có là nhạo báng, phải không?”

“Cách cháu nói là nhạo báng.”

Jem nháy bác, nhưng anh nói với Dill: “Mình đi. Mày cứ cầm theo cái cẳng gà đó.”

Khi chúng tôi ra đến hiên trước nhà, cô Stephanie Crawford đang tíu tít kể cho cô Maudie Atkinson và ông Avery. Họ ngoái nhìn chúng tôi rồi tiếp tục nói. Jem gừ một tiếng dữ tợn trong cổ họng. Tôi ước gì có một món vũ khí.

Dill nói: “Tao ghét người lớn nhìn tụi mình. Nó làm mình cảm thấy như mình đã làm cái gì quấy.”

Cô Maudie réo Jem Finch tới đây.

Jem rên rỉ rồi nặng nề ra khỏi xích đu. Dill nói: “Tụi tao đi với mày.”

Mũi cô Stephanie phập phồng vì tò mò. Cô muốn biết ai cho phép chúng tôi đến toà án – cô không thấy chúng tôi nhưng sáng nay cả thị trấn xôn xao rằng chúng tôi ngồi trên ban công người da màu. Có phải Atticus đã đưa chúng tôi lên đó như một cách…? Có đúng không khi ở tuốt trên đó gần tụi…? Scout có hiểu tất cả những…? Bọn tôi không tức khi thấy cha chúng tôi thua à?

“Im đi, Stephanie.” Cách nói của cô Maudie dữ tợn. “Tôi không phí cả buổi sáng để vớ vẩn trên hàng hiên đâu… Jem Finch, cô gọi để biết cháu và các đồng nghiệp của cháu có muốn ăn bánh không. Cô thức dậy lúc năm giờ để làm bánh, vì vậy cháu phải nói là muốn. Chúng tôi xin kiếu, Stephanie. Chào ông, ông Avery.”

Ổ bánh lớn với hai ổ nhỏ nằm trên bàn nhà bếp của cô Maudie. Đáng lẽ phải có ba ổ nhỏ. Cô Maudie không phải là người có thể quên Dill, và điệu bộ chúng tôi hẳn đã cho thấy ý nghĩ đó. Nhưng chúng tôi hiểu khi cô cắt ổ bánh lớn rồi đưa một miếng cho Jem.

Lúc ăn, chúng tôi cảm thấy đây là cách cô Maudie nói theo cô thấy thì chẳng có gì thay đổi. Cô ngồi im trên ghế nhà bếp, nhìn chúng tôi.

Bất chợt cô nói: “Đừng bực dọc, Jem. Sự việc chẳng bao giờ tệ hại như mình tưởng.”

Ở trong nhà, mỗi khi cô Maudie muốn nói điều gì dài dòng, cô xoè mấy ngón tay trên đầu gối và gắn lại răng giả. Cô đã làm như thế, và chúng tôi chờ.

“Cô chỉ muốn nói cho cháu là có một số người trên đời này sinh ra để làm hộ cho mình những việc mình không thích. Ba của cháu là một người trong số họ.”

Jem nói: “Ồ, ôi dào.”

“Cậu đừng ồ, ôi dào với tôi,” cô Maudie đáp trả, nhận ra giọng chết rồi của Jem, “cậu chưa đủ lớn để hiểu thấu điều tôi nói đâu.”

Jem nhìn đăm đăm miếng bánh đang ăn dở của anh. Anh nói: “Giống như con sâu trong cái kén, giống như vậy. Giống như cuộn mình ngủ trong một chỗ ấm áp. Cháu thường nghĩ dân Maycomb là những người tốt nhất thế giới, ít nhất họ cũng có vẻ như thế.”

Cô Maudie nói: “Mình là những người sống yên ổn nhất trên thế giới. Ít khi mình bị kêu gọi làm người nhân đức, nhưng khi bị gọi thì có những người như Atticus làm cho mình.[122]

Jem cười thảm não: “Mong là những người khác trong quận hạt cũng nghĩ như vậy.”

“Cháu sẽ ngạc nhiên là có nhiều người mình nghĩ như vậy.”

Giọng Jem cất cao: “Ai? Ai trong thị trấn này làm một việc gì để giúp Tom Robinson, ai?”

“Bạn bè da màu của anh ta là một, và những người như mình. Những người như thẩm phán Taylor. Những người như ông Heck Tate. Ngừng ăn rồi bắt đầu suy nghĩ đi, Jem. Cháu có thấy là không phải bỗng dưng thẩm phán Taylor đã chỉ định Atticus biện hộ cho anh chàng đó? Lý do gì thẩm phán Taylor chỉ định ông?”

Đó là một ý để suy nghĩ. Luật sư biện hộ do toà chỉ định thường là Maxwell Green, người cuối cùng vào luật sư đoàn ở Maycomb và cần kinh nghiệm. Maxwell Green lẽ ra đã nhận vụ Tom Robinson.

Cô Maudie nói: “Cháu nghĩ xem. Đâu phải tình cờ. Tối hôm qua cô ngồi trên hàng hiên, chờ. Cô chờ và cứ chờ để thấy các cháu về dưới vỉa hè, rồi trong lúc chờ cô nghĩ, Atticus Finch sẽ không thắng, ông ấy không thể thắng, nhưng ông ấy là người duy nhất ở vùng này có thể khiến bồi thẩm đoàn bàn lâu như thế trong một vụ án như thế. Và cô tự nghĩ, ồ, chúng ta tiến được một bước… chỉ một bước nhỏ, nhưng là một bước.”

Jem lẩm bẩm: “Nói như thế cũng đúng… không một thẩm phán hay một luật sư nhân đức nào có thể bù đắp cho bồi thẩm đoàn man rợ[123]. Khi cháu lớn lên…”

Cô Maudie nói: “Đó là việc cháu sẽ phải gánh vác với ba cháu.”

Chúng tôi xuống bậc thềm mát mẻ mới đóng của cô Maudie, bước vào ánh nắng và thấy ông Avery với cô Stephanie Crawford còn ở đó. Họ đã đi lùi xuống đứng trước vỉa hè nhà cô Stephanie. Cô Rachel đang bước tới họ.

Dill nói: “Tao nghĩ khi lớn lên tao sẽ làm thằng hề.”

Jem và tôi dừng bước.

Nó nói: “Đúng vậy thưa quý vị, một thằng hề. Trên đời này không có gì để tao có thể tỏ ra với thiên hạ, ngoại trừ cười, vì vậy tao sẽ gia nhập gánh xiếc rồi cười sặc sụa.”

Jem nói: “Dill, mày hiểu ngược. Mấy ông hề, họ buồn, thiên hạ mới là kẻ cười họ.”

“Ôi dào, tao sẽ là thằng hề kiểu mới. Tao sẽ đứng giữa vòng rồi cười thiên hạ. Coi kìa,” nó chỉ, “cả đám họ lẽ ra nên cưỡi cán chổi. Dì Rachel đã cưỡi rồi.”

Cô Stephanie và cô Rachel đang rối rít vẫy chúng tôi, cách vẫy cho thấy Dill quan sát không hẳn là sai.

Jem thở ra: “Ôi trời ơi, tao nghĩ nếu không tới gặp họ thì kỳ cục.”

Có điều gì trục trặc. Mặt ông Avery đỏ vì một trận hắt hơi và gần như hắt văng chúng tôi khỏi vỉa hè khi chúng tôi đến gần. Cô Stephanie run rẩy vì hào hứng, cô Rachel nắm vai Dill. Cô nói: “Mấy đứa vào sân sau rồi ở trong đó. Đang nguy hiểm.”

Tôi hỏi: “Chuyện gì vậy?”

“Mấy đứa chưa nghe à? Cả thị trấn…”

Đúng lúc đó bác Alexandra ra cửa gọi chúng tôi, nhưng bác ra quá trễ. Cô Stephanie đã thích thú kể cho chúng tôi: sáng nay ông Bob Ewell chặn Atticus lại ở góc bưu điện, nhổ nước bọt vào mặt ông, và bảo dù mất cả đời ông ta cũng sẽ trả thù.

 

 

 

 

 

23

 

“Ước gì Bob Ewell không nhai thuốc lá,” Atticus chỉ nói thế khi nhắc tới vụ đó.

Tuy nhiên, theo lời cô Stephanie Crawford, lúc Atticus rời bưu điện, ông Ewell tiến đến, chửi ông, nhổ nước bọt vào ông, rồi doạ giết ông. Cô Stephanie (lúc này đã kể đến lần thứ hai, cô có mặt lúc đó và thấy hết, cô đang từ siêu thị Jitney Jungle về ngang) – cô Stephanie nói Atticus không chớp mắt, chỉ rút khăn tay ra lau mặt rồi đứng đó để ông Ewell chửi bằng những lời mà lũ ngựa hoang cũng không thể bảo cô lặp lại được. Ông Ewell là cựu chiến binh của cuộc chiến nào không rõ, điều đó cộng với phản ứng ôn hoà của Atticus có thể khiến ông ta lập tức hỏi: “Kiêu ngạo quá hổng thèm đánh lộn hả thằng khốn yêu tụi mọi đen?” Cô Stephanie kể Atticus nói: “Không, già quá rồi,” rồi xỏ tay vô túi đi tiếp. Cô Stephanie nói phải khen Atticus Finch, đôi lúc ổng có thể tỉnh khô.

Jem và tôi không nghĩ là thú vị.

Tôi nói: “Dù sao, xét cho cùng thì ổng một thời là thiện xạ dễ sợ nhất trong hạt. Ổng có thể…”

Jem nói: “Mày biết ổng hổng chịu mang súng, Scout. Ổng thậm chí hổng có khẩu súng nào… Mày biết thậm chí tối hôm đó ở đằng nhà tù ổng cũng hổng có khẩu nào. Ổng bảo tao là có súng bên cạnh là mời người ta bắn mình.”

Tôi nói: “Chuyện này khác. Mình có thể nói ổng mượn một khẩu.”

Chúng tôi nói, và ông bảo: “Vớ vẩn.”

Dill có ý kiến là kêu gọi bản năng tự nhiên của Atticus thì có thể hiệu quả: xét cho cùng, chúng tôi sẽ chết đói nếu ông Ewell giết ông, chưa kể việc bị bác Alexandra độc quyền nuôi tới lớn, và tất cả chúng tôi đều biết điều đầu tiên bác sẽ làm trước khi Atticus nằm dưới ba thước đất là thải hồi Calpurnia. Jem nói có thể hiệu quả nếu tôi khóc rồi bù lu bù loa ngất xỉu, vì tôi còn nhỏ và là con gái. Cách đó cũng không hiệu quả.

Nhưng khi Atticus thấy chúng tôi lê lết quanh xóm, không ăn, không màng theo đuổi những trò chơi thường lệ của mình nữa, ông nhận ra là chúng tôi sợ tới mức nào. Một đêm ông dụ dỗ Jem bằng một tờ tạp chí bóng bầu dục mới; khi thấy Jem lật qua các trang rồi ném sang một bên, ông hỏi: “Cái gì làm con khó chịu?”

Jem vào thẳng vấn đề: “Ông Ewell.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Chẳng có chuyện gì. Tụi con sợ cho ba, tụi con nghĩ ba nên làm cái gì đó về vụ ông ta.”

Atticus cười hóm hỉnh: “Làm gì? Bắt ông ta cam kết hoà bình à?”

“Khi một người nói sẽ trả thù mình thì có vẻ họ định làm thật.”

Atticus nói: “Lúc ông ta nói thì ông ta có ý đó. Jem, thử xem con có thể đứng trong vị thế của Bob Ewell một chút không. Ba phá mất chút uy tín cuối cùng của ông ta trong vụ án đó, nếu trước đó ông ta có chút gì đáng tin. Ông ta phải có cách trả đũa, loại người như ông ta luôn như thế. Vì vậy nếu nhổ vào mặt ba và đe doạ ba mà tránh được cho Mayella Ewell khỏi bị một trận đòn nữa thì ba vui lòng nhận. Ông ta phải trút lên một người nào đó, và ba thà là mình chịu, còn hơn là cả cái nhà đầy trẻ con ngoài đó phải chịu. Con hiểu không?”

Jem gật đầu.

Bác Alexandra vào phòng lúc Atticus đang nói: “Mình không có gì phải sợ Bob Ewell, sáng hôm đó ông ta đã trút hết ruột gan ra rồi.”

Bác nói: “Tôi không chắc đâu, Atticus. Loại người như hắn sẽ làm bất kỳ cái gì để trả thù. Cậu biết loại người đó.”

“Ewell làm gì được em, thưa chị?”

Bác Alexandra nói: “Làm lén lút. Rồi cậu xem.”

Atticus đáp: “Chẳng ai ở Maycomb có cơ hội để lén lút.”

Sau hôm đó chúng tôi hết sợ. Mùa hè đang qua dần, chúng tôi phải tận hưởng nó. Atticus cam đoan với chúng tôi rằng sẽ không có gì xảy ra cho Tom Robinson tới khi toà trên xem xét lại vụ án, và Tom có nhiều cơ hội được trả tự do, hay ít nhất sẽ có một vụ xử mới. Anh ta đang ở Trại giam Enfield bên hạt Chester cách đây bảy mươi dặm. Tôi hỏi Atticus liệu vợ con Tom có được phép thăm anh ta không, nhưng Atticus nói không.

Một đêm tôi hỏi: “Nếu kháng cáo thất bại thì anh ta bị cái gì?”

Atticus nói: “Anh ta sẽ lên ghế điện, trừ phi thống đốc giảm án. Chưa tới lúc lo đâu, Scout. Mình có cơ hội tốt mà.”

Jem đang nằm bò trên ghế nệm đọc tờ tạp chí Popular Mechanics[124]. Anh ngước lên: “Vô lý. Ngay cả nếu có tội, anh ta cũng đâu có giết ai. Anh ta không lấy mạng sống của ai.”

Atticus nói: “Con phải biết hãm hiếp là tội tử hình ở Alabama.”

“Vâng thưa ba, nhưng bồi thẩm đoàn không cần phải cho anh ta bản án tử hình… nếu họ muốn họ có thể cho anh ta hai chục năm.”

Atticus nói: “Tuy vậy, Tom Robinson là người da màu, Jem. Đối với một tội như thế, không bồi thẩm đoàn nào trên vùng đất này nói ‘Chúng tôi nghĩ anh có tội, nhưng không nặng lắm’. Hoặc là hoàn toàn trắng án hoặc là không.”

Jem lắc đầu: “Con biết là sai, nhưng con không nói được sai chỗ nào… có lẽ hãm hiếp không nên là tội tử hình…”

Atticus buông tờ báo xuống bên cạnh ghế ngồi. Ông nói ông không tranh cãi gì về luật hãm hiếp, hoàn toàn không, nhưng ông rất sợ khi bên công tố yêu cầu và bồi thẩm đoàn tuyên án tử hình mà chỉ dựa vào chứng cớ suy diễn gián tiếp. Ông liếc tôi, thấy tôi đang lắng nghe, bèn nói cho dễ hiểu hơn: “… ba muốn nói chẳng hạn khi một người bị án tử hình vì tội sát nhân thì phải có một hay hai nhân chứng thấy tận mắt. Một người nào đó phải nói được là ‘Ừ, tôi có ở đó và thấy hắn bóp cò.’”

Jem nói: “Nhưng nhiều người bị treo – chết treo – dựa trên chứng cớ suy diễn gián tiếp.”

“Ba biết, và nhiều người trong số đó có lẽ cũng đáng bị… nhưng thiếu nhân chứng thấy tận mắt thì luôn luôn vẫn còn ngờ, đôi khi chỉ một mảy may nghi ngờ. Luật nói ‘nghi ngờ hợp lý,’ nhưng ba nghĩ bị cáo có quyền dựa trên một mảy may nghi ngờ. Luôn luôn có khả năng là anh ta vô tội, bất kể khả năng đó mơ hồ như thế nào.”

“Vậy thì tất cả quy về với bồi thẩm đoàn. Mình nên bỏ thể chế bồi thẩm đoàn.” Jem trở nên cứng rắn.

Atticus hết sức cố đừng mỉm cười nhưng không được. “Con khó khăn quá với mình, con à. Ba nghĩ có thể có một cách tốt hơn. Đổi luật. Đổi sao cho chỉ quan toà mới có quyền đưa ra bản án trong các vụ liên can đến tội tử hình.”

“Vậy thì lên Montgomery đổi luật.”

“Con sẽ ngạc nhiên khi thấy đổi luật khó thế nào. Đời ba sẽ không thấy luật thay đổi, và nếu con còn sống để thấy nó đổi thì lúc đó con đã là ông già.”

Đổi luật không đủ đối với Jem. “Không thưa ba, họ nên bỏ thể chế bồi thẩm đoàn. Anh ta vô tội ngay từ đầu, vậy mà họ nói anh ta có tội.”

Atticus nói: “Con à, nếu con ở trong bồi thẩm đoàn đó với mười một đứa trẻ khác như con thì Tom sẽ được trả tự do. Cho tới nay chưa có gì trong đời con cản trở trình tự suy luận của con. Trong cuộc sống hằng ngày, mười hai người trong bồi thẩm đoàn của Tom là những người biết lẽ phải, nhưng con thấy một điều xen giữa họ và lẽ phải. Tối hôm ở trước cửa nhà tù con cũng thấy tương tự. Khi đám người đó bỏ đi, họ không bỏ đi như những người biết lẽ phải, họ đi vì mình ở đó. Có điều gì đó trong cuộc sống làm người ta mất suy nghĩ – họ không thể công bằng cho dù họ cố. Trong toà án của mình, khi lời một người da trắng ngược lại lời một người da đen, thì người da trắng luôn luôn thắng. Điều đó xấu xí, nhưng đó là thực tế của cuộc sống.”

Jem lừ đừ nói: “Dù vậy vẫn không đúng.” Anh đấm nhẹ nắm tay lên đầu gối. “Không thể kết án một người dựa trên chứng cớ như vậy… không thể.”

“Con không thể, nhưng họ có thể và họ kết án. Càng lớn con càng thấy nhiều điều như thế. Một chỗ mà người ta nên được đối xử sòng phẳng là toà án, bất kể da anh ta màu gì trên cầu vồng, nhưng thiên hạ có cách để đem nỗi uất ức của họ vào tận bục bồi thẩm. Khi con lớn hơn, con sẽ thấy người da trắng lừa gạt người da đen hằng ngày trong đời con, nhưng để ba nói với con một điều và con đừng quên – mỗi khi một người da trắng làm như thế đối với một người da đen, bất kể anh ta là ai, anh ta giàu có đến đâu, hay anh ta xuất thân từ gia đình sang trọng tới mức nào, thì anh da trắng đó vẫn là thứ rác rưởi.”

Atticus nói lặng lẽ đến nỗi chữ cuối cùng của ông đập vào tai chúng tôi. Tôi nhìn lên, mặt ông tỏ vẻ mãnh liệt. “Đối với ba, không có gì tởm hơn một gã da trắng thấp hèn lợi dụng sự dốt nát của một người da đen. Đừng tự lừa mình… tất cả đều tích lại và sẽ có ngày mình phải trả giá. Ba hy vọng trong thời của các con không như vậy.”

Jem đang gãi đầu. Bỗng nhiên mắt anh mở lớn. Anh nói: “Atticus, tại sao những người như mình và cô Maudie không bao giờ ngồi trong bồi thẩm đoàn? Ba không bao giờ thấy ai ở Maycomb trong bồi thẩm đoàn… họ toàn từ trong rừng ra cả.”

Atticus dựa ngửa ra trên cái ghế bập bênh. Chẳng hiểu sao ông có vẻ hài lòng về Jem. Ông nói: “Ba đang tự hỏi khi nào thì con nghĩ tới ý đó. Có nhiều lý do. Một lý do cô Maudie không thể làm bồi thẩm vì cô là phụ nữ…[125]

Tôi uất ức: “Ba nói phụ nữ ở Alabama không được…?”

“Ừ. Ba đoán là để tránh cho quý bà quý phái mỏng manh khỏi gặp mấy vụ nhớp nhúa như vụ của Tom. Ngoài ra,” Atticus nhe răng cười, “ba không biết bao giờ mình mới xử xong một vụ phức tạp… các bà sẽ xen vào hỏi.”

Jem và tôi cười ồ. Cô Maudie trong bồi thẩm đoàn sẽ gây ấn tượng sâu sắc. Tôi nghĩ tới cụ bà Dubose trên chiếc xe lăn, “John Taylor, đừng gõ lóc cóc nữa, tôi muốn hỏi ông này một điều.” Có lẽ tổ tiên chúng tôi khôn ngoan.

Atticus nói: “Với những người như mình… đó là phần mình phải trả. Nói chung mình thế nào thì sẽ có bồi thẩm đoàn thế ấy. Đầu tiên là các công dân dũng cảm của Maycomb không quan tâm. Thứ nhì là họ sợ. Rồi họ…”

Jem hỏi: “Tại sao sợ?”

“Ồ, nếu mà… chẳng hạn, ông Link Deas phải quyết định số thiệt hại phải bồi thường, chẳng hạn, cho cô Maudie, khi cô Rachel lái xe cán lên cô ấy. Link sẽ không muốn mất bà khách hàng nào ở tiệm của ông ấy, đúng không? Vì thế ông ấy bảo thẩm phán Taylor là không làm bồi thẩm được vì không có ai coi tiệm giùm cho khi ông ấy đi vắng. Thế là thẩm phán Taylor miễn cho ông ấy. Đôi khi ổng bực tức mà cho miễn.”

Tôi hỏi: “Cái gì làm ông ấy nghĩ một trong hai cô sẽ ngưng không mua bán với ông ấy nữa?”

Jem nói: “Cô Rachel sẽ ngưng, cô Maudie vẫn mua. Nhưng bồi thẩm đoàn bỏ phiếu kín mà, Atticus.”

Cha tôi cười khúc khích. “Con còn phải học nhiều lắm, con à. Phiếu của bồi thẩm đoàn được coi là bí mật. Phục vụ trong bồi thẩm đoàn buộc người ta phải quyết định về một vấn đề rồi tuyên bố ra. Người ta không thích làm như thế. Đôi khi việc đó không dễ chịu.”

Jem lẩm bẩm: “Bồi thẩm đoàn của Tom chắc quyết định vội vàng.”

Ngón tay Atticus thò tới túi áo đựng đồng hồ. “Không, họ không vội,” ông nói với chính ông hơn là với chúng tôi. “Đó là điều làm ba nghĩ, ồ, có thể bóng dáng của một thời điểm mới đang lấp ló. Bồi thẩm đoàn đó mất mấy tiếng. Có lẽ không thể tránh khỏi bản án đó, nhưng thông thường họ chỉ mất vài phút. Lần này…” ông ngừng ngang rồi nhìn chúng tôi. “Có thể các con muốn biết là có một ông rất kiên trì khó bị thuyết phục… lúc đầu ông ta háo hức muốn dứt khoát tha bổng.”

Jem sửng sốt: “Ai?”

Mắt Atticus lấp lánh. “Ba không phải là người nên nói, nhưng ba sẽ kể cho các con bây nhiêu. Ông ấy là một trong các bạn của con ở Old Sarum …”

Jem la ăng ẳng: “Một người nhà Cunningham à? Một người… con không nhận ra ai trong số họ… ba nói đùa.” Anh liếc Atticus qua khoé mắt.

“Một người bà con của họ. Qua linh tính, ba không gạt ông ta khỏi bồi thẩm đoàn. Chỉ qua linh tính. Đáng lẽ gạt ra, nhưng ba không gạt.”

Jem cung kính thốt lên:. “Thánh thần ơi. Phút trước họ định giết anh ta, phút sau họ định thả anh ta… Tới chết con cũng không bao giờ hiểu được mấy người đó.”

Atticus nói mình chỉ cần biết họ. Ông nói nhà Cunningham không nhận hay lấy bất cứ cái gì của ai từ khi họ di cư qua Tân Thế giới. Ông nói một điều nữa về họ là một khi mình được họ kính trọng thì họ sẽ ủng hộ mình cả hai chân hai tay. Atticus nói ông có cảm giác, chỉ là hồ nghi, rằng tối hôm đó họ rời nhà tù với lòng kính trọng đáng kể dành cho dòng họ Finch. Rồi ông nói cũng cần một cú sét đánh cộng với một ông Cunningham nữa mới làm một người trong số họ suy nghĩ lại. “Nếu mình có hai người trong đám đó thì mình đã có một bồi thẩm đoàn không thể đồng lòng kết tội.”

Jem chậm rãi nói: “Ba nói là quả thật ba chịu để cho một ông tối hôm trước muốn giết ba được vào bồi thẩm đoàn à? Làm sao ba có thể chấp nhận rủi ro như vậy, Atticus, làm sao vậy?”

“Khi phân tích thì con sẽ thấy ít rủi ro. Giữa một ông sẽ kết án với một ông khác cũng sẽ kết án thì chẳng có gì khác nhau, đúng không? Giữa một người sẽ kết án với một người hơi chao đảo thì sẽ có chút khác biệt, đúng không? Anh ta là người duy nhất do dự trong cả danh sách.”

Tôi hỏi: “Ông đó họ hàng thế nào với ông Walter Cunningham?”

Atticus đứng lên vươn vai rồi ngáp. Chưa tới giờ ngủ của Jem và tôi, nhưng chúng tôi biết ông muốn có dịp đọc báo. Ông nhặt báo lên, gấp lại, rồi gõ lên đầu tôi. “Xem nào,” ông ậm ừ một mình, “à, biết rồi. Anh chị em họ đôi đời thứ nhất[126].”

“Làm sao mà có được?”

“Hai chị em gái cưới hai anh em trai. Ba nói thế thôi – con tự tìm ra.”

Tôi tự hành hạ tra vấn mình rồi kết luận là nếu tôi cưới Jem và Dill cưới em gái nó, nếu nó có em gái, thì con chúng tôi thì sẽ là anh chị em họ đôi đời thứ nhất. Khi Atticus đã đi ra, tôi nói: “Ối trời ơi, Jem, họ buồn cười. Bác có nghe không, thưa bác?”

Bác Alexandra đang móc một tấm thảm và không nhìn chúng tôi, nhưng bác lắng nghe. Bác ngồi trên ghế với cái rổ đan bên cạnh, tấm thảm trải trên đùi bác. Tôi không bao giờ hiểu nổi tại sao các bà lại móc thảm len vào những đêm oi nồng.

Bác nói: “Bác có nghe.”

Tôi nhớ lại lần tai hại đã lâu lúc tôi vội vàng biện hộ cho thằng Walter Cunningham. Bây giờ tôi mừng là mình đã cãi cho nó. Tôi dự tính: “Khi nào tựu trường, em sẽ rủ Walter về nhà ăn trưa,” quên mất quyết tâm kín đáo của mình là lần tới gặp nó tôi sẽ đánh nó te tua. “Thỉnh thoảng nó cũng có thể ở lại sau khi tan trường. Atticus có thể lái xe chở nó về Old Sarum. Có lẽ thỉnh thoảng nó có thể ở lại qua đêm với mình, được chứ, Jem?”

Bác Alexandra nói: “Mình sẽ xem sao,” một lời tuyên bố luôn luôn là dấu hiệu không đồng ý của bác, chứ chẳng bao giờ có thể xảy ra. Ngạc nhiên, tôi quay sang bác: “Tại sao không, thưa bác? Họ là người tốt mà.”

Bác nhìn tôi qua gọng kính may. “Jean Louise, bác không hoài nghi việc họ là người tốt. Nhưng họ không thuộc loại người như mình.”

Jem nói: “Scout, ý bác là họ tào lao.”

“Tào lao là gì?”

“À, thô lậu. Đại khái là họ tầm phào.”

“Ồ, em cũng…”

Bác Alexandra nói: “Đừng vớ vẩn, Jean Louise. Vấn đề là cháu có thể kỳ cọ Walter Cunningham cho tới khi nó sáng loáng, cháu có thể cho nó đi giày mặc áo vét mới, nhưng nó sẽ không bao giờ như Jem. Vả lại, gia đình đó có tì vết nhậu nhẹt rõ mồn một. Phụ nữ nhà Finch không chú ý tới loại người đó.”

Jem nói: “Bá-ác, nó chưa tới chín tuổi.”

“Nó cũng có thể học từ bây giờ.”

Bác Alexandra đã phán. Tôi nhớ rõ lại lần bác tỏ ra cứng rắn gần đây nhất. Tôi chẳng bao giờ hiểu tại sao. Lần đó tôi mê mải dự tính đến thăm nhà Calpurnia – tôi tò mò, thích thú, tôi muốn là “bồ bịch” của bà, để thấy bà sống ra sao, bạn của bà là ai. Tôi có thể cũng muốn thấy phía bên kia của mặt trăng. Lần này cách thức khác, nhưng mục đích của bác Alexandra vẫn như cũ. Có lẽ đó là lý do bác đến sống với chúng tôi – để giúp chúng tôi chọn bạn. Tôi sẽ hết sức cản bác lại: “Nếu họ là người tốt thì tại sao cháu không được tử tế với Walter?”

“Bác không nói đừng tử tế với nó. Cháu nên thân thiện và lịch sự với nó, cháu nên hoà nhã với mọi người. Nhưng cháu không cần phải mời nó về nhà.”

“Nếu nó là họ hàng với mình thì sao, thưa bác?”

“Sự thật là nó không có họ với mình, nhưng nếu có thì câu trả lời của bác vẫn y như vậy.”

Jem lên tiếng: “Thưa bác, Atticus nói mình có thể chọn bạn nhưng chắc chắn mình không thể chọn họ hàng, họ vẫn là họ hàng của mình dù mình có chịu nhận họ hay không, và nếu không nhận họ thì mình có vẻ vớ vẩn.”

Bác Alexandra nói: “Lại ba cháu nói nữa, bác vẫn nói là Jean Louise sẽ không mời Walter Cunningham tới nhà này. Nếu nó có là anh chị em họ đôi đời thứ hai của cháu thì nhà này vẫn không đón tiếp nó, trừ phi nó tới gặp Atticus vì công việc. Thế thôi.”

Bác đã nói Không-Thế-Thôi, nhưng lần này bác sẽ phải nói lý do, “Nhưng thưa bác, cháu muốn chơi với Walter, tại sao lại không được?”

Bác gỡ kính ra rồi nhìn tôi đăm đăm. Bác nói: “Bác sẽ nói cho cháu tại sao. Vì-nó-là-rác, vì thế cháu không được chơi với nó. Bác sẽ không để cháu quanh quẩn với nó, bắt chước thói của nó rồi học những cái Trời-mà-biết. Bản thân cháu là đã đủ rắc rối cho ba cháu rồi.”

Tôi không biết mình nên làm gì, nhưng Jem ngăn tôi lại. Anh nắm vai tôi, quàng tay quanh tôi, rồi dắt tôi đang nức nở dữ dội về phòng anh. Atticus nghe tiếng chúng tôi, ông thò đầu qua cửa. Jem nói cộc lốc: “Không có gì đâu ba, chẳng có gì.” Atticus bỏ đi.

Jem lục lọi trong túi rồi lôi ra thỏi kẹo Tootsie Roll. “Nhai đi, Scout.” Phải vài phút sau tôi mới làm cho thỏi kẹo thành một cục vừa trong miệng mình.

Jem sắp xếp lại các thứ trong tủ quần áo của anh. Tóc anh dựng đứng phía sau và loà xoà xuống phía trước, tôi không biết có bao giờ nó giống được tóc đàn ông – có lẽ nếu anh cạo trọc rồi khởi sự từ đầu thì tóc anh sẽ mọc lại gọn gàng đúng chỗ. Lông mày anh ngày càng đậm hơn, và tôi nhận thấy thân hình anh dong dỏng. Anh đang cao lên.

Lúc anh quay lại, chắc anh nghĩ là tôi lại sắp khóc, vì anh nói: “Cho mày coi cái này nếu mày không kể với ai.” Tôi hỏi cái gì. Anh cởi cúc áo, nhe răng cười bẽn lẽn.

“Ồ, cái gì?”

“Ồ, mày không thấy à?”

“Ồ, không.”

“Ồ, lông.”

“Đâu?”

“Đó. Ngay đó.”

Vì anh vừa mới an ủi tôi, nên tôi nói đẹp, nhưng tôi chẳng thấy gì. “Đẹp thật, Jem.”

Anh nói: “Dưới cánh tay tao nữa. Sang năm ra chơi bóng bầu dục. Scout, đừng để bác làm mày bực mình.”

Hình như mới hôm qua anh bảo tôi đừng làm bác bực mình.

Jem nói: “Mày biết bác không hiểu con gái, ít nhất là tụi con gái như mày. Bác cố làm mày thành một bà quý phái. Mày không tập may vá hay cái gì khác được à?”

“Thứ mắc dịch, không. Bác không thích em thế thôi, còn em không cần. Jem, bác gọi Walter Cunningham là rác làm em tức, chứ không phải câu bác nói em là rắc rối cho Atticus. Có lần ba với em làm rõ hết rồi, em hỏi ổng có phải em rắc rối không, ổng nói rắc rối hổng nhiều, nhiều lắm cũng chỉ là thứ rắc rối ổng luôn luôn hiểu ra được, và em đừng lo một tí ti nào về chuyện quấy rầy ổng. Mà vì Walter… Jem, thằng đó không là rác. Nó hổng phải như tụi Ewell.”

Jem đá giày ra rồi vòng chân lên giường. Anh dựa người lên gối rồi bật ngọn đèn đọc sách. “Mày biết không, Scout? Bây giờ tao hiểu ra hết rồi. Dạo này tao suy nghĩ chuyện đó nhiều lắm, tao hiểu ra rồi. Trên thế giới có bốn loại người. Loại bình thường như mình và hàng xóm, loại như đám Cunningham tuốt trong rừng, loại như tụi Ewell dưới bãi rác, và người da đen.”

“Còn người Tàu với người Cajun[127] tuốt dưới hạt Baldwin thì sao?”

“Tao muốn nói trong hạt Maycomb thôi. Vấn đề là loại mình không thích loại Cunningham, loại Cunningham không thích loại Ewell, còn loại Ewell ghét và khinh người da màu.”

Tôi bảo Jem nếu như vậy tại sao bồi thẩm đoàn của Tom gồm những người loại Cunningham lại không tha bổng Tom để chọc tức loại Ewell?

Jem gạt câu hỏi của tôi coi như còn trẻ con.

Anh nói: “Mày biết không, tao thấy Atticus nhịp chân lúc radio cò cưa nhạc, và tao chưa thấy ai thích món xúp rau[128] như ổng…”

Tôi nói: “Vậy thì mình giống đám Cunningham. Em không hiểu tại sao bác…”

“Khoan, để tao nói xong đã… mình giống, nhưng cách này cách nọ mình vẫn có chỗ khác. Atticus có lần nói lý do bác gái cứ hay bận tâm về gia tộc là vì mình chỉ có lai lịch mà hổng có một xu.”

“Ồ Jem, em không biết… Atticus có lần nói với em là hầu hết mấy thứ Gia tộc Kỳ cựu này đều là dấm dớ, vì dòng họ nào cũng lâu đời như dòng họ nào. Em hỏi có kể luôn cả dân da màu với dân Anh không, ổng nói ừ.”

Jem nói: “Lai lịch không có nghĩa là Gia tộc Kỳ cựu. Tao nghĩ nó là dòng họ biết đọc biết viết từ hồi nào. Scout, tao đã nghiên cứu chuyện này kỹ lắm rồi mà chỉ nghĩ được lý do độc nhất đó. Hồi xửa hồi xưa lúc dòng họ Finch ở Ai Cập, một người trong số họ chắc đã học đôi ba chữ tượng hình rồi ổng dạy cho con trai ổng.” Jem bật cười. “Cứ tưởng tượng bác gái hãnh diện là ông cố của bác biết đọc biết viết… mấy bà cứ tìm những thứ vớ vẩn để hãnh diện.”

“Ôi dào, em mừng là ổng biết đọc, hay ai đã dạy Atticus và họ đọc, nếu Atticus không biết đọc, thì anh với em kẹt. Jem, em không nghĩ lai lịch là như vậy.”

“Ôi dào, vậy thì làm sao mày giải thích tại sao nhà Cunningham lại khác? Ông Walter gần như không biết ký tên, tao đã từng thấy ổng ký. Chỉ vì mình biết đọc biết viết trước họ từ lâu.”

“Không đúng, mọi người phải học, hổng ai sinh ra rồi tự nhiên biết. Thằng Walter thông minh, đôi lúc nó bị kìm lại vì nó phải ra giúp tía nó. Nó hổng có gì dở. Không, Jem, em nghĩ chỉ có một loại người. Đó là người.”

Jem quay qua đấm cái gối. Lúc anh nằm ngửa lại, mặt anh u ám. Anh lại rơi vào một trong những lúc thoái chí, và tôi cảnh giác. Lông mày anh nhíu lại, miệng anh biến thành một lằn mỏng. Anh lặng im một lúc.

Cuối cùng anh nói: “Lúc tao bằng tuổi mày, tao cũng đã nghĩ như vậy. Nếu chỉ có một loại người thì tại sao người ta không thể hoà thuận với nhau? Nếu tất cả đều giống nhau thì tại sao người ta tìm mọi cách để khinh bỉ nhau? Scout, tao nghĩ tao bắt đầu hiểu một điều. Tao nghĩ tao bắt đầu hiểu tại sao Boo Radley cứ ở im ỉm trong nhà suốt ngày… đó là vì ổng muốn ở trong nhà.”

 

 

 

 

 

 

24

 

Calpurnia mặc cái tạp dề hồ bột cứng nhất của bà. Bà bê khay bánh trái cây. Bà lùi tới cái cửa bật, rồi nhẹ nhàng đẩy qua. Tôi thán phục cách bà ung dung uyển chuyển lúc bưng một đống nặng những món ngon xinh xắn. Tôi đoán bác Alexandra cũng bưng như thế, vì hôm nay bác cho phép Calpurnia hầu bàn.

Tháng Tám sắp qua tháng Chín. Ngày mai Dill sẽ về Meridian; hôm nay nó với Jem ra Vũng xoáy Barker. Jem đã sửng sốt tức giận khám phá ra rằng chưa ai bận tâm dạy Dill bơi, một khả năng mà Jem coi là cần thiết như đi bộ. Bọn họ đã dành hai buổi chiều ngoài lạch, nói sẽ bơi cởi truồng và tôi không được tới, vì thế trong những lúc cô đơn tôi đến với Calpurnia hay cô Maudie.

Hôm nay bác Alexandra và nhóm truyền giáo của bác lao vào cuộc chiến cứu rỗi khắp nhà. Từ gian bếp, tôi nghe trong phòng khách bà Grace Merriweather báo cáo về cuộc sống nhớp nhúa hình như của người Mruna. Họ bỏ phụ nữ ra ngoài mấy túp lều khi đến kỳ, chẳng rõ là kỳ gì. Họ không có ý thức gia đình – tôi biết chuyện đó làm bác gái buồn lắm – họ bắt trẻ con chịu những thử thách kinh khủng lúc tụi nó mười ba tuổi. Họ nhung nhúc ghẻ cóc và sâu róm, họ nhai vỏ cây rồi nhổ vào cái lu chung và uống thứ đó để say sưa.

Ngay sau báo cáo, các bà tạm ngưng để ăn uống giải lao.

Tôi không biết nên vào phòng ăn hay tránh đi. Bác Alexandra bảo tôi cùng ra ăn bánh trái với họ, bác bảo tôi không nhất thiết phải tham dự lúc họp bàn bạc, vì tôi sẽ chán. Tôi đang mặc bộ váy hồng đi nhà thờ, váy lót và đi giày, và ngẫm nghĩ nếu tôi làm vấy bẩn thì Calpurnia sẽ lại phải giặt váy cho tôi mặc ngày mai. Hôm nay bà đã bận lắm rồi. Tôi quyết định tránh đi.

Muốn đỡ đần tay chân, tôi hỏi: “Cháu giúp được gì cho bà không, Cal?”

Calpurnia ngập ngừng nơi ngưỡng cửa. Bà nói: “Cô cứ ở yên như con chuột trong góc đó, rồi lát nữa tôi quay lại, cô giúp tôi bầy mấy cái khay.”

Giọng các bà rù rì khe khẽ trở nên lớn hơn khi bà mở cửa: “Ồ, Alexandra, tôi chưa từng thấy bánh trái cây nào như vậy… đẹp quá… tôi chưa bao giờ làm được vỏ bánh như thế này, chưa bao giờ… ai nghĩ ra thứ bánh dâu nhỏ… Calpurnia à?... ai nghĩ nó… ai kể cho bà là vợ ông giảng đạo… khôôông, ồ bà ấy, còn đứa kia chưa biết đi…”

Họ dần dần im lặng, tôi biết tất cả đã được mời bánh. Calpurnia trở lại đặt cái ấm bằng bạc nặng nề của mẹ tôi lên khay. Bà thì thào: “Cái ấm cà phê này là đồ cổ, bây giờ người ta không làm nó nữa.”

“Cháu bưng nó vào được không?”

“Nếu cô cẩn thận đừng đánh rơi. Đặt nó xuống ở góc bàn bên cạnh bác Alexandra. Xuống bên cạnh mấy cái tách linh tinh. Bác sẽ rót.”

Tôi thử đẩy đít mình vào cửa như Calpurnia đã làm, nhưng cánh cửa không nhúc nhích. Nhe răng cười, bà giữ cửa mở cho tôi. “Cẩn thận, nặng đấy. Đừng ngó nó thì cô sẽ không làm đổ.”

Chuyến đi của tôi thành công: bác Alexandra mỉm cười sáng láng. Bác nói: “Ở đây với các bác, Jean Louise.” Đây là một phần của chiến dịch huấn luyện tôi thành phụ nữ quý phái.

Theo thông lệ mỗi bà chủ nhà trong nhóm sẽ mời láng giềng đến ăn bánh uống nước, bất kể họ là tín đồ phái Baptist hay Presbyterian, điều đó giải thích sự hiện diện của cô Rachel (tỉnh rượu như quan toà), cô Maudie và cô Stephanie Crawford. Khá lo lắng, tôi ngồi một chỗ bên cạnh cô Maudie và tự hỏi tại sao các bà chỉ có băng qua đường mà cũng phải đội mũ. Một đám các bà tụ tập luôn làm tôi mơ hồ lo sợ và chắc chắn muốn tránh ra chỗ khác, nhưng cảm giác này bác Alexandra gọi là “nuông chiều hư hỏng.”

Các bà nom mát mẻ trong bộ y phục vải mỏng in hoa màu nhạt, phần lớn bôi đầy phấn nhưng không đánh phấn hồng, màu son môi duy nhất trong phòng là Tangee Natural. Cutex Natural[129] lấp lánh trên móng tay họ, nhưng vài bà trẻ hơn sơn hồng. Họ thơm lừng tới tận mây xanh. Tôi ngồi im, chế ngự hai bàn tay mình bằng cách nắm chặt tay ghế, và chờ người nói với mình.

Cầu răng vàng của cô Maudie lấp lánh. Cô nói: “Cháu diện đẹp quá, Jean Louise. Hôm nay quần cháu đâu?”

“Dưới váy cháu.”

Tôi không có ý định khôi hài, nhưng các bà cười. Gò má tôi nóng bừng khi nhận ra sai lầm của mình, nhưng cô Maudie trang trọng nhìn xuống tôi. Cô không bao giờ cười tôi trừ phi tôi có ý định khôi hài.

Trong sự im lặng bất ngờ sau đó, cô Stephanie Crawford nói lớn từ phía bên kia phòng: “Lớn lên cháu muốn làm gì, Jean Louise? Luật sư?”

Tôi trả lời: “Không, thưa cô, cháu chưa nghĩ đến…” mừng rằng cô Stephanie đã tử tế thay đổi đề tài. Tôi bắt đầu vội vàng chọn nghề cho mình. Y tá? Phi công? “Ồ…”

“Sao thế, cô nghĩ cháu muốn làm luật sư, cháu đã đến toà rồi.”

Các bà lại cười. Có người nói: “Stephanie này kỳ cục.” Cô Stephanie được khuyến khích theo đuổi đề tài: “Cháu không muốn lớn lên làm luật sư à?”

Tay cô Maudie chạm vào tay tôi, và tôi trả lời đủ ôn tồn: “Không thưa cô, chỉ làm một bà quý phái thôi.”

Cô Stephanie lom lom nhìn tôi nghi ngờ, rồi kết luận là tôi không có ý xấc, và tạm chấp nhận nói: “Ôi dào, khó đấy, cho đến khi cháu bắt đầu mặc váy thường xuyên hơn.”

Bàn tay cô Maudie nắm chặt tay tôi, và tôi không nói gì. Hơi ấm của nó là đủ.

Bà Grace Merriweather ngồi bên trái tôi, và tôi cảm thấy nên lịch sự thưa chuyện với bà. Ông Merriweather là tín đồ phái Giám Lý sùng đạo vì bị ép buộc, hình như ông chẳng thấy can hệ gì đến bản thân khi hát “Ân sủng tuyệt vời, lời gọi dịu dàng, cứu vớt kẻ khốn khổ như tôi…” Tuy nhiên, dư luận chung ở Maycomb nói là bà Merriweather đã khiến ông bỏ rượu và biến ông thành một công dân tương đối hữu dụng. Hiển nhiên bà Merriweather là một bà sùng đạo nhất Maycomb. Tôi tìm một đề tài bà thích. Tôi hỏi: “Các bác chiều nay nghiên cứu việc gì?”

Bà nói: “Ồ cháu, mấy người Mruna đáng thương,” rồi tịt lít. Nhất thiết nên có thêm vài câu hỏi nữa.

Cặp mắt nâu lớn của bà Merriweather luôn đầy nước mắt khi bà nghĩ tới những người bị áp bức. Bà nói: “Họ sống trong rừng không có ai trừ J. Grimes Everett, không một người da trắng nào chịu tới gần họ trừ ông J. Grimes Everett thánh thiện đó.”

Bà Merriweather dùng giọng bà như cây đàn phong cầm, mỗi chữ bà nói đều nhận đủ âm lượng: “Nghèo túng… tối tăm… vô đạo… không ai biết tới, ngoài J. Grimes Everett. Cháu biết không, chuyến đó hội thánh cho bà đi đến đất trại, J. Grimes Everett nói với bà…”

“Ông ấy có ở đó không, thưa bà? Cháu nghĩ…”

“Về nhà nghỉ phép. J. Grimes Everett bảo với bà, ông ấy nói, ‘Bà Merriweather, bà không có ý niệm gì, không có ý niệm gì về những việc chúng ta đang đấu tranh bên đó.’ Ông ấy bảo với bà như thế đấy.”

“Vâng thưa bà.”

“Bà nói với ông ấy ‘Ông Everett ơi, các bà của Maycomb Alabama Methodist Episcopal Church South ủng hộ ông một trăm phần trăm.’ Bà nói với ông ấy như thế. Rồi cháu biết không, tức khắc ngay tại chỗ bà hứa trong tâm. Bà tự nhủ, khi về đến nhà bà sẽ giảng về người Mruna và mang lời của J. Grimes Everett tới Maycomb, như bây giờ bà đang làm.”

“Vâng thưa bà.”

Bà Merriweather lắc đầu, mấy lọn tóc quăn đen của bà lúc lắc. Bà nói: “Jean Louise, cháu là đứa con gái may mắn. Cháu sống trong một nhà Kytô với những người Kytô trong một thị trấn Kytô. Vùng đất ngoài đó của J. Grimes Everett chẳng có gì ngoại trừ tội lỗi và dơ bẩn.”

“Vâng thưa bà.”

“Tội lỗi và dơ bẩn… chuyện gì đó, Gertrude?” bà Merriweather đổi bộ chuông hoà âm của bà để nói với bà ngồi bên cạnh. “Ồ. Ôi dào, tôi luôn nói tha thứ và xem nhẹ, tha thứ và xem nhẹ. Điều mà nhà thờ đó nên làm là giúp cô ta từ nay trở đi sống cuộc đời Kytô cho bọn trẻ đó. Vài ba ông nên ra đó bảo ông giảng đạo đó khuyến khích cô ta.”

Tôi xen vào: “Cháu xin lỗi, bà Merriweather, bà đang nói tới Mayella Ewell đó phải không?”

“May…? Không đâu cháu. Vợ thằng đen đó. Vợ Tom, Tom…”

“Robinson, thưa bà.”

Bà Merriweather quay lại nói tiếp với bà bên cạnh: “Gertrude, có một điều tôi thật sự tin tưởng, nhưng một số người không thấy như tôi. Nếu mình cứ cho tụi nó biết là mình tha thứ cho tụi nó, mình xem nhẹ chuyện đó, thì toàn bộ vụ này sẽ qua đi.”

Một lần nữa tôi lại xen vào: “À… bà Merriweather, cái gì sẽ qua đi?”

Một lần nữa bà lại quay sang tôi. Bà Merriweather là một trong số những người lớn không có con thấy cần phải lấy một giọng khác khi nói với trẻ con. Bà nói trịnh trọng trong nhịp rất chậm: “Chẳng có gì đâu, Jean Louise, tụi bếp với tụi cu li làm ruộng hơi bất mãn, nhưng bây giờ tụi nó ổn lại rồi… hôm sau phiên toà tụi nó càu nhàu cả ngày.”

Bà Merriweather quay qua bà Farrow: “Gertrude, tôi cho bà biết là không có cái gì làm rối trí cho bằng một đứa đen mặt sưng mày sỉa. Miệng tụi nó chảy xuống tới đây. Có một đứa tụi nó trong bếp là hỏng cả ngày của bà. Bà biết tôi nói gì với con Sophy của tôi không, Gertrude? Tôi nói ‘Sophy, hôm nay mày đúng là không phải người Kytô. Chúa Giê-su không bao giờ đi loanh quanh càu nhàu với cằn nhằn,’ rồi bà biết không, nhờ vậy nó tỉnh ra. Nó không ngó sàn nhà nữa rồi nói ‘Vâng, xxxưa bà Merriweather, Giê-su không bao giờ đi loanh quanh càu nhàu.’ Tôi cho bà biết, Gertrude, bà đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm chứng nhân cho Chúa.”

Tôi nhớ tới cây đàn phong cầm nhỏ cổ xưa trong nhà nguyện ở Bến Finch. Hồi tôi còn rất nhỏ, nếu hôm đó tôi thật ngoan, Atticus sẽ cho tôi bơm ống thổi trong khi ông dùng một ngón tay gõ một khúc nhạc. Nốt nhạc cuối cùng sẽ kéo dài đến khi hết hơi. Tôi đoán bà Merriweather đã hết hơi và đang bổ sung nhiên liệu trong khi bà Farrow chuẩn bị nói.

Bà Farrow là một bà có vóc dáng lộng lẫy với cặp mắt màu nhạt và bàn chân thon. Tóc bà mới uốn thành một đống xám quăn chặt cứng. Bà là bà sùng đạo hạng nhì ở Maycomb. Bà có thói quen lạ lùng là mở đầu mọi chuyện bà nói bằng một âm ‘xuýt’ nhỏ.

Bà nói: “S-s-s Grace, giống y như tôi nói với đạo hữu Hutson hôm nọ. Tôi nói ‘S-s-s đạo hữu Hutson, coi bộ mình đang đấu tranh một trận cầm chắc là thua, cầm chắc là thua.’ Tôi nói ‘S-s-s tụi nó bất cần. Mình có thể giáo dục tụi nó tới khi mình xanh lè mặt, mình có thể cố tới khi mình té lăn đùng để biến tụi nó thành người Kytô, nhưng ban đêm hồi này hổng phụ nữ nào được đi ngủ an toàn.’ Ông ấy bảo tôi ‘Thưa bà Farrow, tôi không biết rồi dưới này mình còn gặp chuyện gì nữa.’ S-s-s tôi nói với ông ấy sự thật đúng là như vậy.”

Bà Merriweather gật đầu ra vẻ hiểu biết. Giọng bà vang lên át tiếng lách cách của mấy cái tách cà phê và tiếng nhai nhóp nhép nhỏ nhẹ như bò của các bà đang nhấm nháp bánh. Bà nói: “Gertrude, tôi cho bà biết trong thị trấn này có mấy người tốt nhưng lầm đường lạc lối. Tốt, nhưng lầm đường lạc lối. Tôi muốn nói tới mấy người trong thị trấn này nghĩ họ đang làm đúng. Tôi không muốn nói là ai, nhưng một số người trong thị trấn này nghĩ là hồi gần đây họ đang làm điều đúng, nhưng mọi thứ họ làm chỉ là quậy tụi nó lên. Họ chỉ làm như vậy thôi. Lúc đó có thể có vẻ là làm điều đúng, chắc chắn tôi không biết, tôi không thạo lãnh vực đó, nhưng sưng sỉa… bất mãn… tôi cho bà biết, nếu con Sophy của tôi còn như vậy một ngày nữa là tôi đuổi nó. Cái đầu bù xù của nó không hề chịu nhập vô cái lý do duy nhất tôi còn giữ nó là vì kinh tế còn suy thoái, và nó còn cần nhận được một đô la hai mươi lăm xu mỗi tuần.”

“Nuốt bánh của ông ấy xuống không bị nghẹn đấy chứ?”

Cô Maudie nói câu đó. Hai bên khoé miệng cô hiện ra hai lằn chặt. Cô đã ngồi im lìm bên cạnh tôi, tách cà phê của cô thăng bằng trên một đầu gối. Tôi đã không theo được mạch câu chuyện từ lâu, lúc họ không nói về vợ của Tom Robinson nữa, và đành vui lòng nghĩ về Bến Finch với dòng sông. Bác Alexandra đã làm lộn ngược: lúc họp bàn công việc thì rùng rợn, giờ xã giao thì chán phèo.

Bà Merriweather nói: “Maudie, tôi cam đoan không hiểu cô nói gì.”

Cô Maudie nói cộc lốc: “Tôi cam đoan bà hiểu.”

Cô không nói gì nữa. Khi cô Maudie nổi giận, kiểu nói ngắn gọn của cô lạnh giá. Một điều gì đã làm cô giận lắm, đôi mắt xám của cô lạnh như giọng nói. Bà Merriweather đỏ bừng, liếc tôi, rồi ngó chỗ khác. Tôi không thấy được bà Farrow.

Bác Alexandra đứng lên khỏi bàn và nhanh nhẹn chuyền thêm bánh, khéo léo đưa bà Merriweather với bà Gates vào một cuộc nói chuyện sôi nổi. Sau khi bác đã dẫn họ bắt chuyện mê mải với bà Perkins, bác Alexandra lùi lại. Bác đưa mắt nhìn cô Maudie tỏ vẻ cám ơn rõ ràng, và tôi ngạc nhiên vì thế giới phụ nữ. Cô Maudie và bác Alexandra chưa bao giờ thân nhau lắm, vậy mà bây giờ bác lặng lẽ cám ơn cô vì một điều gì. Điều gì, tôi không biết. Tôi hài lòng khi biết bác Alexandra có thể bị nhức nhối đủ để cảm thấy biết ơn vì được giúp đỡ. Chắc chắn không lâu tôi sẽ phải vào thế giới này, bề ngoài của nó có các bà thơm ngát ngồi đong đưa chầm chậm, quạt phe phẩy, và uống nước lạnh.

Nhưng tôi thoải mái hơn trong thế giới của cha tôi. Những người như ông Heck Tate không bẫy tôi bằng những câu hỏi vô hại để chế giễu tôi; ngay cả Jem cũng không chê bai nhiều lắm trừ phi tôi nói điều gì ngu ngốc. Các bà hình như sống trong nỗi căm ghét mơ hồ đối với đàn ông, hình như không muốn tán thành họ hết lòng. Nhưng tôi thích họ. Trong họ có điều gì, bất kể họ tục tằn, nhậu nhẹt, cờ bạc và nhai thuốc, bất kể họ kém thú vị đến mức nào, trong họ có điều gì bản năng tôi thích… họ không…

Bà Merriweather đang nói: “Đạo đức giả, bà Perkins, đạo đức giả bẩm sinh. Ít nhất dưới này mình không mang tội lỗi đó trên vai. Bọn trên đó cho tụi nó tự do, nhưng bà không thấy họ ngồi chung bàn với tụi nó. Ít nhất mình không lừa dối bảo tụi nó là ừ mày cũng giỏi như tao nhưng tránh xa tụi tao ra. Dưới này mình chỉ nói mày sống kiểu của mày, còn tao sống kiểu của tao. Tôi nghĩ cái bà đó, cái bà Roosevelt đó mất trí… hoàn toàn mất trí, xuống Birmingham rồi định ngồi chung với tụi nó.[130] Nếu tôi là thị trưởng Birmingham tôi sẽ…”

Ôi dào, cả bà lẫn tôi đều không là thị trưởng Birmingham, nhưng tôi ước mong có ngày tôi là thống đốc Alabama: tôi sẽ thả Tom Robinson lẹ tới nỗi Hội Truyền giáo sẽ không kịp thở. Hôm trước Calpurnia kể với bà bếp của cô Rachel là Tom nhìn sự việc bết lắm, và lúc tôi vào bếp bà vẫn không ngừng nói. Bà nói Atticus chẳng làm được gì để cảnh ở tù của Tom dễ chịu hơn, lời cuối cùng Tom nói với Atticus trước khi họ đưa anh xuống trại tù là “Vĩnh biệt ông Finch, bây giờ ông chẳng còn làm gì được nữa, vì vậy đừng cố vô ích.” Calpurnia nói Atticus kể với bà rằng hôm họ đưa Tom qua trại tù thì anh đã hết hy vọng. Bà nói Atticus đã cố giải thích sự việc cho anh, rằng anh phải cố hết sức đừng tuyệt vọng vì Atticus đang làm hết sức để anh được trả tự do. Bà bếp của cô Rachel hỏi Calpurnia tại sao Atticus không cứ nói ừ, anh sẽ được trả tự do, rồi bỏ lửng đó – như vậy có vẻ sẽ an ủi Tom rất nhiều. Calpurnia nói: “Vì chị hổng rõ luật. Điều đầu tiên chị học khi chị vô một gia đình luật là hổng có câu trả lời dứt khoát cho bất cứ cái gì. Ông Finch không thể nói như vậy khi ổng không biết chắc là như vậy.”

Cánh cửa trước đóng sầm lại, tôi nghe bước chân Atticus trong hành lang. Bất giác tôi tự hỏi mấy giờ. Còn lâu mới đến giờ ông về, và trong những ngày họp Hội Truyền giáo ông thường ở lại dưới phố đến tối mịt.

Ông ngừng ở ngưỡng cửa. Mũ trên tay, và mặt ông trắng bệch.

Ông nói: “Thưa các bà, tôi xin lỗi. Cứ tiếp tục buổi họp của các bà, đừng chú ý đến tôi. Alexandra, nhờ chị vào bếp một chút được không? Em muốn mượn Calpurnia một lát.”

Ông không đi qua phòng ăn, mà đi xuống hành lang sau nhà rồi vào bếp bằng cửa sau. Bác Alexandra và tôi gặp ông. Cửa phòng ăn lại mở, cô Maudie vào với chúng tôi. Calpurnia đã hơi nhổm lên trên ghế.

Atticus nói: “Cal, tôi muốn bà đi với tôi tới nhà Helen Robinson…”

Bác Alexandra hỏi: “Chuyện gì vậy?” giọng bác cảnh giác vì vẻ mặt cha tôi.

“Tom chết rồi.”

Bác Alexandra đưa tay lên miệng.

Atticus nói: “Họ bắn anh ta. Anh ta chạy. Lúc giờ tập thể dục. Họ nói anh ta điên cuồng chạy tới hàng rào rồi leo lên. Ngay trước mắt họ…”

Giọng bác Alexandra run: “Họ không cố chặn anh ta lại à? Họ không làm gì để cảnh cáo anh ta à?”

“Ồ có, lính gác gọi anh ta ngừng lại. Họ bắn vài phát chỉ thiên, rồi bắn chết. Họ bắn trúng anh ta đúng lúc anh ta lên tới đầu hàng rào. Họ nói nếu anh ta có hai tay khoẻ mạnh thì đã thoát, anh ta nhanh đến thế. Trên người anh ta có mười bảy lỗ đạn. Họ đâu cần phải bắn anh ta nhiều như vậy. Cal, tôi muốn bà đi với tôi và giúp tôi báo tin cho Helen.”

Bà lẩm bẩm: “Vâng thưa ông,” lúng túng với cái tạp dề của bà. Cô Maudie đến bên Calpurnia giúp cởi nó ra.

Bác Alexandria nói: “Đây là giọt nước làm tràn ly, Atticus.”

Ông nói: “Tùy theo cách chị nhìn. Thêm hay bớt một người da đen giữa số hai trăm người da đen thì khác biệt bao nhiêu? Anh ta không là Tom đối với họ, anh ta là tù định vượt ngục.”

Atticus dựa vào tủ lạnh, đẩy kính lên, rồi dụi mắt. Ông nói: “Mình có cơ hội tốt như thế. Tôi đã nói cho anh ta điều tôi nghĩ, nhưng thực tình tôi không thể nói là mình có cơ hội tốt lắm. Tôi đoán Tom đã chán những cơ hội của người da trắng ban cho và muốn dành lấy cơ hội của anh ta. Xong chưa, Cal?”

“Xong rồi, ông Finch.”

“Vậy thì mình đi.”

Bác Alexandra ngồi xuống cái ghế của Calpurnia rồi đưa tay lên mặt. Bác ngồi rất yên, bác yên đến nỗi tôi tự hỏi hay bác ngất xỉu. Tôi nghe cô Maudie thở như vừa mới leo lên mấy bậc thang, và trong phòng ăn các bà trò chuyện vui vẻ.

Tôi nghĩ bác Alexandra đang khóc, nhưng khi bác lấy tay ra khỏi mặt, bác không khóc. Bác có vẻ mệt. Bác nói, và giọng bác thản nhiên.

“Tôi không thể nói tôi đồng ý với mọi việc cậu ấy làm, Maudie, nhưng cậu ấy là em tôi, và tôi chỉ muốn biết đến bao giờ việc như thế này chấm dứt.” Bác cao giọng: “Nó làm tan nát cậu ấy. Cậu ấy không tỏ ra lắm, nhưng nó làm tan nát cậu ấy. Tôi đã thấy cậu ấy khi… họ muốn cậu ấy cái gì nữa, Maudie, cái gì nữa?”

Cô Maudie hỏi: “Ai muốn cái gì, Alexandra?”

“Tôi muốn nói thị trấn này. Họ hoàn toàn muốn để cậu ấy làm cái việc họ sợ không dám tự bản thân họ làm… nó có thể làm họ thiệt mất năm xu. Họ hoàn toàn muốn để cậu ấy hủy hoại sức khoẻ để làm cái việc họ sợ không dám làm, họ…”

Cô Maudie nói: “Nói nhỏ thôi, họ nghe chị. Chị có bao giờ nghĩ như thế này chưa, Alexandra? Dù Maycomb có biết hay không, chúng ta đang bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc nhất có thể tỏ ra với một người. Chúng ta tin anh ấy làm đúng. Đơn giản thế thôi.”

“Ai?” Bác Alexandra không hề biết bác đang lặp lại lời của đứa cháu trai mười hai tuổi.

“Đó là một nhúm người trong thị trấn này nói công bằng không mang nhãn Dành Riêng Cho Người Da Trắng; một nhúm người nói xét xử công bằng là cho mọi người, không chỉ cho mình; một nhúm người có đủ khiêm tốn để nghĩ, khi họ nhìn một người da đen, rằng mình được thế này là vì lòng nhân đức của Chúa.” Giọng khô lạnh của cô Maudie lại trở về: “Một nhúm người có lai lịch trong thị trấn này, chính họ.”

Nếu tôi chú ý, lẽ ra tôi đã có một thêm một mẩu định nghĩa nữa để góp vào định nghĩa của Jem về lai lịch, nhưng tôi thấy mình run lẩy bẩy không ngừng. Tôi đã thấy Trại Tù Enfield, và Atticus đã chỉ sân tập thể dục cho tôi thấy. Nó rộng bằng cỡ sân bóng bầu dục.

Cô Maudie ra lệnh: “Đừng run như vậy nữa,” thế là tôi ngừng run. “Đứng lên, Alexandra, mình bỏ họ lại đủ lâu rồi.”

Bác Alexandra đứng lên vuốt những nếp sừng hàm cá voi trong vạt áo[131] dọc bên hông bác. Bác lấy khăn tay ở thắt lưng ra lau mũi. Bác vỗ nhẹ lên tóc và nói: “Tôi có lộ ra không?”

Cô Maudie nói: “Không chút nào. Tỉnh lại chưa, Jean Louise?”

“Dạ tỉnh, thưa cô.”

Cô nói một cách dữ tợn: “Vậy thì mình nhập bọn với các bà.”

Giọng các bà ồn lên khi cô Maudie mở cánh cửa ra phòng ăn. Bác Alexandra đi trước tôi, tôi thấy đầu bác ngẩng cao lúc bác đi qua cửa.

Bác nói: “Ồ, bà Perkins, bà cần thêm cà phê. Để tôi lấy.”

Cô Maudie nói: “Calpurnia chạy việc vặt một lát, Grace, để tôi chuyền qua bà thêm mấy cái bánh dâu. Bà có nghe ông anh họ của tôi hôm nọ làm gì không, cái ông thích đi câu đó mà?...”

Và thế là họ đi tới dãy các bà đang cười, vòng quanh phòng ăn, rót đầy các tách cà phê, bày bánh kẹo ra như thể điều đáng tiếc duy nhất của họ là không may tạm thiếu mất Calpurnia hầu việc nhà.

Tiếng rì rào nho nhỏ lại bắt đầu. “Vâng thưa bà, bà Perkins, J. Grimes Everett là vị thánh tử đạo, ông ấy… cần cưới vì thế họ chạy… đến mỹ viện mỗi chiều thứ Bảy… ngay khi mặt trời lặn. Ông ấy đi ngủ với… gà, một sọt đầy gà bệnh, Fred nói khởi sự như vậy. Fred nói…”

Bên kia phòng bác Alexandra nhìn qua tôi rồi mỉm cười. Bác nhìn cái khay bánh quy trên bàn rồi gật đầu. Tôi thận trọng bưng khay lên rồi lò dò bước tới bà Merriweather. Bằng kiểu cách tiếp khách giỏi nhất của mình, tôi hỏi bà có muốn dùng thêm.

Xét cho cùng, nếu bác có thể là một phụ nữ quý phái vào thời điểm như thế này, thì tôi cũng làm được.

 

 

 

 

 

 

 

25

 

“Đừng làm vậy, Scout. Thả nó ra bậc thềm sau nhà đi.”

“Jem, anh điên à?...”

“Tao nói thả nó ra bậc thềm sau nhà.”

Thở dài, tôi hốt con vật bé nhỏ lên, đặt nó trên bậc thang thấp nhất rồi trở về chõng của mình. Tháng Chín đã đến nhưng không mang theo chút xíu thời tiết mát mẻ nào, và chúng tôi vẫn ngủ trên hàng hiên quây lưới muỗi sau nhà. Bầy đom đóm vẫn lượn quanh, loài bò sát ăn đêm và lũ côn trùng bay đập vào lưới cửa suốt mùa hè vẫn chưa chịu bỏ đi tới nơi chúng vẫn đi khi mùa thu đến.

Một con cuốn chiếu đã tìm được đường vào nhà, tôi suy luận rằng con sâu bé tí này đã bò lên các bậc thềm rồi luồn dưới cánh cửa. Tôi thấy nó lúc đặt cuốn sách của mình xuống sàn nhà bên cạnh chõng. Loài sinh vật này không dài hơn đầu ngón tay, và khi đụng vào nó thì nó sẽ cuộn chặt lại thành viên bi xám.

Tôi nằm sấp bụng, thò tay xuống cời nó. Nó cuộn tròn lên. Rồi tôi đoán khi nó cảm thấy an toàn, nó từ từ mở ra. Nó di chuyển vài phân với hàng trăm cái chân, tôi lại đụng nó. Nó cuộn tròn lên. Cảm thấy buồn ngủ, tôi quyết định chấm dứt trò này. Lúc tay tôi sắp dí xuống nó thì Jem lên tiếng.

Jem cau có. Hẳn đó là một phần trong giai đoạn anh đang trải qua, và tôi mong là anh qua nhanh lên cho xong. Chắc chắn anh không bao giờ độc ác với thú vật, nhưng tôi chưa hề biết lòng nhân hậu của anh bao trùm qua cả thế giới côn trùng.

Tôi hỏi: “Tại sao em không được nghiến nó?”

Jem trả lời trong bóng tối: “Vì nó không quấy rầy mày.” Anh đã tắt ngọn đèn đọc sách của anh.

Tôi nói: “Chắc bây giờ anh đang ở trong giai đoạn không giết cả ruồi muỗi nữa. Khi nào anh đổi ý thì cho em biết. Nhưng cho anh biết, em sẽ không ngồi yên mà không giết rệp đâu.”

Anh ngái ngủ trả lời: “A, im đi.”

Càng ngày Jem càng giống con gái, chứ không phải tôi. Thoải mái, tôi nằm ngửa ra chờ giấc ngủ, và trong khi chờ, tôi nghĩ đến Dill. Hôm đầu tháng nó đã chia tay chúng tôi với lời cam đoan chắc nịch là nó sẽ trở lại ngay sau khi bãi trường – nó đoán ba má nó đã đại khái hiểu là nó thích nghỉ hè ở Maycomb. Cô Rachel cho chúng tôi cùng đi tắc xi tới Ga Maycomb, và Dill vẫy chào chúng tôi từ cửa sổ toa xe lửa đến khi khuất dạng. Nó không khuất dạng trong tâm trí tôi: tôi nhớ nó. Hai ngày cuối cùng nó ở với chúng tôi, Jem đã dạy nó bơi…

Dạy nó bơi. Tôi bừng tỉnh, nhớ lại chuyện Dill đã kể cho tôi.

Vũng xoáy Barker ở cuối con lộ đất cắt qua xa lộ Meridian cách thị trấn khoảng một dặm. Dọc xa lộ dễ xin đi nhờ trên xe chở bông gòn hay xe hơi, rồi cuốc bộ một đoạn ngắn tới dòng nước là chuyện dễ, nhưng chập tối khi xe cộ đi lại đã ngớt thì cuốc bộ suốt quãng đường về nhà sẽ là một viễn tượng mệt mỏi, vì thế bọn đi bơi thường cẩn thận không ở lại quá muộn.

Theo lời Dill kể, lúc nó và Jem vừa mới ra tới xa lộ thì thấy Atticus lái xe về hướng nó. Ông có vẻ không thấy bọn họ, vì thế cả hai cùng vẫy. Rốt cuộc Atticus cho xe chậm lại. Lúc họ chạy tới, ông nói: “Hai đứa nên quá giang về. Còn lâu ba mới về.” Calpurnia ngồi trên ghế sau.

Jem phản đối, rồi nài nỉ, rồi Atticus nói: “Thôi được, hai đứa có thể đi chung nhưng phải ở lại trong xe.”

Trên đường đến nhà Tom Robinson, Atticus kể cho bọn họ chuyện đã xảy ra.

Họ rẽ khỏi xa lộ, lái chậm qua bãi đổ rác rồi đi ngang nhà Ewell, xuống con đường hẹp tới khu của người da đen. Dill nói một đám con nít da đen đang chơi bắn bi trong sân trước nhà Tom. Atticus đậu xe rồi bước ra. Calpurnia đi theo ông vào cổng trước.

Dill nghe ông hỏi một đứa trong bọn nhỏ: “Má cháu đâu, Sam?” và nghe Sam nói: “Thưa ông Finch, má dưới nhà chị Steven. Muốn cháu chạy gọi má về không?”

Dill nói Atticus có vẻ do dự, rồi ông nói ừ, thế là Sam phóng đi. Atticus nói với bọn trẻ: “Mấy đứa cứ chơi tiếp đi.”

Một đứa con gái nhỏ ra cửa chòi đứng nhìn Atticus. Dill nói tóc nó là một đống đuôi heo nhỏ xíu thắt chặt, cuối mỗi đuôi cột một cái nơ tươi màu. Nó nhe răng cười đến tận mang tai rồi bước tới cha chúng tôi, nhưng nó còn nhỏ quá không thể xoay xở xuống các bậc thềm. Dill nói Atticus tiến tới, ngả mũ, rồi đưa ngón tay cho nó. Nó nắm lấy để ông dìu nó xuống các bậc thềm. Sau đó ông giao nó cho Calpurnia.

Sam chạy lon ton phía sau mẹ nó lúc họ về đến. Dill kể Helen nói “chào ông Finch, mời ông ngồi.” Nhưng chị ấy không nói gì nữa. Atticus cũng im.

Dill nói: “Scout, chị ấy ngã xuống đất. Ngã xuống đất, như có một tên khổng lồ có bàn chân bự tới giẫm lên chị ấy. Bẹp một cái…” Bàn chân bẹt của Dill giậm xuống đất. “Như mày giẫm con kiến.”

Dill kể Calpurnia và Atticus đỡ Helen đứng lên, rồi nửa khiêng nửa dắt chị vào căn chòi. Họ ở trong nhà một hồi lâu, rồi Atticus đi ra một mình. Lúc họ lái về ngang bãi đổ rác, mấy đứa nhà Ewell la lối họ, nhưng Dill không nghe được tụi nó nói gì.

Tin tức về cái chết của Tom làm cho Maycomb trở nên đáng chú ý có lẽ được hai ngày, hai ngày đủ để tin lan đi khắp hạt. “Ông bà có nghe vụ?… Không à? Ồ, họ nói nó chạy lẹ hơn sấm sét…” Đối với Maycomb, cái chết của Tom là điển hình. Điển hình của một tên mọi đen vùng lên chạy. Điển hình về tâm thần của một tên mọi đen không dự kiến, không nghĩ tới tương lai, chỉ mù quáng bỏ chạy ngay khi gặp cơ hội. Buồn cười là Atticus Finch suýt nữa đã có thể gỡ tội cho nó, nhưng gượm đã…? Không đời nào. Ông bà biết tụi nó ra sao mà. Luông tuồng một, thì thất bát hai. Ông bà thấy đó, thằng Robinson đó có vợ hợp pháp, họ nói nó sống trong sạch, đi nhà thờ, đại khái như vậy, nhưng khi có chuyện thì mới thấu bụng dạ. Cái chất mọi đen của tụi nó luôn luôn lòi ra.

Rồi tới lượt người nghe cho thêm vài chi tiết trước khi lặp lại dị bản câu chuyện của mình, sau đó chẳng còn gì để nói nữa cho tới khi tờ Maycomb Tribune phát hành hôm thứ Năm kế đó. Trang tin người da màu có một cáo phó ngắn, nhưng cũng có một bài xã luận.

Ông B. B. Underwood viết một bài cay đắng nhất của ông, và ông bất cần nếu có ai bỏ đăng quảng cáo hay ngưng mua báo dài hạn. (Nhưng Maycomb không chơi kiểu đó: ông Underwood cứ gào thét đến toát mồ hôi và cứ viết bất kỳ cái gì ông muốn, ông vẫn có quảng cáo và người mua dài hạn. Nếu ông muốn làm thằng ngốc trên báo của ông thì đó là việc của ông). Ông Underwood không bàn tới sự thất bại của toà án, ông viết cho trẻ con cũng hiểu được. Ông Underwood chỉ nói rằng giết kẻ tàn tật là tội lỗi, dù họ đứng ngồi hay bỏ trốn. Ông ví cái chết của Tom với việc bọn đi săn và trẻ con tàn sát vô ý thức những con chim biết hót. Maycomb nghĩ ông định viết một bài xã luận đủ thi vị để được đăng lại trên tờ Montgomery Advertiser.

Khi đọc bài xã luận của ông Underwood, tôi tự hỏi làm sao như thế được. Giết vô ý thức – Tom đã được hưởng mọi thủ tục pháp lý cho đến tận ngày anh chết; anh đã được xét xử công khai và bị mười hai người tốt và chân chính kết án; cha tôi đã đấu tranh cho anh đến tận phút cuối. Khi ấy ý ông Underwood trở nên rõ ràng: Atticus đã dùng mọi phương tiện sẵn có cho người tự do để cứu Tom Robinson, nhưng trong toà án bí mật của lòng người, Atticus vô phương. Tom đã chết ngay giây phút Mayella Ewell mở miệng la hét.

Cái tên Ewell làm tôi có cảm giác buồn nôn. Maycomb đã lập tức đón lấy quan điểm của ông Ewell về cái chết của Tom rồi truyền qua cái kênh ngồi lê đôi mách khổng lồ là cô Stephanie Crawford. Cô Stephanie kể cho bác Alexandra trước mặt Jem (“Ôi giời, nó đủ lớn để nghe”) rằng ông Ewell nói như vậy là xong một thằng, còn hai thằng nữa. Jem bảo tôi đừng sợ, ông Ewell chỉ hung hăng một tấc đến trời thôi. Jem cũng bảo tôi là nếu tôi thở ra một tiếng nào với Atticus, nếu bằng bất kỳ cách nào tôi để cho Atticus biết là tôi biết, thì đích thân Jem sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa[132].

 

 

 

 

 

26

 

Tựu trường, thế là hằng ngày chúng tôi lại đi ngang nhà Radley. Jem lên lớp bảy và qua trường trung học, phía bên kia trường tiểu học; bây giờ tôi học lớp ba, và sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi khác nhau tới nỗi tôi chỉ đi bộ tới trường với Jem mỗi sáng và chỉ gặp anh mỗi bữa ăn. Anh theo đuổi môn bóng bầu dục, nhưng quá mảnh mai và quá nhỏ để được làm gì ngoại trừ việc xách chậu nước của đội bóng. Anh hăng hái xách nước, hầu hết các buổi chiều ít khi anh có mặt ở nhà trước khi trời tối.

Nhà Radley không còn làm tôi khiếp sợ nữa, nhưng nó vẫn không kém u ám, không kém lạnh lẽo dưới mấy cây sồi bự, và không kém xa cách. Vào hôm trời quang đãng vẫn có thể thấy ông Nathan Radley đi ra thị trấn rồi về. Chúng tôi biết Boo ở đó, cũng vì lý do cũ: chưa ai thấy ông được khiêng ra. Đôi khi đi ngang căn nhà cũ, tôi cảm thấy day dứt hối hận, vì đã từng tham dự vào việc chắc hẳn đã làm Arthur Radley khó chịu ghê gớm – có ai sống ẩn dật hợp tình hợp lý mà muốn bọn trẻ nhìn trộm qua cánh cửa chớp nhà mình, gửi lời chào bằng cái cần câu, và ban đêm lang thang vào vườn bắp cải của mình?

Và tôi còn nhớ. Hai đồng xu đầu da đỏ, kẹo cao su, hai con búp bê bằng xà phòng, tấm huy chương rỉ sét, cái đồng hồ hỏng với sợi dây đeo. Jem chắc đã cất chúng ở đâu đó. Một buổi chiều tôi ngừng lại nhìn cái cây: thân cây phình ra quanh mảng xi măng. Xi măng đang ngả vàng.

Chúng tôi đã suýt thấy ông hai lần, một tỉ số đủ khá so với bất cứ ai.

Nhưng mỗi lần đi ngang tôi vẫn đưa mắt tìm ông. Có lẽ một ngày nào chúng tôi sẽ thấy ông. Tôi hình dung lúc ấy: ông ngồi y nguyên trên ghế xích đu lúc tôi đi qua. Tôi sẽ nói “chào ông nhe, ông Arthur,” như thể tôi đã nói mỗi buổi chiều trong đời mình. Ông sẽ nói “chào Jean Louise, thời tiết tốt quá đấy chứ hả?” như thể ông đã nói mỗi buổi chiều trong đời tôi. Tôi sẽ nói “vâng thưa ông, tốt quá,” rồi tiếp tục đi.

Tưởng tượng thôi. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thấy ông. Lúc trăng lặn ông có thể ra ngoài và chăm chú nhìn cô Stephanie Crawford. Tôi sẽ chọn người khác để nhìn, nhưng đấy là việc của ông. Ông sẽ chẳng bao giờ chăm chú nhìn chúng tôi.

Một tối khi tôi kể cái ước muốn lan man là được nhìn kỹ Boo Radley một lần thôi trước khi tôi chết, Atticus nói: “Con không định giở trò đó nữa đấy chứ? Nếu con định làm thì ba bảo con ngay bây giờ: tốp lại. Ba già quá đâu có chạy đuổi con ra khỏi lô đất nhà Radley được nữa. Vả lại, việc ấy nguy hiểm. Con có thể bị bắn. Con biết ông Nathan bắn bất cứ cái bóng nào ổng thấy, ngay cả mấy cái bóng để lại dấu chân trần của con nít. May mắn là các con đã không bị bắn chết.”

Tôi im ngay tức khắc, ngay tại chỗ. Cùng lúc đó tôi ngạc nhiên về Atticus. Đây là lần đầu tiên ông cho chúng tôi thấy ông biết nhiều hơn mức chúng tôi nghĩ ông biết. Và chuyện đó xảy ra đã nhiều năm lắm rồi. Không, mới mùa hè vừa rồi… không, mùa hè trước đó, lúc… thời gian làm tôi rối trí. Tôi phải nhớ để hỏi Jem.

Quá nhiều thứ đã xảy ra cho chúng tôi, Boo Radley là thứ ít đáng sợ nhất. Atticus nói ông thấy sự việc phải xảy ra như thế thôi, sự việc có cách riêng của nó để lắng xuống, và một thời gian sau người ta sẽ quên rằng có một Tom Robinson trên đời đã từng làm họ chú ý.

Có lẽ Atticus đúng, nhưng các biến cố hồi mùa hè lơ lửng trên chúng tôi như khói trong căn phòng đóng kín. Người lớn ở Maycomb không bao giờ thảo luận về vụ án với Jem và tôi. Hình như họ thảo luận với con họ, và thái độ của họ hẳn phải là cả hai chúng tôi có ông bố là Atticus thì đâu phải tại chúng tôi, vì thế con họ phải tử tế với chúng tôi, mặc kệ Atticus. Trẻ con chẳng bao giờ tự nghĩ được như thế: nếu cứ để lũ bạn cùng lớp chúng tôi tự suy nghĩ, thì Jem và tôi mỗi đứa sẽ vui lòng có vài trận đấm đá chớp nhoáng rồi kết thúc vấn đề một lần cho xong. Nhưng sự thể là chúng tôi buộc phải ngẩng cao đầu làm một ông lịch thiệp và một cô quý phái. Trong chừng mực nào đó giống như thời còn bà Henry Lafayette Dubose, trừ đi tiếng quát tháo của bà. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ mà tôi không bao giờ hiểu: mặc dù các thiếu sót của Atticus trong vai trò làm cha, năm đó thiên hạ vẫn vui lòng bầu lại ông vào quốc hội tiểu bang mà không có đối thủ nào, như thông lệ. Tôi đi đến kết luận là người ta thật kỳ cục, tôi tránh họ, và không bao giờ nghĩ về họ cho tới khi tôi phải nghĩ.

Một hôm ở trường tôi buộc phải nghĩ đến. Mỗi tuần một lần, chúng tôi có một tiết học Biến cố Thời sự. Mỗi đứa có bổn phận cắt một bản tin trên báo, thấu hiểu nội dung bài báo, rồi trình bày cho cả lớp. Rèn luyện này được cho là sẽ giúp vượt qua nhiều điểm xấu: đứng trước các bạn sẽ khuyến khích tư thế đĩnh đạc và tạo cho đứa trẻ tự tin; nói một bài ngắn giúp nó chọn chữ cẩn thận; tìm hiểu biến cố thời sự giúp củng cố trí nhớ; bị tách ra một mình làm nó càng nôn nóng trở về với Nhóm.

Ý tưởng sâu sắc, nhưng như thường lệ, kết quả không tốt lắm ở Maycomb. Trước nhất, ít đứa trẻ nông thôn được cầm tờ báo trên tay, vì thế gánh nặng của Biến cố Thời sự đè lên tụi con nít thị trấn, làm đám đi học bằng xe buýt càng tin là tụi trong phố dù sao cũng giành được mọi sự chú ý. Đứa trẻ nông thôn nào được có báo đọc thì thường đem những bài cắt ra từ tờ báo có tên là The Grit Paper[133], một tờ báo lá cải dưới mắt cô Gates của chúng tôi. Tôi không bao giờ hiểu tại sao cô nhăn mặt khi một đứa thuật lại theo The Grit Paper, nhưng hình như vì nó dính dáng tới thói thích chuyện tầm phào, tới việc ăn bánh với xirô thay bữa trưa, tới tín đồ đạo-lăn[134], tới bài ca Con lừa hát hay[135] và phát âm là con nừa, là những thứ mà tiểu bang trả lương cho giáo viên để ngăn chặn.

Dù vậy, ít đứa biết Biến cố Thời sự là gì. Thằng Little Chuck Little có một trăm năm kinh nghiệm về bò và các thói quen của bò, đang nói dở dang câu chuyện Chú Natchell[136] thì cô Gates tốp nó lại: “Charles, cái đó đâu phải là biến cố thời sự. Cái đó là quảng cáo.”

Nhưng Cecil Jacobs biết biến cố thời sự là gì. Khi tới lượt nó, nó đi lên trước lớp rồi mở đầu: “Lão Hitler…”

Cô Gates nói: “Adolf Hitler, Cecil. Đừng bao giờ gọi ai bằng Lão này Lão kia.”

Nó nói: “Vâng thưa cô. Lão Adolf Hitler đã truy tố…”

“Khủng bố Cecil…”[137]

“Đâu phải, cô Gates, ở đây nói nè… ôi dào, lão Adolf Hitler đã lùng bắt người Do Thái rồi hắn bỏ họ vô tù rồi hắn lấy hết tài sản của họ rồi hắn không để cho bất cứ ai trong số họ ra khỏi nước rồi hắn tắm hết mấy người đần rồi…”

“Tắm mấy người đần à?”

“Vâng thưa cô Gates, em đoán là họ hổng đủ khôn để tự tắm một mình, em nghĩ một thằng khờ hổng có thể tự giữ sạch sẽ được. Ôi dào, Hitler đã bắt đầu chương trình quây hết luôn mấy người lai Do Thái, rồi hắn muốn đăng ký họ để nếu họ có muốn gây rắc rối cho hắn cũng hổng được, và em nghĩ làm như vậy là dở, và đó là biến cố thời sự của em.”

Cô Gates nói: “Giỏi lắm, Cecil.” Vênh vênh váo váo, Cecil trở về chỗ ngồi của nó.

Một bàn tay ở cuối lớp giơ lên. “Làm sao nó làm như vậy được?”

Cô Gates nhẫn nại hỏi: “Ai làm cái gì?”

Chủ nhân bàn tay nói: “Em muốn hỏi làm sao Hitler có thể nhốt một đống người vô chuồng như vậy, coi bộ chính phủ phải cản ổng lại chứ.”

Cô Gates nói: “Hitler là chính phủ,” và nắm lấy cơ hội để làm cho buổi học sôi nổi, cô đi lên bảng đen. Cô viết chữ DÂN CHỦ thật lớn. Cô nói: “Dân chủ. Có em nào định nghĩa được không?”

Có đứa nói: “Tụi em.”

Tôi vừa giơ tay, vừa nhớ lại một câu khẩu hiệu tranh cử cũ đã có lần Atticus bàn với tôi.

“Em nghĩ nó nghĩa là gì, Jean Louise?”

Tôi lặp lại: “Mọi người đều bình đẳng, không ai có đặc quyền.”

Cô Gates mỉm cười: “Giỏi lắm, Jean Louise, giỏi lắm.” Trước chữ DÂN CHỦ cô viết CHÚNG TA LÀ NƯỚC. “Bây giờ cả lớp cùng đọc ‘Chúng ta là nước dân chủ.’”

Chúng tôi đọc. Sau đó cô Gates nói: “Nước Mỹ khác với nước Đức chỗ đó. Mình là nước dân chủ, Đức là nước độc tài. Chế-độ-độc-tài. Ở đây mình không tin vào việc khủng bố ai. Mấy người có thành kiến mới khủng bố. Thành kiến,” cô phát âm cẩn thận. “Trên thế giới không ai tốt hơn người Do Thái, tại sao Hitler không nghĩ như vậy cô không biết.”

Một đứa tò mò ở giữa lớp nói: “Cô nghĩ tại sao họ không thích người Do Thái, cô Gates?”

“Cô không biết, Henry. Họ đóng góp cho xã hội nơi họ sống, nhất là, họ là những người rất sùng đạo. Hitler đang định dẹp bỏ tôn giáo, có lẽ ông ta không thích họ vì lý do đó.”

Cecil lên tiếng: “Ôi dào em không chắc, người ta nói họ đổi tiền[138] hay đại khái như vậy, nhưng như vậy cũng hổng có lý do để khủng bố họ. Họ là người da trắng mà, đúng hông?”

Cô Gates nói: “Cecil, khi nào em lên trung học, em sẽ biết là người Do Thái đã bị khủng bố từ buổi ban đầu của lịch sử, thậm chí bị đuổi ra khỏi nước họ. Đó là một trong những chuyện kinh khủng nhất trong lịch sử. Đến giờ số học rồi, các em.”

Vì chưa bao giờ thích môn số học, tiết học đó tôi nhìn ra cửa sổ. Lần duy nhất tôi thấy Atticus cáu kỉnh là khi Elmer Davis[139] đọc bản tin mới nhất về Hitler. Atticus tắt ngóm radio và nói “Hừ!” Một lần tôi hỏi tại sao ông bực mình vì Hitler, Atticus nói: “Vì hắn là thằng khùng.”

Tôi ngẫm nghĩ chuyện này tào lao, trong lúc cả lớp bắt đầu học làm toán cộng. Một thằng khùng với hàng triệu người Đức. Tôi thấy có vẻ họ nên nhốt Hitler vô chuồng thay vì để ông ta nhốt họ. Còn một vụ khác cũng không ổn – tôi sẽ hỏi cha tôi vụ đó.

Tôi hỏi, và ông nói ông không thể nào trả lời được câu hỏi của tôi vì ông không biết câu trả lời.

“Nhưng ghét Hitler có được không?”

Ông nói: “Không, ghét bất cứ ai cũng không được.”

Tôi nói: “Atticus, có chuyện này con không hiểu. Cô Gates nói Hitler làm như vậy là kinh khủng, cô đỏ bừng mặt…”

“Ba nghĩ cô ấy đỏ mặt là phải.”

“Nhưng…”

“Ừ?”

“Không, thưa ba.” Tôi bỏ đi, không chắc mình có thể giải thích cho Atticus những gì trong đầu mình, không chắc tôi có thể nói rõ những gì chỉ mới là cảm giác. Có lẽ Jem có thể trả lời. Jem hiểu chuyện ở trường hơn Atticus.

Jem mệt đừ sau một ngày xách nước. Ít nhất có mười hai cái vỏ chuối nằm quanh một bình sữa cạn trên sàn nhà bên cạnh giường anh. Tôi hỏi: “Anh nhồi nhét để làm cái gì vậy?”

Anh nói: “Huấn luyện viên nói nếu hai năm nữa tao nặng thêm mười hai ký thì tao được chơi. Cách này là nhanh nhất.”

Tôi nói: “Nếu anh không ói ra hết. Jem, em muốn hỏi anh vài thứ.”

“Hỏi đi.” Anh đặt sách xuống và duỗi hai chân.

“Cô Gates là người dễ thương, đúng không?”

Jem nói: “Sao vậy, ừ. Tao thích cô ấy hồi tao học lớp cô ấy.”

“Cô ghét Hitler lắm…”

“Thì có gì sai đâu?”

“Ồ, hôm nay cô nói ông ta đối xử với người Do Thái như vậy là tệ lắm. Jem, khủng bố bất cứ ai cũng không đúng, phải không? Em muốn nói là ngay cả có ý nghĩ xấu về bất cứ ai cũng không đúng, phải không?”

“Ừ, trời ơi, Scout. Mày đang nghĩ dấm dớ cái gì vậy?”

“Ồ, tối hôm đó ra khỏi toà án, cô Gates… cô xuống thang phía trước tụi mình, chắc anh hổng thấy cô… cô nói chuyện với cô Stephanie Crawford. Em nghe cô nói là đã tới lúc có người dạy cho tụi nó một bài học, tụi nó không biết thân biết phận của tụi nó, rồi kế tiếp là tụi nó nghĩ tụi nó có thể cưới mình. Jem, làm sao anh có thể ghét Hitler tới mức đó rồi quay lại xử tệ với người ngay trong nước mình…”

Bỗng nhiên Jem tức giận. Anh nhảy khỏi giường, nắm cổ áo tôi rồi lắc. “Tao không bao giờ muốn nghe tới cái toà án đó nữa, không bao giờ, không bao giờ, mày nghe không? Mày nghe không? Mày đừng bao giờ nói một tiếng nào với tao về nó nữa, mày nghe không? Cút đi!”

Tôi quá ngạc nhiên không khóc được. Tôi rón rén ra khỏi phòng Jem và đóng nhẹ cửa, sợ tiếng động không đúng lúc lại làm anh lên cơn. Chợt thấy mệt mỏi, tôi muốn có Atticus. Ông trong phòng khách, tôi tiến tới ông và cố len vào lòng ông.

Atticus mỉm cười. “Bây giờ con lớn quá rồi, ba ôm con không hết.” Ông ôm sát tôi. Ông nói nhỏ, “Scout, đừng để Jem làm con nản. Anh ấy dạo này đang gặp khó khăn. Ba có nghe tiếng các con phía sau nhà.”

Atticus nói Jem đang cố sức quên một số điều, nhưng thật ra anh chỉ cất nó đi ít lâu, chờ cho thời gian trôi qua. Sau đó anh sẽ có thể nghĩ về nó rồi sắp xếp lại sự việc. Khi nào Jem có thể nghĩ về nó, anh sẽ lại là chính anh.

 

 

 

 

 

27

 

Sự việc có lắng xuống thật, theo một kiểu riêng, như Atticus nói. Đến giữa tháng Mười chỉ có hai việc bất thường nho nhỏ xảy ra cho hai công dân Maycomb. Không, có ba việc, nó không trực tiếp liên can tới gia đình Finch chúng tôi, nhưng nhìn theo một góc cạnh nào đó thì có.

Đầu tiên là ông Bob Ewell kiếm được việc rồi chỉ mấy hôm sau lại mất việc, chắc chắn vì thế ông trở thành độc nhất vô nhị trong biên niên sử của thập kỷ 1930: ông là người duy nhất tôi nghe nói bị WPA[140] đuổi vì lười biếng. Tôi nghĩ tiếng tăm ông nổ ra chớp nhoáng rồi xẹp, làm cho tính chăm chỉ đã nổ ra chớp nhoáng bị xẹp lẹ hơn, và việc làm của ông cũng chỉ lâu bằng tai tiếng của ông: ông Ewell thấy mình bị lãng quên như Tom Robinson. Sau đó hàng tuần ông lại xuất hiện như thường lệ ở sở trợ cấp xã hội để lãnh phiếu, và nhận một cách vô ơn với câu lẩm bẩm mơ hồ là tụi khốn khiếp nghĩ tụi nó cai trị cái thị trấn này rồi không cho phép người lương thiện làm ăn sinh sống. Ruth Jones, cô phát trợ cấp, nói ông Ewell công khai buộc tội Atticus lấy mất việc của ông. Bực mình quá, cô xuống văn phòng Atticus để kể cho ông nghe. Atticus nói cô Ruth đừng cáu, nếu Bob Ewell muốn thảo luận vấn đề Atticus “lấy” việc làm của ông ta thì ông ta biết đường tới văn phòng.

Việc thứ hai xảy đến cho thẩm phán Taylor. Thẩm phán Taylor không phải là dân đi nhà thờ tối Chúa nhật, mà chỉ có bà Taylor. Thẩm phán Taylor một mình tận hưởng giờ phút tối Chúa nhật của ông trong ngôi nhà bự của ông, và giờ lễ nhà thờ là lúc ông cố thủ trong phòng làm việc để đọc các bài viết của Bob Taylor[141] (chẳng có họ hàng, nhưng ông toà sẽ hãnh diện nhận họ). Một tối Chúa nhật, đắm đuối trong những ẩn dụ khai hoa và câu văn kết trái, sự chăm chú của thẩm phán Taylor bị lôi ra khỏi trang giấy vì tiếng sột soạt khó chịu. “Suỵt,” ông bảo Ann Taylor, con chó mập chẳng có gì đặc biệt của ông. Khi ấy ông nhận ra mình nói với cái phòng trống; tiếng sột soạt ở phía sau nhà. Thẩm phán Taylor bước huỳnh huỵch tới hàng hiên sau nhà để cho Ann ra ngoài và thấy cánh cửa lưới mở toang. Mắt ông bắt gặp một cái bóng ở góc nhà, đó là tất cả những gì ông thấy về người khách của mình. Bà Taylor đi lễ nhà thờ về thấy chồng ngồi trên ghế, đắm đuối trong các bài viết của Bob Taylor, với khẩu súng bắn đạn ghém vắt ngang đùi.

Việc thứ ba xảy ra cho Helen Robinson, vợ goá của Tom. Nếu ông Ewell bị lãng quên như Tom Robinson, thì Tom Robinson bị lãng quên như Boo Radley. Nhưng Tom không bị ông chủ của anh quên, ông Link Deas. Ông Link Deas bày việc cho Helen. Thật ra ông chẳng cần chị, nhưng ông nói ông cảm thấy rất bực về cách kết cuộc xảy ra. Tôi không biết ai săn sóc các con của Helen trong lúc chị vắng nhà. Calpurnia nói Helen rất vất vả, vì chị phải đi bộ xa thêm gần một dặm để tránh nhà Ewell. Theo Helen, họ “la lối chị” hôm đầu tiên chị định đi trên đường chung. Rốt cuộc ông Link Deas có ấn tượng là mỗi sáng Helen đến làm việc từ một hướng trật lất, ông truy chị để biết lý do. Helen năn nỉ: “Cứ mặc kệ thôi, ông Link, tôi xin ông.” Ông Link nói: “Khốn nạn thân tôi.” Ông bảo chị chiều hôm đó ghé cửa hàng của ông trước khi chị về. Chị nghe lời, và ông Link đóng cửa tiệm, ấn chặt cái mũ lên đầu, rồi cuốc bộ đưa Helen về nhà. Ông cuốc bộ đưa chị theo đường ngắn, ngang nhà Ewell. Trên đường quay lại, ông Link ngừng ở cánh cổng nghiêng ngả.

Ông gọi: “Ewell? Tao bảo Ewell!”

Các cửa sổ bình thường đầy nghẹt con nít, bây giờ trống trơn.

“Tao biết từng đứa tụi mày đang nằm dưới sàn trong đó! Bây giờ nghe tao nói, Bob Ewell, nếu tao còn nghe con Helen của tao líu nhíu một tiếng nữa là không đi đường này được, thì tao sẽ tống mày vô tù trước khi mặt trời lặn!” Ông Link nhổ nước bọt xuống đất rồi cuốc bộ về.

Sáng hôm sau Helen đi làm bằng đường chung. Không ai la lối chị, nhưng khi qua khỏi nhà Ewell mấy thước, chị ngó lại thấy ông Ewell đi phía sau. Chị quay lại rồi tiếp tục bước, ông Ewell cứ đi cách đều một khoảng phía sau, cho đến khi chị tới nhà ông Link Deas. Helen kể là trên suốt quãng đường tới nhà, chị nghe một giọng nói nhỏ sau lưng, léo nhéo những tiếng bậy bạ. Sợ mất vía, chị gọi điện thoại cho ông Link ở cửa hàng không xa nhà ông lắm. Lúc ông Link ra khỏi cửa hàng, ông thấy ông Ewell đang dựa hàng rào. Ông Ewell nói: “Link Deas, đừng có nhìn tao như rác. Tao hổng có nhào tới con…”

“Ewell, điều đầu tiên là mày đem cái xác hôi thúi của mày ra khỏi cơ ngơi tao. Mày dựa vô nó, tao hổng có tiền sơn lại. Điều thứ hai là mày tránh xa đầu bếp của tao, nếu không tao sẽ kiện mày tội hành hung…”

“Tao hổng đụng tới nó, Link Deas, mà cũng hổng định đi với đứa mọi đen nào!”

“Mày hổng cần đụng nó, mày chỉ cần làm nó sợ, còn nếu tội hành hung chưa đủ nhốt mày ít lâu, thì tao sẽ cho mày ở tù bằng Luật Phụ nữ[142], cút đi cho khuất mắt tao! Nếu mày hổng nghĩ tao nói thiệt thì cứ quấy rầy con nhỏ đó lần nữa!”

Ông Ewell rõ ràng nghĩ là ông Link nói thật, vì Helen kể là không gặp rắc rối nào nữa.

Bác Alexandra nhận định về các biến cố này: “Tôi không yên tâm, Atticus, tôi không yên tâm chút nào. Gã ấy có vẻ thù hận dai dẳng tất cả ai dính líu tới vụ án đó. Tôi biết loại người ấy sẽ trả thù như thế nào, nhưng tôi không hiểu tại sao hắn còn nuôi dưỡng thù hận… hắn đạt được cái hắn muốn ở toà rồi, phải không?”

Atticus nói: “Em nghĩ là em hiểu. Có thể vì trong thâm tâm hắn biết rất ít người ở Maycomb thật sự tin chuyện bịa đặt của hắn và Mayella. Hắn tưởng hắn sẽ là anh hùng, nhưng sau bao nhiêu khó nhọc hắn chỉ nhận được là… là, thôi được, mình sẽ kết án đứa da đen này nhưng mày về lại bãi rác của mày. Bây giờ hắn đã cà khịa với gần hết mọi người rồi, vì thế chắc là hắn hài lòng. Hắn sẽ lắng xuống khi thời tiết thay đổi.”

“Nhưng tại sao hắn định vào trộm nhà John Taylor? Rõ ràng hắn không biết John có ở nhà, nếu không hắn đã không dám. Tối Chúa nhật đèn nhà John chỉ bật lên ở hiên trước và trong phòng làm việc phía sau của ông ấy...”

Atticus nói: “Chị không biết Bob Ewell có cắt lưới cửa đó hay không, chị không biết ai làm. Nhưng em có thể đoán. Em đã chứng minh hắn là đứa nói láo, nhưng John làm hắn giống như thằng hề. Suốt lúc Ewell ngồi trên ghế nhân chứng, em không dám nhìn John và phải giữ bộ mặt nghiêm trang. John nhìn hắn như thể hắn là con gà ba cẳng hay quả trứng vuông. Đừng bảo em là các ông toà không cố tạo thành kiến cho bồi thẩm đoàn,” Atticus cười khúc khích.

Đến cuối tháng Mười, cuộc sống của chúng tôi ở trường, chơi đùa, học hành lại trở thành quen thuộc. Jem hình như đã gạt khỏi đầu óc những gì anh muốn quên, và tụi bạn cùng lớp tử tế để chúng tôi quên những việc kỳ dị của cha chúng tôi. Cecil Jacobs có lần hỏi tôi rằng Atticus có phải là đảng viên Cấp tiến[143]. Tôi hỏi Atticus, Atticus tỏ vẻ thích thú đến nỗi tôi hơi khó chịu, nhưng ông nói ông không cười tôi. Ông nói: “Con bảo với Cecil là ba cấp tiến như Cotton Tom Heflin[144].”

Bác Alexandra đang lên hương. Cô Maudie hẳn đã làm im miệng cả hội truyền giáo bằng một cú giáng, vì bác lại làm trùm cái tổ đó. Các món bánh trái của bác càng ngon hơn. Tôi biết thêm về cuộc sống xã hội của người Mruna đáng thương khi nghe bà Merriweather: họ ít có ý thức gia đình tới nỗi cả bộ lạc là một gia đình lớn. Bộ lạc có bao nhiêu đàn ông đàn bà thì đứa nhỏ có bấy nhiêu cha mẹ. J. Grimes Everett đang cố hết sức thay đổi tình trạng này, và rất cần lời cầu nguyện của chúng ta.

Maycomb lại như cũ. Y như năm ngoái năm kia, với hai thay đổi nhỏ. Thứ nhất, thiên hạ đã bóc khỏi tủ kính cửa hàng và trên xe hơi của họ miếng giấy ghi NRA – CHÚNG TA ĐÓNG GÓP PHẦN MÌNH. Tôi hỏi Atticus tại sao, ông nói vì Luật Phục hồi Quốc gia đã chết. Tôi hỏi ai giết chết nó, ông nói chín ông già.[145]

Thay đổi thứ hai ở Maycomb xảy ra năm nay và không có tầm vóc quốc gia. Trước kia, ngày hội Halloween[146] ở Maycomb là một trò hoàn toàn thiếu tổ chức. Bọn trẻ muốn làm gì thì làm, với mấy đứa khác phụ giúp nếu cần khiêng vác, chẳng hạn như khiêng chiếc xe độc mã nhỏ lên nóc chuồng ngựa cho thuê. Nhưng các ông bố bà mẹ nghĩ trò năm ngoái đã đi quá xa, khi chúng quấy rầy sự yên tĩnh của cô Tutti và cô Frutti.

Hai cô Tutti và Frutti Barber là hai cô gái già không chồng, hai chị em, sống với nhau trong ngôi nhà riêng hãnh diện có tầng hầm duy nhất ở Maycomb. Người ta đồn hai cô Barber là đảng viên Cộng hoà, từ thành phố Clanton, Alabama, di cư tới hồi năm 1911. Cách họ sống xa lạ với chúng tôi, và chẳng ai biết tại sao họ muốn có tầng hầm, nhưng họ muốn thế là họ đào hầm, rồi cả đời họ cứ phải đuổi từng đời con nít này tới đời con nít khác ra khỏi chỗ đó.

Hai cô Tutti và Frutti (tên thật là Sarah và Frances), ngoài kiểu cách Yankee của họ ra, cả hai đều điếc. Cô Tutti chối và sống trong thế giới thinh lặng, nhưng cô Frutti không chịu bỏ sót điều gì, cô dùng cái ống loe để nghe lớn tới nỗi Jem tuyên bố nó là cái loa phóng thanh của con chó Victrola.[147]

Với các sự kiện này trong đầu và ngày Halloween trong tay, một số đứa trẻ tai quái chờ tới khi hai cô Barber ngủ say rồi lẻn vô phòng khách (ban đêm không ai khoá cửa, ngoại trừ nhà Radley), lén lấy hết đồ đạc trong nhà không còn một cọng đem giấu dưới tầng hầm. Tôi từ chối tham dự vào một trò như vậy.

Sáng sớm hôm sau hàng xóm hai cô Barber bị thức dậy vì tiếng hét: “Tôi có nghe tụi nó! Nghe tụi nó lái chiếc xe vận tải tới sát cửa! Đi huỳnh huỵch vòng vòng như ngựa. Lúc này thì tụi nó tới New Orleans rồi!”

Cô Tutti chắc chắn bọn bán lông thú dạo ghé ngang thị trấn hai hôm trước đã cuỗm bàn ghế của họ. Cô nói: “Tụi nó đe-en thui-ui. Tụi Syria.”[148]

Ông Heck Tate được triệu đến. Ông xem xét hiện trường rồi nói ông nghĩ đây là do dân địa phương làm. Cô Frutti bảo nghe giọng Maycomb ở đâu cô cũng nhận ra, và tối hôm qua không có giọng Maycomb nào trong phòng khách – âm r của tụi nó rung khắp cơ ngơi nhà cô, chính tụi nó. Cô Tutti khăng khăng đòi phải dùng chó săn để tìm bàn ghế của họ, vì vậy ông Tate buộc phải đi mười dặm đầu đường cuối ngõ, gom hết chó săn trong quận hạt để cho chúng đánh hơi dấu vết.

Ông Tate thả chúng ở thềm trước nhà hai cô Barber, nhưng chúng chỉ chạy vòng ra sau nhà rồi tru ở cửa tầng hầm. Sau khi ông Tate thả chúng đánh hơi ba lần, cuối cùng ông đoán ra sự thật. Tới giữa trưa hôm đó không thấy một đứa con nít đi chân lấm nào ở Maycomb, và không đứa nào cởi giày cho đến khi lũ chó săn được trả về.

Vì thế các bà ở Maycomb nói năm nay mọi việc sẽ khác. Phòng hội của trường trung học sẽ mở cửa, người lớn sẽ có hoạt cảnh lịch sử, trẻ con có trò cắn táo trong chậu nước, kẹo kéo, bịt mắt gắn đuôi cho con lừa giấy. Cũng có giải thưởng hai mươi lăm xu cho bộ y phục Halloween đẹp nhất do chính người mặc tự chế tạo.

Cả Jem lẫn tôi đều rên. Không phải vì chúng tôi làm gì, mà vì chuyện cốt lõi. Jem nghĩ dù sao anh cũng đã quá lớn để dự Halloween; anh nói anh không muốn bị bắt gặp dính líu với trò gì đại khái như vậy ở bất cứ chỗ nào gần trường trung học. Tôi nghĩ, ôi dào, Atticus sẽ đưa tôi đi.

Tuy nhiên, chẳng mấy chốc tôi biết tối hôm đó tôi phải lên sân khấu. Bà Grace Merriweather sáng tác một hoạt cảnh mới tinh với tựa đề Hạt Maycomb: Ad Astra Per Aspera,[149] và tôi sẽ là cái đùi heo. Bà nghĩ hoạt cảnh sẽ dễ thương nếu mấy đứa con nít hoá trang thành các sản phẩm nông nghiệp của quận hạt: Cecil Jacobs sẽ hoá trang giống con bò; Agnes Boone sẽ làm hạt đậu bơ duyên dáng, một đứa khác làm đậu phọng, và cứ thế cho đến khi trí tưởng tượng của bà Merriweather và nguồn cung cấp con nít cạn kiệt.

Nhiệm vụ duy nhất của chúng tôi, theo tôi hiểu sau hai buổi tập dượt, là từ bên trái sân khấu đi vào khi bà Merriweather (vừa là tác giả, vừa là người kể chuyện) gọi tới chúng tôi. Khi bà gọi “Thịt heo” thì đó là ám hiệu gọi tôi. Sau đó đoàn kịch sẽ hát “Hạt Maycomb, Hạt Maycomb, toàn thể chúng tôi nguyện trung thành” để chấm dứt buổi trình diễn một cách hoành tráng, và bà Merriweather sẽ leo lên sân khấu với lá cờ tiểu bang.

Y phục của tôi không là vấn đề lắm. Bà Crenshaw thợ may ở địa phương cũng dồi dào trí tưởng tượng như bà Merriweather. Bà Crenshaw lấy lưới chuồng gà uốn thành hình cái đùi heo muối. Bà lấy vải nâu phủ bên ngoài, rồi sơn nó cho giống mẫu. Tôi có thể chui vào bên dưới rồi một người kéo bộ áo chế biến đó xuống qua đầu tôi. Nó dài gần tới đầu gối tôi. Bà Crenshaw chu đáo chừa hai lỗ cho tôi nhìn. Bà làm thật khéo. Jem nói tôi nom giống y như cái đùi heo có hai chân. Nhưng có vài bất tiện: nó nóng om, nó chật khít, nếu ngứa mũi thì không gãi được, và khi đã chui vào thì tôi không thể tự mình chui ra.

Đến ngày Halloween, tôi nghĩ cả gia đình sẽ có mặt để xem tôi trình diễn, nhưng tôi thất vọng. Atticus nói hết sức khéo rằng ông không nghĩ ông có thể đứng xem nổi buổi hoạt cảnh tối nay, ông đừ quá. Ông đã ở Montgomery một tuần và chiều hôm đó về đến nhà trễ. Ông nghĩ Jem có thể hộ tống tôi nếu tôi nhờ anh.

Bác Alexandra nói bác phải đi ngủ sớm, bác đã trang trí sân khấu cả buổi chiều và mệt rã rượi - bác ngừng giữa câu. Bác chép miệng, rồi mở miệng để nói nhưng không phát ra tiếng nào.

Tôi hỏi: “Thưa bác, chuyện gì vậy?”

Bác nói: “Ồ không có gì, không có gì, có người vừa mới bước qua mộ bác.”[150] Bác gạt phắt đi điều đã làm bác nhức nhối lo sợ, và đề nghị tôi diễn trước cho gia đình xem trong phòng khách. Vì thế Jem nhét tôi vào bộ áo hoá trang, anh đứng ở cửa phòng khách, gọi “Thịt he-eo”, đúng y như bà Merriweather, và tôi bước vào. Atticus và bác Alexandra thích lắm.

Tôi lặp lại vai diễn của mình cho Calpurnia xem trong bếp, bà nói tôi thật tuyệt. Tôi muốn qua bên kia đường để biểu diễn cho cô Maudie xem, nhưng Jem nói chắc thế nào cô ấy cũng sẽ có mặt ở buổi hoạt cảnh.

Sau đó, mọi người đi hay không cũng chẳng thành vấn đề. Jem nói anh sẽ đưa tôi đi. Chuyến đi dài nhất của chúng tôi với nhau bắt đầu như thế.

 

 

 

 

 

 

 

28

 

Thời tiết ấm bất thường đối với ngày cuối cùng của tháng Mười. Thậm chí chúng tôi không cần áo khoác. Gió thổi mạnh hơn, Jem nói có thể mưa trước khi chúng tôi về. Trời không trăng.

Ngọn đèn ở góc đường để lại những hình bóng rõ nét trên nhà Radley. Tôi nghe Jem cười khẽ. Anh nói: “Đánh cuộc là tối nay không ai quấy rầy họ.” Jem cầm bộ trang phục đùi heo của tôi, hơi lúng túng vì khó cầm. Tôi nghĩ anh khéo chiều con gái.

Tôi nói: “Dù sao nhà đó cũng dễ sợ chứ nhỉ? Boo không có ý hại ai, nhưng em rất mừng là có anh đi theo.”

Jem nói: “Mày biết Atticus không để mày đi tới trường một mình.”

“Không hiểu tại sao vậy, chỉ vòng góc đường rồi băng qua sân trường thôi mà.”

Jem trêu: “Cái sân dài quá xá cỡ, ban đêm mấy đứa con gái đâu có băng qua được. Mày hổng sợ ma ám à?”

Chúng tôi cười lớn. Ma ám, Nhiệt quái, thần chú, mật hiệu, tất cả đã tan biến theo năm tháng như sương mù tan khi mặt trời mọc. Jem nói: “Câu hồi xưa là gì nhỉ, Thiên thần sáng trí, sống chết cõi nào; tránh khỏi đường đi, đừng hớp hơi tao.”

Tôi nói: “Im ngay lập tức.” Chúng tôi đang ở trước nhà Radley.

Jem nói: “Boo chắc không ở nhà. Nghe kìa.”

Tít trên cao trong bóng đêm, một con chim nhại lẻ loi đang sung sướng trút ra hết các bài hát sở trường của nó mà không biết nó đang đậu trên cây của ai, náo nức đổi từ tiếng ki-ki the thé của chim hướng dương, qua tiếng quác-quác cáu kỉnh của chim giẻ xanh, tới tiếng than vãn u-ơ u-ơ u-ơ buồn bã của chim đớp muỗi.

Chúng tôi rẽ ở góc phố, tôi vấp rễ cây nhô lên mặt đường. Jem định đỡ tôi, nhưng chỉ kịp buông bộ trang phục của tôi xuống đất. Nhưng tôi không ngã, và chúng tôi lại tiếp tục đi ngay.

Chúng tôi bỏ đường lộ để vào sân trường. Sân tối như mực.

Khi chúng tôi đi được vài bước, tôi hỏi: “Làm sao anh biết mình đang ở đâu, Jem?”

“Tao biết mình đang ở dưới cây sồi lớn vì mình đang đi qua một chỗ mát. Cẩn thận, đừng ngã nữa.”

Chúng tôi thận trọng bước chậm lại, mò mẫm đường tiến tới để khỏi đụng vào cây. Cây sồi cổ thụ độc nhất, hai đứa trẻ không ôm hết được thân cây. Nó cách xa các giáo viên, những kẻ rình mò và các láng giềng tọc mạch: nó mọc gần lô đất nhà Radley, nhưng người nhà Radley không tọc mạch. Khoảnh đất nhỏ dưới tán cây bị nện chặt vì nhiều trận đánh nhau và trò chơi đổ súc sắc lén lút.

Đèn trong phòng hội của trường trung học rực sáng đằng xa, nhưng nó chỉ làm chúng tôi loà mắt. Jem nói: “Đừng ngó phía trước, Scout, nhìn xuống đất thì mày sẽ không ngã.”

“Đáng lẽ anh nên đem theo đèn pin, Jem.”

“Đâu có biết trời tối cỡ này. Lúc chập tối đâu có vẻ sẽ tối cỡ này. Mây nhiều quá mới như vậy. Nhưng lát nữa sẽ hết.”

Có người nhảy xổ vào chúng tôi.

Jem hét lên: “Chúa ơi!”

Một vòng sáng rọi thẳng vào mặt chúng tôi, Cecil Jacobs nhảy cỡn lên thích thú sau ánh đèn. Nó rú lên: “Ha ha, bắt được tụi mày! Đoán tụi mày đi lối này!”

“Mày làm gì ở tuốt ngoài này một mình hả, nhóc tì? Mày hổng sợ Boo Radley hả?”

Cecil đi xe của ba má nó an toàn tới phòng hội, không thấy chúng tôi, nó cả gan ra tận đây vì biết rõ mười mươi là chúng tôi sẽ đến bằng lối này. Nhưng nó nghĩ ông Finch sẽ đi với chúng tôi.

Jem nói: “Đâu có gì, chỉ vòng chút xíu qua góc đường. Ai mà sợ đi vòng qua góc này?” Nhưng chúng tôi phải thừa nhận là Cecil rất khá. Nó đã làm chúng tôi hoảng vía, và nó sẽ kể khắp trường, nó có quyền kể.

Tôi nói: “Ê, tối nay mày hổng là con bò hả? Bộ áo của mày đâu?”

Nó nói: “Phía sau sân khấu. Bà Merriweather nói còn lâu mới diễn tới hoạt cảnh. Scout, mày cất bộ áo của mày sau sân khấu kế bên bộ của tao, rồi mình đi chơi với tụi nó.”

Jem nghĩ ý kiến đó tuyệt vời. Anh cũng nghĩ Cecil và tôi đi với nhau là hay lắm. Bằng cách này, Jem sẽ được yên thân đi với đám cùng lứa tuổi của anh.

Khi chúng tôi tới phòng hội, cả thị trấn ở đó, trừ Atticus và các bà bị mệt đừ vì lo trang hoàng, và những kẻ thường cà lơ thất thểu hoặc ru rú ở nhà. Hình như gần hết dân trong quận hạt ở đó, vì hội trường đầy nức dân quê chưng diện. Trường trung học có một hành lang rộng ở tầng dưới, thiên hạ chen chúc quanh các quầy dựng dọc hai bên hành lang.

Tôi thở dài khi thấy các quầy: “Ồ Jem, em quên mang tiền.”

Jem nói: “Atticus không quên. Ba chục xu đây, mày chơi được sáu thứ. Chút nữa gặp lại mày.”

Tôi nói: “Ừ,” khá hài lòng với ba chục xu và có Cecil. Tôi đi với Cecil tới trước phòng hội, qua cửa hông vào phía sau sân khấu. Tôi bỏ bộ y phục đùi heo của mình rồi đi vội ra, vì bà Merriweather đang đứng chỗ bục giảng trước hàng ghế đầu, hí hoáy sửa kịch bản vào phút chót.

Tôi hỏi Cecil: “Mày có bao nhiêu tiền?” Cecil cũng có ba chục xu, vậy là chúng tôi bằng nhau. Chúng tôi phí đồng năm xu đầu tiên vào Nhà Ghê Rợn, nó chẳng làm chúng tôi sợ chút nào; chúng tôi vào phòng học tối om của lớp bảy, được con ma cà rồng tạm thời nội trú trong đó dắt đi vòng quanh, và bị bắt sờ một vài thứ nói là những bộ phận của thân thể con người. Chúng tôi được bảo “Đây là cặp mắt,” khi sờ hai quả nho lột vỏ trên cái đĩa. “Đây là trái tim,” cảm giác giống như lá gan sống. “Đây là bộ đồ lòng của ổng,” và tay chúng tôi bị ấn vào một đĩa sợi mì lạnh.

Cecil và tôi thăm một vài quầy. Chúng tôi mỗi đứa mua một túi kẹo mềm do bà thẩm phán Taylor làm. Tôi muốn chơi cắn táo, nhưng Cecil nói trò chơi mất vệ sinh. Má nó nói có thể bị lây bệnh từ đầu của người đã cúi vào cái chậu trước đó. Tôi phản đối: “Hồi này ở thị trấn đâu có cái gì để lây.” Nhưng Cecil nói má nó bảo ăn thừa của người khác là mất vệ sinh. Về sau tôi hỏi bác Alexandra chuyện đó, bác nói những người nghĩ như vậy thường là những kẻ cố trèo cao.

Lúc chúng tôi sắp mua cục kẹo kéo thì các phụ tá chạy việc cho bà Merriweather xuất hiện bảo chúng tôi ra phía sau sân khấu, đến giờ chuẩn bị. Hội trường đầy người, ban nhạc Trường Trung học Hạt Maycomb đã tập họp phía trước bên dưới sân khấu, đèn sàn sân khấu đã bật và tấm màn nhung đỏ gợn sóng cuồn cuộn vì sự nhốn nháo phía sau.

Ở hậu trường, Cecil và tôi thấy hành lang hẹp đầy nghẹt người: người lớn đội mũ ba góc tự may, mũ lưỡi trai của Nam quân, mũ thời chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, mũ sắt thời Thế chiến. Trẻ con mặc đủ kiểu nông phẩm chen chúc quanh một khoang cửa sổ nhỏ.

Tôi rầu rĩ than thở: “Có người làm bẹp bộ trang phục của tao.” Bà Merriweather phóng tới, nắn lại lưới chuồng gà rồi nhét tôi vào.

Cecil hỏi: “Mày yên ổn trong đó không, Scout? Giọng mày nghe xa lắc, giống như mày ở bên kia đồi.”

Tôi nói: “Giọng mày nghe cũng đâu có gần hơn.”

Ban nhạc cử quốc thiều, chúng tôi nghe khán giả đứng dậy. Rồi tiếng trống đại vang rền. Đứng phía sau bục giảng bên cạnh ban nhạc, bà Merriweather nói: “Hạt Maycomb Ad Astra Per Aspera.” Tiếng trống đại lại nổi lên ầm ầm. Bà Merriweather thông dịch cho những phần tử quê mùa: “Nghĩa là từ đất bùn lên tới sao trời.” Bà nói thêm: “Một hoạt cảnh lịch sử,” đối với tôi hình như không cần thiết.

Cecil thì thào: “Chắc họ hổng biết là cái gì nếu bả hổng nói cho họ.” Nó lập tức bị suỵt.

Tôi thì thầm: “Cả thị trấn biết.”

Cecil nói: “Nhưng có dân nhà quê tới.”

Một giọng đàn ông ra lệnh: “Phía sau đó im lặng.” Và chúng tôi nín.

Tiếng trống đại nổi lên ầm ầm theo từng câu bà Merriweather thốt ra. Bà sầu thảm ngân nga rằng hạt Maycomb có trước tiểu bang từ  lâu, rằng nó là một phần của Mississippi và Lãnh thổ Alabama, rằng người da trắng đầu tiên đặt chân lên khu rừng trinh nguyên là cụ tổ năm đời của ông thẩm phán toà di sản, người không bao giờ được nghe nói tới nữa. Sau đó đại tá Maycomb dũng cảm đến, tên ông được đặt cho hạt này.

Andrew Jackson trao quyền cho ông, và lòng tự tin không đúng chỗ cũng như hiểu biết kém cỏi về phương hướng của đại tá Maycomb đã đem thảm hoạ tới cho tất cả những người đi cùng ông trong cuộc chiến với người da đỏ bộ lạc Creek. Đại tá Maycomb kiên quyết biến vùng đất thành chốn an toàn cho nền dân chủ, nhưng cuộc hành quân đầu tiên của ông cũng là cuối cùng. Ông nhận được lệnh tiến về phía nam, do một phái viên da đỏ thuộc phe ta chuyển đến. Sau khi xem nấm trên cây để xác định hướng nam, và bỏ ngoài tai lời của các thuộc cấp dám cả gan sửa sai ông, đại tá Maycomb bắt đầu một chuyến đi nhằm đánh cho tan tác kẻ thù, và đoàn quân của ông lạc tuốt lên hướng tây bắc trong khu rừng nguyên sinh, lạc xa tới nỗi rốt cuộc họ được giải cứu bởi những người đang vào sâu trong lục địa tìm nơi định cư.

Bà Merriweather tả kỳ công của đại tá Maycomb trong ba chục phút. Tôi khám phá ra rằng nếu quỳ xuống tôi có thể nhét đầu gối vào bộ trang phục rồi gần như ngồi tạm được. Tôi ngồi xuống, lắng nghe giọng đều đều của bà Merriweather và tiếng trống đại vang rền, rồi chẳng bao lâu tôi ngủ say.

Về sau họ kể là bà Merriweather đặt hết mình vào màn kết thúc hoành tráng, bà ngân nga “Thịt he-eo” với niềm tin nảy nở từ những cây thông và hạt đậu đã vào đúng theo ám hiệu. Bà đợi vài giây, rồi gọi “Thịt he-eo?” Khi chẳng có gì biến thành hiện thực, bà hét “Thịt heo!”

Chắc tôi đã nghe bà gọi trong giấc ngủ, hay ban nhạc chơi bài Dixie đánh thức tôi, nhưng khi bà Merriweather hoan hỉ lên sân khấu với lá cờ tiểu bang thì tôi chọn lúc đó để vào. Không đúng là chọn: tôi nghĩ mình nên bắt kịp mấy đứa kia.

Về sau họ kể cho tôi rằng thẩm phán Taylor ra đứng phía sau hội trường vỗ đầu gối mạnh tới nỗi bà Taylor mang cho ông ly nước và một viên thuốc.

Màn diễn của bà Merriweather hình như thành công lớn, mọi người hoan hô lắm, nhưng bà bắt gặp tôi ở hậu trường và nói tôi đã làm hỏng hoạt cảnh của bà. Bà làm tôi cảm thấy hãi hùng, nhưng khi Jem đến tìm tôi, anh tỏ ra thông cảm. Anh nói từ chỗ anh ngồi chẳng thấy rõ gì lắm bộ trang phục của tôi. Tôi không rõ làm sao anh biết tôi cảm thấy xấu hổ bên trong bộ trang phục, nhưng anh nói tôi diễn cũng được, tôi chỉ vào hơi trễ một chút, thế thôi. Jem đang trở nên khá gần bằng Atticus trong việc làm tôi cảm thấy yên tâm khi sự việc không ổn. Gần bằng thôi – vì ngay cả Jem cũng không thể bảo tôi đi xuyên qua đám đông đó, và anh bằng lòng chờ trong hậu trường với tôi đến khi khán giả về hết.

Anh hỏi: “Muốn gỡ nó ra không Scout?”

Tôi nói: “Không, em cứ mặc.” Tôi có thể giấu vẻ xấu hổ của mình bên trong bộ áo.

Có người hỏi: “Các cháu có muốn quá giang về không?”

Tôi nghe Jem nói: “Thưa không, cám ơn bác. Chỉ đi bộ một quãng ngắn thôi mà.”

Giọng đó nói: “Coi chừng ma. Ồ đúng hơn nên bảo mấy con ma coi chừng Scout.”

Jem bảo tôi: “Bây giờ chẳng còn mấy người. Mình về.”

Chúng tôi đi xuyên qua hội trường ra tới hành lang, rồi xuống các bậc thềm. Trời vẫn tối mịt. Những chiếc xe còn lại đều đậu bên kia toà nhà, và đèn pha của xe chẳng giúp được gì. Jem nói: “Nếu có chiếc nào đi cùng hướng với mình thì mình có thể thấy rõ hơn. Scout nè, để tao nắm… giò heo của mày. Mày có thể bị mất thăng bằng.”

“Em thấy được.”

“Ừ, nhưng mày có thể mất thăng bằng.” Tôi cảm thấy trên đầu bị ấn nhẹ, và nghĩ Jem đã nắm khúc cuối của cái đùi heo. “Anh nắm em đó hả?”

“Ừ.”

Chúng tôi bắt đầu băng ngang sân trường tối om, mở căng mắt nhìn chân mình. Tôi nói: “Jem, em để quên giày phía sau sân khấu.”

“Ồ, mình đi lấy.” Nhưng lúc chúng tôi quay lại, đèn hội trường tắt ngóm. Anh nói: “Ngày mai mày lấy cũng được.”

Tôi phản đối khi Jem quay tôi về hướng nhà: “Nhưng ngày mai là Chúa nhật.”

“Mày có thể nói ông quét dọn cho mày vào… Scout?”

“Hả?”

“Không.”

Từ lâu rồi Jem không còn nói nhát gừng kiểu đó. Tôi tự hỏi anh đang nghĩ gì. Anh sẽ nói cho tôi khi anh muốn, có lẽ khi chúng tôi về đến nhà. Tôi cảm thấy ngón tay anh đè lên đầu bộ trang phục của tôi, có vẻ ấn quá mạnh. Tôi lắc đầu: “Jem, anh không phải…”

Anh vừa bảo, vừa bóp tôi: “Im một chút, Scout.”

Chúng tôi im lặng bước đi. Tôi nói: “Hết một chút rồi. Anh đang nghĩ cái gì vậy?” Tôi quay nhìn anh, nhưng khó thấy dáng bộ anh.

Anh nói: “Tao nghĩ tao nghe cái gì. Ngừng lại một chút.”

Chúng tôi ngừng lại.

Anh hỏi: “Nghe gì không?”

“Không.”

Chúng tôi đi chưa được năm bước thì anh ngừng tôi lại lần nữa.

“Jem, anh định làm em sợ hả? Anh biết em lớn rồi…”

Anh nói: “Im,” và tôi biết anh không đùa.

Đêm im lắng. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của anh bên cạnh tôi. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ chợt thổi lên đôi chân trần của tôi, nhưng một đêm hứa hẹn lộng gió chỉ còn như thế. Đây là yên tĩnh trước cơn bão. Chúng tôi lắng nghe.

Tôi nói: “Mới nghe tiếng con chó già.”

Jem đáp: “Không phải, tao nghe lúc mình đi, nhưng lúc mình ngừng thì tao không nghe.”

“Anh nghe bộ áo của em sột soạt. A, Halloween làm anh sợ…”

Tôi nói để tự thuyết phục mình hơn là Jem, vì chắc chắn lúc chúng tôi bắt đầu bước, tôi nghe được tiếng động mà anh nhắc tới. Không phải tiếng bộ áo của tôi.

Jem lập tức nói: “Chắc chỉ là thằng nhóc Cecil. Nó không doạ được mình nữa đâu. Đừng để nó nghĩ mình đang vội.”

Chúng tôi đi thật chậm lại. Tôi hỏi Jem làm sao Cecil theo mình trong tối đen như thế này được, coi bộ nó sẽ tông vào sau lưng mình.

Jem nói: “Tao thấy được mày, Scout.”

“Làm sao thấy được? Em không thấy anh.”

“Mấy vệt mỡ của mày hiện rõ. Bà Crenshaw sơn bằng chất bóng để nó nổi lên dưới ánh đèn sàn sân khấu. Tao thấy mày khá rõ, tao chắc Cecil cũng thấy mày đủ rõ để giữ khoảng cách.”

Tôi sẽ cho Cecil thấy chúng tôi biết nó phía sau và chúng tôi sẵn sàng đối phó với nó. Tôi thình lình quay lại la: “Cecil Jacobs là con gà-à má-ái ướt!”

Chúng tôi ngừng lại. Không có tiếng trả lời, trừ tiếng gà-à má-ái dội về từ bức tường trường học đằng xa.

Jem nói: “Tao sẽ tóm nó. Ê-ê!”

Bức tường trường học đáp lại ê-ê-ê-ê. Không có vẻ Cecil kiên trì lâu như thế; một khi nó đùa, nó sẽ lặp lại nhiều lần. Chúng tôi đáng lẽ đã bị nhảy xổ vào rồi. Jem ra hiệu tôi ngừng lại lần nữa.

Anh nói nhỏ: “Scout, mày gỡ cái đó ra được không?”

“Em nghĩ được, nhưng em không mặc gì mấy bên trong.”

“Tao có váy của mày đây.”

“Em không mặc được trong bóng tối.”

Anh nói: “Thôi được, không sao.”

“Jem, anh sợ à?”

“Không. Tao nghĩ bây giờ mình sắp tới cái cây rồi. Còn cách nó vài thước, rồi mình sẽ ra đường. Lúc đó mình có thể thấy đèn đường.” Jem nói bằng một giọng không vội vàng, dửng dưng thiếu sinh khí. Tôi tự hỏi anh còn định giữ trò bí ẩn Cecil bao lâu nữa.

“Anh có nghĩ là mình nên hát không, Jem?”

“Không. Thật im lần nữa xem sao, Scout.”

Chúng tôi đã không tăng tốc độ. Jem cũng biết như tôi rằng khó đi nhanh mà không vấp ngón chân, trượt trên sỏi, và những phiền phức khác, vả lại tôi còn đi chân không nữa. Có lẽ đó là gió thổi làm cây cối xào xạc. Nhưng trời không một ngọn gió và không có cây nào trừ cây sồi cổ thụ.

Kẻ đồng hành với chúng tôi kéo lê chân của hắn tựa như đang đi đôi giày nặng. Bất kể là ai, hắn mặc quần vải dày, tiếng xào xạc mà tôi nghĩ do cây cối chính là tiếng sột soạt nho nhỏ của vải bông cọ xát vào nhau, sột-soạt-sột-soạt, theo mỗi bước chân.

Tôi cảm thấy cát lạnh dưới chân và biết chúng tôi đang ở gần cây sồi cổ thụ. Jem ấn đầu tôi. Chúng tôi ngừng lại nghe ngóng.

Lần này tiếng lê chân không ngừng lại theo chúng tôi. Quần hắn sột soạt nho nhỏ và đều, rồi ngừng. Hắn chạy, chạy tới chúng tôi, không phải bằng bước chân trẻ con.

Jem hét: “Chạy, Scout! Chạy! Chạy!”

Tôi bước một bước dài và thấy mình quay cuồng: cánh tay tôi vô dụng trong bóng tối, tôi không giữ được thăng bằng.

“Jem, Jem, cứu em, Jem!”

Lưới chuồng gà bao quanh tôi bị vật gì ép bẹp lại. Dây kim loại cắt đứt nhau, tôi ngã xuống và cố sức lăn thật xa, vùng vẫy để thoát khỏi vòng lưới tù túng. Gần đó có tiếng ẩu đả, đánh đá, tiếng giày và da thịt cọ xát trên đất và rễ cây. Có người lăn đụng tôi, tôi cảm thấy đó là Jem. Anh đứng lên như chớp và kéo tôi theo anh, mặc dù đầu và vai tôi đã thoát ra, tôi vẫn quá vướng víu nên chúng tôi không chạy được xa lắm.

Khi chúng tôi gần tới đường, tôi cảm thấy bàn tay Jem buông tôi ra, cảm thấy anh bị giật ngược xuống đất. Lại nghe ẩu đả, có tiếng rắc khô khan và Jem hét lên.

Tôi chạy tới hướng Jem hét và lao vào cái bụng đàn ông mềm nhẽo. Chủ nhân cái bụng kêu: “Hự!” và định nắm hai cánh tay tôi, nhưng tay bị bó chặt. Bụng hắn mềm nhưng cánh tay hắn như sắt. Hắn từ từ siết tôi nghẹt thở. Tôi không cử động được. Thình lình hắn bị giật ngược ra sau và bị vật xuống đất, gần như kéo cả tôi theo. Tôi nghĩ Jem đã đứng lên.

Nhiều khi trí óc làm việc rất chậm. Sững sờ, tôi đứng đờ đẫn ở đó. Tiếng xô xát lắng dần, có người thở khò khè và đêm lại yên tĩnh.

Yên tĩnh, trừ tiếng một người đang thở nặng nhọc, thở nặng nhọc và đứt quãng. Tôi nghĩ ông ta đi tới dựa vào cây sồi. Ông ta ho dữ dội, tiếng ho sù sụ và chấn động xương cốt.

“Jem?”

Không có tiếng trả lời, trừ tiếng người đàn ông thở nặng nhọc.

“Jem?”

Jem không trả lời.

Người đàn ông bắt đầu di chuyển loanh quanh, như thể đang tìm vật gì. Tôi nghe ông ta rên rỉ kéo một vật nặng trên mặt đất. Dần dần tôi nhận ra lúc này có bốn người dưới cây sồi.

“Atticus…?”

Người đàn ông bước nặng nhọc và lảo đảo ra đường.

Tôi đi tới chỗ tôi nghĩ là có ông ta, và hoảng loạn đưa ngón chân mò mẫm trên mặt đất tìm lối. Lập tức tôi đụng một người.

“Jem?”

Ngón chân tôi đụng cái quần, cái khoá thắt lưng, cúc áo, mấy thứ tôi không nhận ra, cái cổ áo, rồi khuôn mặt. Râu ria lởm chởm trên mặt cho tôi biết đó không phải là Jem. Tôi ngửi thấy mùi rượu chua nồng.

Tôi mò theo hướng tôi nghĩ là dẫn ra đường. Tôi không chắc, vì tôi đã bị xoay vòng quá nhiều lần. Nhưng tôi tìm thấy và nhìn về phía đèn đường. Một người đang đi dưới ánh đèn. Người đàn ông đi những bước khập khiễng của một người đang vác nặng quá sức mình. Ông ta đang đi vòng qua góc đường. Ông ta đang khiêng Jem. Cánh tay Jem lủng lẳng như điên dại phía trước ông.

Lúc tôi đến góc đường thì người đàn ông đang băng qua sân trước nhà tôi. Atticus hiện ra giữa ánh đèn cửa trước trong một tích tắc; ông chạy xuống bậc thềm, rồi cùng với người đàn ông mang Jem vào nhà.

Tôi đến cửa nhà lúc họ đang đi vào hành lang. Bác Alexandra chạy đón tôi. Giọng Atticus sắc rõ vọng ra từ trong phòng Jem: “Gọi bác sĩ Reynolds! Scout đâu?”

Bác Alexandra nói: “Nó đây,” rồi kéo tôi theo tới máy điện thoại. Bác lo lắng lôi tôi. Tôi nói: “Cháu không sao, thưa bác, bác cứ gọi đi.”

Bác nhấc ống nghe và nói: “Eula May, gọi bác sĩ Reynolds, nhanh!”

“Agnes, ba cháu có nhà không? Chúa ơi, ông ấy ở đâu? Lúc nào ông ấy về thì bảo ông ấy đến đây ngay. Nhớ nhé, khẩn cấp đấy!”

Bác Alexandra không cần xưng danh, người ở Maycomb biết giọng nói của nhau.

Atticus ra khỏi phòng Jem. Ngay khi bác Alexandra cúp máy, Atticus cầm lấy ống nghe từ tay bác. Ông nhịp lách cách cái móc ống nghe, rồi nói: “Eula May, làm ơn gọi cho tôi ông cảnh sát trưởng.”

“Heck? Atticus Finch. Có người tấn công hai đứa con tôi. Jem bị thương. Giữa đây với trường học. Tôi không rời con trai tôi được. Làm ơn chạy ra đó hộ tôi, xem hắn còn quanh đó không. Không chắc bây giờ ông còn tìm được hắn, nhưng tôi muốn gặp hắn nếu ông tìm được. Thôi tôi ngừng. Cám ơn Heck.”

“Atticus, Jem chết rồi hả?”

“Không, Scout. Nhờ chị trông nom con bé,” ông vừa nói vừa đi xuống hành lang

Ngón tay bác Alexandra run rẩy tháo mớ vải nhàu nát và lưới sắt quanh tôi. “Cháu có sao không cháu?” Bác cứ hỏi đi hỏi lại lúc gỡ tôi ra.

Ra khỏi được nó thật nhẹ nhõm. Hai cánh tay tôi bắt đầu ngứa, và nó có các vết đỏ hình lục giác nhỏ. Tôi chà xát cánh tay và cảm thấy dễ chịu hơn.

“Bác, Jem chết rồi hả?”

“Không… không đâu cháu, anh bị bất tỉnh. Khi bác sĩ Reynolds đến thì mình mới biết anh bị thương tới mức nào. Jean Louise, chuyện gì xảy ra vậy?”

“Cháu không biết.”

Bác thôi không nói nữa. Bác lấy áo quần cho tôi mặc, và nếu lúc ấy tôi nghĩ thì tôi sẽ không bao giờ để bác quên: trong lúc bối rối bác đem bộ áo liền quần cho tôi. Bác vừa nói, vừa đưa cho tôi bộ quần áo bác ghét nhất: “Cháu mặc cái này vào.”

Bác chạy ngược vào phòng Jem, rồi chạy tới tôi trong hành lang. Bác lơ đãng vỗ về tôi, rồi đi về phòng Jem.

Một chiếc xe ngừng trước nhà. Tôi biết rõ tiếng chân bác sĩ Reynolds gần như biết tiếng chân của cha mình. Ông đã đỡ cho Jem và tôi ra đời, đã chữa cho chúng tôi mọi thứ bệnh trẻ con mà mọi người đều biết, kể cả lần Jem ngã khỏi căn nhà trên cây, và ông không bao giờ mất tình bạn của chúng tôi. Bác sĩ Reynolds nói nếu chúng tôi là thứ đầy mụn nhọt thì chưa chắc ông đã thân, nhưng chúng tôi không tin.

Ông bước vào cửa và nói: “Chúa ơi.” Ông vừa đi tới phía tôi vừa nói: “Cháu vẫn còn đứng được,” rồi ông đổi hướng. Ông biết tất cả các phòng trong nhà. Ông cũng biết nếu tôi lừ khừ thì Jem cũng lừ khừ.

Sau mười lần dài bất tận, bác sĩ Reynolds trở lại. Tôi hỏi: “Jem chết rồi hả?”

Ông vừa ngồi chồm hỗm xuống vừa nói: “Còn lâu. Anh ấy bị u đầu như cháu, và gãy một cánh tay. Scout, nhìn phía đó… đừng, đừng quay đầu, liếc mắt thôi. Bây giờ nhìn đằng kia. Anh ấy bị gãy nặng, lúc này bác chỉ biết là gãy chỗ cùi chỏ. Như có người định vặn đứt cánh tay anh ấy… Bây giờ nhìn bác.”

“Vậy thì anh ấy không chết hả?”

“Khô-ông!” Bác sĩ Reynolds đứng lên. Ông nói: “Tối nay mình chẳng làm được gì mấy, ngoại trừ cố giúp anh ấy càng dễ chịu càng tốt. Mình sẽ phải chụp quang tuyến X cánh tay anh… coi bộ anh ấy sẽ phải đeo cánh tay xa ra một bên hông trong ít lâu. Nhưng đừng lo, anh ấy sẽ lành lại như mới. Bọn con trai tuổi anh ấy mau lành.”

Trong lúc nói bác sĩ Reynolds khám kỹ tôi, sờ nhẹ cục u trên trán tôi. “Cháu không cảm thấy gẫy ghiếc chỗ nào chứ?”

Câu nói đùa của bác sĩ Reynolds làm tôi mỉm cười. “Vậy thì cháu không nghĩ là anh ấy chết nữa chứ?”

Ông đội mũ vào. “Ồ dĩ nhiên bác có thể sai, nhưng bác nghĩ anh ấy còn sống khoẻ re. Mọi triệu chứng đều cho thấy như vậy. Đi ngó anh ấy một cái, khi bác trở lại thì mình sẽ họp nhau rồi tính.”

Bước chân bác sĩ Reynolds trẻ trung và nhanh nhẹn. Bước của ông Heck Tate thì không. Đôi ủng nặng của ông trừng trị hiên nhà và ông vụng về mở cửa, nhưng ông nói y như bác sĩ Reynolds lúc ông bước vào. Rồi ông nói thêm: “Cháu khoẻ chứ, Scout?”

“Vâng thưa ông, cháu sắp vào xem Jem. Atticus với mọi người trong đó.”

Ông Tate nói: “Bác đi với cháu.”

Bác Alexandra đã che bớt ngọn đèn đọc sách của Jem bằng cái khăn tắm, phòng anh mờ tối. Jem đang nằm ngửa. Một bên mặt anh có một vết xấu xí. Cánh tay trái anh nằm xa thân mình, khuỷu tay hơi cong, nhưng cong sai chiều. Jem đang nhăn mặt.

“Jem…?”

Atticus nói: “Anh không nghe được con đâu, Scout, anh đang mê. Anh sắp tỉnh, nhưng bác sĩ Reynolds lại cho anh thuốc mê.”

“Vâng thưa ba.” Tôi lùi lại. Phòng Jem lớn và vuông. Bác Alexandra đang ngồi trên cái ghế bập bênh bên cạnh lò sưởi. Người đàn ông mang Jem về đang đứng dựa góc tường. Ông ta là người vùng quê, tôi không biết ông. Hẳn ông đã dự buổi hội, và đang ở gần đó lúc xảy ra sự việc. Ông chắc phải nghe tiếng chúng tôi hét rồi chạy đến.

Atticus đứng bên cạnh giường Jem.

Ông Heck Tate đứng ở ngưỡng cửa. Mũ ông trong tay, chiếc đèn pin phồng lên trong túi quần. Ông đang mặc bộ quần áo làm việc.

Atticus nói: “Vào đi, Heck. Ông tìm thấy gì không? Tôi không hình dung được kẻ nào thấp hèn tới mức làm chuyện này, nhưng tôi hy vọng ông tìm thấy hắn.”

Ông Tate khịt mũi. Ông lừ mắt liếc người đàn ông trong góc, gật đầu chào ông ta, rồi nhìn quanh phòng – nhìn Jem, nhìn bác Alexandra, rồi nhìn Atticus.

Ông vui vẻ nói: “Ngồi xuống đi, ông Finch.”

Atticus nói: “Mình ngồi cả xuống. Ngồi cái ghế đó, Heck. Tôi lấy cái nữa trong phòng khách.”

Ông Tate ngồi xuống ghế bàn học của Jem. Ông đợi đến khi Atticus trở lại rồi ngồi xuống. Tôi tự hỏi tại sao Atticus không mang ghế cho người đàn ông trong góc, nhưng Atticus biết rõ kiểu cách của dân quê hơn tôi. Một số nông dân thân chủ của ông cột con lừa tai dài của họ dưới cây xoan ở sân sau, và Atticus thường tiếp họ trên bậc thềm sau nhà. Ông này chắc cảm thấy thoải mái ở chỗ ông đang đứng hơn.

Ông Tate nói: “Ông Finch, tôi kể cho ông những gì tôi tìm thấy. Tôi tìm thấy một cái váy của trẻ con… nó trong xe tôi ngoài kia. Váy của cháu phải không, Scout?”

Tôi nói: “Vâng thưa ông, nếu là cái váy màu hồng xếp nếp tổ ong.” Ông Heck cư xử như thể ông đang ở trên bục nhân chứng. Ông thích kể sự việc theo cách riêng của ông, không bị công tố viên hay luật sư biện hộ cản trở, và đôi khi nó làm ông mất thời giờ.

“Tôi tìm thấy một số mảnh vải ngồ ngộ lấm bùn…”

“Trang phục của cháu đó, ông Tate.”

Ông Tate chà xát tay lên đùi. Ông xoa bóp cánh tay trái, dò xét bệ lò sưởi phòng Jem, rồi hình như ông chú ý tới cái lò sưởi. Ngón tay ông tìm lên cái mũi dài của ông.

Atticus nói: “Chuyện gì vậy, Heck?”

Ông Tate tìm thấy cổ ông rồi xoa bóp nó. “Bob Ewell nằm dưới cái cây đằng đó với con dao bếp cắm sâu dưới sườn. Hắn chết rồi, ông Finch.”

 

 

 

 

 

29

 

Bác Alexandra đứng dậy, tay bác với lên vịn gờ lò sưởi. Ông Tate đứng lên, nhưng bác không để ông giúp. Đây là lần duy nhất trong đời mình, bản năng lịch thiệp của Atticus bỏ rơi ông: ông ngồi im tại chỗ.

Chẳng hiểu sao tôi không thể nghĩ được điều gì ngoài câu ông Bob Ewell đã nói là dù cho phải mất cả phần đời còn lại ông ta cũng sẽ trả thù Atticus. Ông Ewell gần như đã trả thù được, và đó là hành động cuối cùng của ông ta.

Atticus u uất nói: “Ông chắc chứ?”

Ông Tate nói: “Hắn chết chắc. Hắn chết tốt. Hắn sẽ không làm hại bọn trẻ này nữa.”

“Ý tôi không muốn nói như vậy.” Atticus hình như đang nói trong giấc ngủ. Tuổi tác ông bắt đầu lộ ra, dấu hiệu của nỗi xáo động nội tâm, nét cằm cương nghị hơi chảy xuống, có thể thấy những vết nhăn nói lên tuổi tác hiện ra dưới tai, có thể thấy mái tóc không đen nhánh mà là những mảng hoa râm trên thái dương ông.

Cuối cùng bác Alexandra nói: “Sao mình không ra phòng khách?”

Ông Tate nói: “Nếu không phiền, nếu không làm Jem mệt thêm thì tôi muốn chúng ta ở lại trong này. Tôi muốn xem các vết thương của Jem trong khi Scout… kể lại cho chúng ta.”

Bác hỏi: “Tôi đi ra được không? Tôi chỉ là một người thừa trong này. Atticus, nếu cậu cần gì thì tôi trong phòng tôi.” Bác Alexandra đi ra cửa, nhưng bác dừng bước rồi quay lại. Bác mở lời: “Atticus, tối nay tôi đã có linh cảm chuyện này… tôi… lỗi tại tôi. Lẽ ra tôi nên…”

Ông Tate giơ tay lên. “Bà cứ đi, bà Alexandra, tôi biết nó làm bà xúc động. Bà đừng tự day dứt mình làm gì… sao nhỉ, nếu mình lúc nào cũng cứ theo linh cảm thì mình giống như con mèo đuổi theo cái đuôi của nó. Scout, cháu thử kể cho mọi người chuyện gì đã xảy ra xem nào, trong khi chuyện còn rõ nét trong đầu. Cháu nghĩ là được chứ? Cháu có thấy ông ta theo cháu không?”

Tôi đi đến Atticus và cảm thấy cánh tay ông vòng quanh tôi. Tôi dụi đầu vào lòng ông. “Bọn cháu bắt đầu về. Cháu bảo Jem là cháu để quên giày. Ngay lúc bọn cháu định quay lại tìm giày thì đèn tắt. Jem nói ngày mai cháu đến lấy cũng được…”

Atticus nói: “Scout, ngẩng lên để ông Tate nghe được con.” Tôi bò vào lòng ông.

“Rồi Jem nói im một chút. Cháu nghĩ anh ấy đang suy nghĩ… anh ấy luôn luôn muốn mình im để anh ấy có thể suy nghĩ… rồi anh ấy nói anh ấy nghe thấy cái gì đó. Bọn cháu nghĩ là Cecil.”

“Cecil?”

“Cecil Jacobs. Tối nay nó đã một lần làm bọn cháu sợ, bọn cháu nghĩ lại là nó nữa. Nó trùm tấm vải. Họ thưởng hai mươi lăm xu cho bộ trang phục đẹp nhất, cháu không biết ai thắng…”

“Cháu ở đâu lúc cháu nghĩ là Cecil?”

“Lúc vừa mới ra khỏi trường. Cháu la nó…”

“Cháu la cái gì?”

“Cháu nghĩ cháu la Cecil Jacobs là con gà mái mập bự. Bọn cháu chẳng nghe gì… rồi Jem la ê hay cái gì đó đủ lớn để đánh thức cả người chết dậy…”

Ông Tate nói: “Khoan đã, Scout. Ông Finch, ông có nghe chúng không?”

Atticus nói không. Ông đang bật radio. Bác Alexandra bật radio trong phòng bác. Ông nhớ vì bác bảo ông vặn nhỏ lại một chút để bác có thể nghe radio của bác. Atticus mỉm cười. “Tôi lúc nào cũng bật radio quá lớn.”

Ông Tate nói: “Tôi không rõ hàng xóm có nghe gì không…”

“Tôi đoán là không đâu, Heck. Hầu hết mọi người nghe radio hay đi ngủ cùng lúc với gà. Maudie Atkinson có thể còn thức, nhưng tôi không chắc.”

Ông Tate nói: “Kể tiếp đi, Scout.”

“Ồ, sau khi Jem la, bọn cháu đi tiếp. Ông Tate, cháu bị kín mít trong bộ trang phục nhưng lúc ấy cháu nghe được. Ý cháu nói là nghe tiếng bước chân. Nó bước lúc bọn cháu bước, ngừng lúc bọn cháu ngừng. Jem nói anh ấy có thể thấy cháu vì bà Crenshaw bôi loại sơn bóng lên trang phục của cháu. Cháu là cái đùi heo.”

Ông Tate hỏi, sửng sốt: “Sao thế?”

Atticus tả vai diễn của tôi cho ông Tate, kể thêm cấu tạo bộ y phục. Ông nói: “Ông phải thấy con bé lúc nó về, bộ áo bẹp thành một cục.”

Ông Tate xoa cằm. “Tôi tự hỏi tại sao hắn có mấy vết đó trên người. Tay áo hắn bị thủng mấy lỗ nhỏ. Cánh tay hắn có một hai vết chích nhỏ trùng chỗ lỗ thủng. Ông làm ơn lấy cho tôi xem cái đó.”

Atticus đi lấy bộ trang phục còn lại của tôi. Ông Tate lật nó lên và nắn lại để mường tượng ra hình dáng trước đó của nó. Ông nói: “Cái này chắc đã cứu nó. Coi nè.”

Ông chỉ ngón trỏ dài. Một vệt sạch bóng lộ hẳn trên cái lưới mờ. Ông Tate lẩm bẩm: “Bob Ewell định làm thật.”

Atticus nói: “Hắn mất trí.”

“Tôi không thích cãi lại ông, ông Finch… hắn không điên, định làm khốn thật. Bọn đê tiện thấp hèn có đủ rượu trong người sẽ đủ can đảm để giết trẻ con. Hắn không bao giờ dám đối mặt ông.”

Atticus lắc đầu. “Tôi không hình dung được một kẻ nào…”

“Ông Finch, có loại người ông phải bắn trước khi ông nói ê với hắn. Ngay cả lúc đó nó cũng không đáng giá viên đạn bắn nó. Ewell là một đứa trong loại đó.”

Atticus nói: “Tôi nghĩ hắn đã xả hết hôm hắn doạ tôi. Ngay cả nếu hắn chưa xả hết, tôi nghĩ hắn sẽ đeo đuổi tôi chứ không ai khác.”

“Hắn có đủ can đảm để quấy rầy một phụ nữ da màu đáng thương, hắn có đủ can đảm để quấy rầy thẩm phán Taylor lúc hắn nghĩ nhà vắng người, thế thì ông nghĩ hắn sẽ đối mặt ông lúc ban ngày à?” Ông Tate thở dài. “Mình nên tiếp tục. Scout, cháu nghe ông ta phía sau cháu…”

“Vâng thưa ông. Lúc bọn cháu tới dưới cái cây…”

“Làm sao cháu biết bọn cháu ở dưới cái cây, cháu đâu có thấy sấm chớp gì ngoài đó.”

“Cháu đi chân không, Jem nói mặt đất dưới gốc cây luôn luôn mát hơn.”

“Mình phải bắt nó làm phụ tá cho rồi, nói tiếp đi.”

“Rồi thình lình có cái gì nắm lấy cháu và bóp dẹp bộ áo của cháu… cháu nghĩ cháu chúi xuống đất… nghe xô xát dưới cái cây giống như… nghe như húc vào thân cây. Jem tìm thấy cháu rồi kéo cháu ra đường. Có người… cháu đoán là ông Ewell vật anh ấy xuống. Họ xô xát thêm chút nữa, rồi có tiếng này lạ lắm… Jem hét lên…” Tôi ngừng lại, chợt hiểu đó là tiếng cánh tay Jem gãy.

“Ồ, Jem hét lên rồi cháu không nghe tiếng anh ấy nữa, kế đó… cháu nghĩ ông Ewell định bóp chết cháu… rồi có người giật ông Ewell xuống. Cháu đoán chắc là Jem đã đứng lên. Cháu chỉ biết đến thế…”

“Rồi sao nữa?” Ông Tate nhìn tôi chòng chọc.

“Có người bước lảo đảo quanh đó, hổn hển và… ho sặc sụa tưởng như muốn chết. Lúc đầu cháu nghĩ là Jem, nhưng nghe không giống anh ấy, vì thế cháu đi tìm Jem dưới đất. Cháu nghĩ Atticus đã tới giúp bọn cháu rồi bị mệt…”

“Người đó là ai?”

“Sao vậy, ông ấy kìa, ông Tate, ông ấy có thể nói tên ông ấy cho ông.”

Tôi vừa nói vừa sắp chỉ người đàn ông trong góc, nhưng tôi vội hạ tay xuống, nếu không Atticus sẽ mắng tôi vì chỉ tay vào người khác. Chỉ ngón tay là bất lịch sự.

Ông ta vẫn dựa vào tường. Ông ta đã dựa tường lúc tôi vào phòng, cánh tay ông khoanh trước ngực. Lúc tôi chỉ, ông buông tay xuống và áp hai lòng bàn tay lên tường. Bàn tay trắng, bàn tay trắng một cách bệnh hoạn chưa bao giờ thấy ánh mặt trời, trắng tới mức rực rỡ trên bức tường màu kem nhạt dưới ánh đèn mờ trong phòng Jem.

Tôi nhìn từ bàn tay qua cái quần kaki lấm cát của ông; mắt tôi đi dần lên thân hình gầy gò của ông tới cái áo sơ mi vải jean rách. Mặt ông trắng như bàn tay, trừ cái bóng trên chiếc cằm nhọn. Gò má ông gầy hóp; miệng ông rộng; thái dương ông lõm phơn phớt; và đôi mắt u ám của ông trong suốt tới nỗi tôi nghĩ ông mù. Tóc ông xỉn và thưa, gần như bồng bềnh trên đỉnh đầu.

Lúc tôi chỉ ông, lòng bàn tay ông hơi trượt đi, để lại những vết mồ hôi nhờn trên tường, rồi ông móc ngón tay cái vào thắt lưng. Một cơn động kinh nhẹ kỳ lạ làm ông rùng mình, như thể ông nghe tiếng móng tay cào trên phiến đá, nhưng khi tôi ngạc nhiên nhìn ông chằm chằm, mặt ông dần dần bớt căng thẳng. Môi ông nở nụ cười rụt rè, và hình ảnh người láng giềng của chúng tôi nhoà đi theo những giọt lệ bất ngờ trên mắt tôi.

Tôi nói: “Ủa, Boo.”

 

 

 

 

 

 

 

30

 

“Ông Arthur chứ con,” Atticus dịu dàng sửa lời tôi. “Jean Louise, đây là ông Arthur Radley. Ba nghĩ ông ấy đã biết con rồi.”

Nếu Atticus có thể ôn tồn giới thiệu tôi với Boo Radley vào một lúc như thế này, thì ôi dào… đó là Atticus.

Boo thấy tôi theo bản năng chạy đến giường Jem đang ngủ, vì cũng nụ cười rụt rè ấy nở khắp mặt ông. Nóng bừng vì ngượng, tôi cố giấu bằng cách che Jem.

Atticus nói: “Ê-ê, đừng đụng vào anh.”

Ông Heck Tate ngồi chăm chú nhìn Boo qua cặp kính gọng sừng. Khi ông định nói thì bác sĩ Reynolds bước vào hành lang.

Bác sĩ nói lúc ông đến cửa: “Mọi người đi ra. Chào anh, Arthur, lúc nãy ở đây tôi không để ý thấy anh.”

Giọng bác sĩ Reynolds phơi phới như bước chân ông, như thể tối nào trong đời ông cũng nói câu đó, một câu nói làm tôi sửng sốt còn hơn là ở cùng phòng với Boo Radley. Tôi nghĩ, dĩ nhiên… ngay cả Boo Radley đôi lúc cũng ốm đau. Nhưng mặt khác tôi không chắc.

Bác sĩ Reynolds mang theo một bọc lớn gói trong tờ báo. Ông đặt nó xuống bàn học của Jem rồi cởi áo khoác. Ông bảo tôi: “Bây giờ cháu hoàn toàn hài lòng là anh còn sống phải không? Để bác nói cho cháu cách nào bác biết. Lúc bác định khám cho nó thì nó đá bác. Phải cho nó mê man đến nơi đến chốn rồi mới đụng tới nó được. Thôi đi ra.”

Atticus vừa nói vừa liếc Boo: “À… Heck, mình ra ngoài hiên phía trước. Ngoài đó có nhiều ghế, và trời còn đủ ấm.”

Tôi tự hỏi tại sao Atticus lại mời chúng tôi ra hiên trước nhà thay vì vào phòng khách, rồi tôi hiểu. Đèn phòng khách quá sáng.

Chúng tôi theo nhau ra, đầu tiên là ông Tate – Atticus đợi ở cửa chờ ông đi trước. Rồi ông đổi ý và đi theo ông Tate.

Người ta cứ giữ thói quen hằng ngày ngay cả trong hoàn cảnh kỳ cục nhất. Tôi cũng không ngoại lệ. Tôi nghe mình nói: “Đi nào, ông Arthur, ông không biết rõ nhà lắm. Thưa ông, cháu sẽ đưa ông ra hiên.”

Ông nhìn xuống tôi rồi gật đầu.

Tôi dẫn ông qua hành lang rồi ngang phòng khách.

“Sao ông không ngồi, ông Arthur? Cái ghế bập bênh này êm và thoải mái lắm.”

Trí tưởng tượng nhỏ bé của tôi về ông lại sống dậy: ông sẽ ngồi trên hiên nhà… thời tiết tốt quá đấy chứ phải không, ông Arthur?

Ừ, thời tiết tốt quá. Cảm thấy hơi hư ảo, tôi dẫn ông tới cái ghế xa Atticus và ông Tate nhất. Ghế chìm sâu trong bóng tối. Boo sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong bóng tối.

Atticus ngồi trên xích đu, ông Tate ngồi ghế bên cạnh. Ánh đèn từ dãy cửa sổ phòng khách rọi sáng họ. Tôi ngồi bên Boo.

Atticus đang nói: “Ồ, Heck, tôi đoán việc phải làm là… Chúa ơi, tôi không nhớ…” Atticus đẩy kính lên rồi dụi ngón tay lên mắt. “Jem chưa tới mười ba… không, nó đã mười ba… tôi không nhớ. Dù sao đi nữa, sự việc sẽ ra trước toà án quận hạt…”

“Việc gì, ông Finch?” Ông Tate nhấc cái chân đang bắt tréo ra rồi chồm người tới.

“Dĩ nhiên rõ ràng là tự vệ, nhưng tôi phải ra văn phòng để tìm…”

“Ông Finch, ông nghĩ Jem giết Bob Ewell à? Ông nghĩ thế à?”

“Ông đã nghe Scout kể, chuyện đó không có gì để nghi ngờ. Nó nói Jem đứng lên giật hắn ra khỏi nó… chắc trong bóng tối nó đã bằng cách nào đó nắm được con dao của Ewell… ngày mai mình sẽ biết.”

Ông Tate nói: “Ôô-ng Finch, khoan. Jem không hề đâm Bob Ewell.”

Atticus lặng im một lát. Ông nhìn ông Tate như thể biết ơn điều ông ấy nói. Nhưng Atticus lắc đầu.

“Heck, ông tử tế lắm và tôi biết ông làm thế vì lòng tốt, nhưng đừng bày ra cái gì như thế.”

Ông Tate đứng lên đi tới mép hiên. Ông phun nước bọt vào bụi cây, thọc tay vào túi sau quần rồi đối mặt với Atticus. Ông nói: “Như cái gì?”

Atticus bình thản nói: “Tôi xin lỗi nếu tôi đã nói thẳng, Heck, nhưng không ai ém nhẹm vụ này đi. Tôi không sống kiểu đó.”

“Chẳng ai định ém nhẹm bất kỳ cái gì, ông Finch.”

Giọng ông Tate lặng lẽ, nhưng đôi ủng của ông gắn chặt trên ván hàng hiên như thể nó mọc từ đó lên. Một cuộc tranh hùng kỳ lạ đang xảy ra giữa cha tôi và ông cảnh sát trưởng, tôi không hiểu bản chất nó là gì.

Đến lượt Atticus đứng lên đi tới mép hiên. Ông nói: “Hừm,” rồi nhổ khan xuống sân. Ông xỏ hai tay vào túi rồi đối diện ông Tate.

“Heck, ông không nói ra, nhưng tôi biết ông đang nghĩ gì. Cám ơn ông. Jean Louise…” ông quay sang tôi. “Con nói Jem giật ông Ewell ra khỏi con phải không?”

“Vâng thưa ba, con nghĩ vậy… con…”

“Thấy chưa, Heck? Cám ơn ông từ tận đáy lòng tôi, nhưng tôi không muốn con trai tôi khởi sự ra đời với chuyện như thế lơ lửng trên đầu nó. Cách tốt nhất để giải toả dư luận là phơi hết ra công khai. Để dân trong hạt đem bánh mì tới. Tôi không muốn nó lớn lên nghe xì xào về nó, tôi không muốn ai nói ‘Jem Finch… ba nó chi bộn bạc để gỡ được nó ra khỏi vụ đó.’ Mình xong vụ này càng sớm càng tốt.”

Ông Tate thản nhiên nói: “Ông Finch, Bob Ewell ngã lên con dao của hắn. Hắn tự giết hắn.”

Atticus bước tới góc hiên nhà. Ông nhìn giàn cây hoa tím. Tôi nghĩ, trong cách riêng của mỗi người, cả hai đều bướng như nhau. Tôi tự hỏi ai sẽ nhượng bộ trước. Atticus bướng một cách lặng lẽ và hiếm khi lộ rõ, nhưng về một số mặt ông cũng cố chấp như nhà Cunningham. Ông Tate bướng tự nhiên và thẳng tuột, nhưng cũng ngang với cha tôi.

Lưng Atticus quay lại. “Heck, nếu việc này ém nhẹm, Jem sẽ thấy là cách tôi đã cố công dạy nó sẽ bị phủ nhận hết. Đôi khi tôi nghĩ mình là người cha hoàn toàn thất bại, nhưng chúng chỉ có tôi. Jem nhìn vào tôi trước khi nó nhìn ai khác, và tôi cố sống sao cho mình có thể thẳng thắn nhìn lại nó… nếu tôi đồng loã với điều như thế, tôi thật không thể nhìn vào mắt nó, và ngày nào tôi không nhìn được vào mắt nó ngày ấy tôi biết mình mất nó. Tôi không muốn mất nó và Scout, vì tôi chỉ có chúng.”

Ông Tate vẫn gắn chặt xuống ván sàn. “Ông Finch, Bob Ewell ngã lên con dao của hắn. Tôi chứng minh được.”

Atticus quay lại. Hai tay ông nhét sâu trong túi. “Heck, ông thậm chí không thể thử nhìn theo cách của tôi được sao? Ông cũng có con, nhưng tôi già hơn ông. Khi các con tôi lớn lên, tôi sẽ là ông già nếu tôi còn sống, nhưng ngay lúc này tôi… nếu chúng không tin tôi chúng sẽ không tin ai. Jem và Scout biết chuyện gì đã xảy ra. Nếu chúng nghe tôi xuống phố nói khác với việc đã xảy ra… Heck, thì tôi sẽ không có chúng nữa. Tôi không thể sống dưới phố một cách, và sống trong nhà một cách khác.”

Ông Tate đứng lắc lư trên gót chân và nhẫn nại nói: “Hắn vật Jem xuống, hắn vấp rễ cây rồi… xem này, tôi có thể cho ông thấy.”

Ông Tate thò vào túi bên hông rút ra một con dao bấm dài. Đúng lúc ấy bác sĩ Reynolds bước ra cửa. “Thằng chó đ… chết dưới cái cây đó, bác sĩ, ngay trong sân trường. Có đèn pin không? Nên cầm lấy cái này.”

Bác sĩ Reynolds nói: “Tôi có thể quay vòng xe rồi bật đèn,” nhưng ông cầm đèn pin của ông Tate. “Jem yên rồi. Tôi hy vọng tối nay nó không thức dậy, vì vậy đừng lo. Con dao đó giết hắn hả, Heck?”

“Không đâu ông, vẫn còn trong người hắn. Nhìn cái cán có vẻ là dao làm bếp. Lúc này Ken chắc đã lái xe chở xác tới đó rồi, chào bác sĩ.”

Ông Tate bật dao ra. Ông nói: “Như thế này.” Ông cầm con dao rồi giả vờ vấp; khi ông nghiêng người tới, cánh tay trái ông buông xuống phía trước. “Thấy chưa? Tự đâm mình xuyên qua chỗ mềm giữa hai xương sườn. Toàn bộ sức nặng của hắn ấn con dao vào.”

Ông Tate gấp dao lại rồi nhét vào túi. Ông nói: “Scout tám tuổi. Nó sợ quá không biết chính xác chuyện gì xảy ra.”

Atticus nói một cách dứt khoát: “Ông sẽ ngạc nhiên cho xem.”

“Tôi không nói nó bịa, tôi nói nó sợ quá không biết chính xác chuyện gì xảy ra. Ngoài đó tối om, đen như mực. Một người phải rất quen với bóng tối mới là nhân chứng đáng tin…”

Atticus nói nhỏ: “Tôi không đồng ý.”

Tiên sư nó, tôi không nghĩ tới Jem đâu!

Giày ủng của ông Tate dậm lên ván sàn mạnh tới nỗi đèn phòng ngủ của cô Maudie bật lên. Đèn nhà cô Stephanie Crawford bật lên. Atticus và ông Tate nhìn qua bên kia đường, rồi nhìn nhau. Họ chờ.

Khi ông Tate nói tiếp, giọng ông chỉ vừa đủ nghe. “Ông Finch, tôi ghét cãi nhau với ông lúc ông như thế này. Tối nay ông gặp chuyện căng thẳng mà không ai muốn phải trải qua. Tôi không biết tại sao ông không dẹp nó qua đi, nhưng tôi biết lần này ông không thể suy nghĩ mạch lạc, và tối nay mình phải giải quyết xong chuyện này vì ngày mai là quá trễ. Bob Ewell bị con dao bếp cắm vô bụng.”

Ông Tate nói thêm rằng Atticus đừng đứng đó khăng khăng là một đứa con trai cỡ Jem với cánh tay gẫy mà còn đủ sức để tấn công và giết một người lớn trong bóng tối như mực.

Atticus bỗng nói: “Heck, ông đang vung vẩy con dao bấm đó. Ông lấy đâu ra nó vậy?”

Ông Tate lạnh lùng trả lời: “Lấy của một thằng say rượu.”

Tôi cố nhớ. Ông Ewell nắm tôi… rồi ông ta ngã xuống… Jem chắc đã đứng lên. Tôi nghĩ ít nhất…

“Heck?”

“Tôi đã nói tôi lấy của một thằng say rượu dưới phố tối nay. Ewell chắc đã tìm thấy con dao bếp đâu đó trong bãi rác. Mài nó rồi chờ cơ hội… chỉ chờ có cơ hội.”

Atticus đi tới cái ghế xích đu rồi ngồi xuống. Bày tay ông buông thõng giữa hai đầu gối. Ông nhìn sàn nhà. Ông đã cử động chậm chạp y như thế tối hôm ở trước nhà tù, lúc tôi nghĩ ông chẳng bao giờ gấp xong tờ báo để ném lên ghế.

Ông Tate bước lộp cộp nhẹ quanh hàng hiên. “Quyết định không phải của ông, ông Finch, mà là của tôi. Quyết định của tôi và trách nhiệm của tôi. Một lần này thôi, nếu ông không thấy như cách của tôi thì ông cũng chẳng làm gì được. Nếu ông muốn thử, tôi sẽ gọi ông là thằng nói láo ngay vào mặt. Thằng con ông chưa hề đâm Bob Ewell,” ông nói chậm rãi, “còn xa lắc xa lơ mới đâm được, và bây giờ ông biết rồi. Nó chỉ muốn nó với em nó về tới nhà an toàn.”

Ông Tate ngưng bước. Ông dừng trước Atticus, lưng ông quay lại chúng tôi. “Tôi không phải là người tốt lắm, thưa ông, nhưng tôi là cảnh sát trưởng của hạt Maycomb. Sống trong thị trấn này cả đời và tôi sắp bốn mươi ba tuổi. Biết hết mọi thứ xảy ra ở đây từ trước khi tôi sinh ra. Có một thằng da đen chết vô cớ, và thằng chịu trách nhiệm cho vụ đó cũng chết. Để người chết chôn người chết lần này, ông Finch. Để người chết chôn người chết.”

Ông Tate đi tới ghế xích đu, nhặt mũ của ông. Mũ nằm cạnh Atticus. Ông Tate vuốt ngược tóc, đội mũ lên.

“Tôi chưa hề nghe nói là phạm luật khi một người dân cố hết sức ngăn không cho tội ác xảy ra, mà hắn làm đúng điều đó, nhưng có lẽ ông nói tôi có bổn phận kể cho thị trấn hết mọi việc chứ không phải ỉm nó đi. Biết sau đó sẽ xảy ra chuyện gì không? Tất cả các bà ở Maycomb, kể cả vợ tôi, sẽ đem bánh ngọt tới gõ cửa nhà hắn. Theo cách tôi nghĩ, ông Finch, bắt một kẻ đã làm một điều rất tốt cho ông và cho thị trấn này rồi lôi hắn cùng với kiểu cách rụt rè của hắn ra trước ánh sáng… đối với tôi thì đó là tội lỗi. Đó là tội lỗi, và tôi sẽ không đội cái tội đó lên đầu tôi. Nếu là bất cứ người nào khác thì khác. Nhưng không phải anh chàng này, ông Finch.”

Ông Tate đang cố dùng mũi giày ủng để đào một cái lỗ trên sàn. Ông vuốt mũi, rồi xoa bóp cánh tay trái. “Tôi có thể chẳng là gì, ông Finch, nhưng tôi vẫn là cảnh sát trưởng của hạt Maycomb, và Bob Ewell ngã lên con dao của hắn. Chúc ông ngủ ngon.”

Ông Tate nện bước ra khỏi hiên nhà, sải chân qua sân trước. Cửa xe ông đóng sầm lại và ông lái đi.

Atticus ngồi nhìn sàn nhà một lúc lâu. Cuối cùng ông ngẩng đầu lên nói: “Scout, ông Ewell ngã lên con dao của ông ấy. Con có thể hiểu được không?”

Atticus có vẻ như cần được khích lệ. Tôi chạy đến ôm hôn ông tới tấp. Tôi cam đoan với ông: “Thưa ba, con hiểu. Ông Tate nói đúng.”

Atticus gỡ tôi ra và nhìn tôi: “Ý con nói gì?”

“Ồ, đại khái cũng giống như bắn con chim nhại chứ gì?”

Atticus úp mặt vào tóc tôi rồi xoa nó. Khi ông đứng lên đi qua hiên nhà vào chỗ bóng tối, bước chân trẻ trung của ông đã trở lại. Trước khi vào nhà, ông ngừng trước Boo Radley. Ông nói: “Cám ơn vì hai đứa con tôi, Arthur.”

 

 

 

 

 

31

 

Khi Boo Radley vụng về đứng lên, ánh đèn từ cửa sổ phòng khách lấp lánh trên trán ông. Mọi cử động của ông đều ngập ngừng, tựa như ông không chắc tay chân mình có thể đặt đúng vào những vật mà ông chạm tới. Ông ho một tràng dễ sợ, run lập cập tới nỗi phải ngồi xuống lại. Bàn tay ông tìm túi sau quần, rút ra chiếc khăn tay. Ông ho vào khăn, rồi lau trán.

Đã quen với sự vắng mặt của ông, tôi thấy khó tin rằng ông đã ngồi bên cạnh tôi suốt buổi, lúc này. Ông đã không gây một tiếng động.

Một lần nữa, ông đứng lên. Ông quay sang tôi, gật đầu về phía cửa trước.

“Ông muốn tạm biệt Jem phải không, ông Arthur? Cứ vào đi.”

Tôi dẫn ông qua hành lang. Bác Alexandra đang ngồi bên giường Jem. Bác nói: “Vào đây, Arthur. Nó vẫn đang ngủ. Bác sĩ Reynolds cho nó liều thuốc an thần mạnh. Jean Louise, ba cháu có trong phòng khách không?”

“Có thưa bác, cháu nghĩ là có.”

“Bác đi nói chuyện với ba cháu một lát. Bác sĩ Reynold để lại…” giọng bác tắt dần.

Boo đã dạt đến góc phòng, ông ngước cằm đứng đó, chăm chú nhìn Jem từ xa. Tôi nắm tay ông, bàn tay ấm lạ lùng dù trắng bệch. Tôi kéo nhẹ ông, và ông để tôi dắt tới giường Jem.

Bác sĩ Reynolds đã bó như dựng lều trên cánh tay Jem, tôi đoán là để khỏi bị chăn phủ lên. Boo chồm tới để nhìn qua nó. Vẻ tò mò rụt rè trên mặt ông, như thể trước kia ông chưa từng thấy một đứa con trai. Miệng ông mở hé, ông nhìn Jem từ đầu đến chân. Bàn tay Boo giơ lên, nhưng ông lại buông thõng nó xuống bên hông.

“Ông vuốt anh ấy được, ông Arthur, anh ấy ngủ rồi. Nhưng nếu anh ấy thức thì ông không vuốt được đâu, anh ấy sẽ không để ông…” Tôi thấy mình đang giải thích. “Cứ vuốt đi.”

Bàn tay Boo lơ lửng trên đầu Jem.

“Vuốt đi ông, anh ấy ngủ rồi.”

Bàn tay ông hạ nhẹ xuống tóc Jem.

Tôi bắt đầu hiểu cử chỉ của ông. Bàn tay ông nắm chặt tay tôi, ông ra hiệu muốn về.

Tôi dẫn ông ra hiên trước, ở đó bước chân lúng túng của ông dừng lại. Ông vẫn nắm tay tôi và không tỏ vẻ buông ra.

“Cô đưa tôi về nhà chứ?”

Ông gần như thì thầm bằng giọng của một đứa trẻ sợ bóng tối.

Tôi đặt chân lên bậc thang trên cùng rồi ngừng lại. Tôi sẽ dắt ông ra khỏi nhà mình, nhưng tôi sẽ không bao giờ dắt ông về nhà.

“Ông Arthur, cong cánh tay ông xuống đây, như thế này. Đúng rồi đấy ông.”

Tôi luồn bàn tay mình vào khuỷu tay cong lại của ông.

Ông phải hơi khom xuống để vừa tầm tôi, nhưng nếu cô Stephanie Crawford nhìn từ cửa sổ trên lầu nhà cô, cô sẽ thấy Arthur Radley đang hộ tống tôi xuống vỉa hè, như bất cứ một ông lịch lãm nào sẽ làm.

Chúng tôi đi tới cột đèn ở góc phố, và tôi tự hỏi đã bao nhiêu lần Dill đứng đó ôm cây cột bự, nhìn ngắm, chờ đợi, hy vọng. Tôi tự hỏi đã bao nhiêu lần Jem và tôi đi quãng đường này, nhưng đây là lần thứ hai trong đời mình tôi vào cổng trước của nhà Radley. Boo và tôi bước lên bậc thềm ở hiên nhà. Ngón tay ông tìm thấy nắm cửa trước. Ông nhẹ thả bàn tay tôi ra, mở cửa, đi vào, rồi đóng cửa lại. Tôi không bao giờ thấy ông nữa.

Láng giềng mang thức ăn đến đám tang, mang hoa cho người bệnh, và mang những thứ lặt vặt vào dịp khác. Boo là láng giềng của chúng tôi. Ông cho chúng tôi hai con búp bê bằng xà phòng, một cái đồng hồ hỏng với sợi dây đeo, hai đồng xu may mắn, và mạng sống của chúng tôi. Nhưng láng giềng biếu qua biếu lại. Chúng tôi chẳng bao giờ để lại gì trên cái cây chúng tôi đã nhận quà: chúng tôi chẳng cho ông món gì, và điều đó làm tôi buồn.

Tôi quay người để về nhà. Đèn đường nhấp nháy trên con đường suốt tới thị trấn. Tôi chưa hề thấy khu xóm của chúng tôi từ góc này. Kia là nhà cô Maudie, nhà cô Stephanie – kia là nhà chúng tôi, tôi có thể thấy cái ghế xích đu trên hiên nhà – nhà cô Rachel quá khỏi nhà chúng tôi, có thể thấy rõ ràng. Thậm chí tôi có thể thấy nhà bà Dubose.

Tôi nhìn lại sau lưng mình. Bên trái cánh cửa ra vào màu nâu là cái cửa sổ dài lắp cửa chớp. Tôi bước tới cửa sổ, đứng trước nó, rồi quay lại. Tôi nghĩ dưới ánh sáng ban ngày có thể thấy tới góc bưu điện.

Ánh sáng ban ngày… trong trí tôi, đêm đã tàn. Ban ngày hàng xóm bận rộn. Cô Stephanie Crawford băng qua đường để kể tin mới nhất cho cô Rachel. Cô Maudie lom khom trên cây đỗ quyên của cô. Mùa hè, hai đứa trẻ chạy nhốn nháo xuống vỉa hè tới người đàn ông đang từ xa đi về. Người đàn ông vẫy, hai đứa trẻ đua nhau chạy đến ông.

Vẫn còn mùa hè, và bọn trẻ tới gần hơn. Đứa con trai lê bước trên vỉa hè kéo theo cần câu cá. Người đàn ông đứng đợi, chống tay lên hông. Mùa hè, các con ông chơi trong sân trước với đứa bạn của chúng, diễn vở kịch ngắn lạ lùng tự chúng nghĩ ra.

Mùa thu, các con ông đánh nhau trên vỉa hè trước nhà bà Dubose. Đứa con trai giúp em gái nó đứng lên, rồi chúng đi về. Mùa thu, các con ông chạy lon ton ngược xuôi quanh góc phố, vẻ phiền muộn và hân hoan của từng ngày hiện trên mặt chúng. Chúng ngừng lại nơi cây sồi, thích thú, lúng túng, e sợ.

Mùa đông, các con ông run rẩy ở cổng trước, in bóng lên căn nhà đang bốc cháy. Mùa đông, người đàn ông bước ra đường, buông kính đeo mắt xuống, rồi bắn con chó.

Mùa hè, ông nhìn nỗi đau lòng của các con ông. Mùa thu lại về, và bọn trẻ của Boo cần ông.

Atticus nói đúng. Một lần ông nói mình sẽ không bao giờ thật hiểu một người cho tới khi mình đứng ở chỗ của người đó và từ đó đi ra rồi mới biết. Đứng trên hiên nhà Radley cũng là đủ.

Đèn đường nhạt nhoà trong mưa bụi đang rơi. Trên đường về nhà, tôi cảm thấy rất già, nhưng khi nhìn đầu mũi mình, tôi có thể thấy những hạt sương mịn, nhưng lé mắt nhìn làm tôi chóng mặt vì thế tôi bỏ cuộc. Trên đường về nhà, tôi nghĩ ngày mai kể cho Jem sẽ lý thú lắm. Anh ấy sẽ tức lắm vì đã lỡ mất cơ hội, tức tới nỗi nhiều ngày nữa anh sẽ không thèm nói chuyện với tôi. Trên đường về nhà, tôi nghĩ Jem và tôi sẽ lớn lên, nhưng chẳng còn gì nhiều để chúng tôi học nữa, có lẽ ngoại trừ môn đại số.

Tôi chạy lên bậc thềm vào nhà. Bác Alexandra đã đi ngủ, và phòng Atticus tối. Tôi muốn biết liệu Jem có thể tỉnh lại không. Atticus trong phòng Jem, ngồi bên cạnh giường. Ông đang đọc sách.

“Jem thức dậy chưa?”

“Đang ngủ yên. Đến sáng anh mới thức.”

“Ồ. Ba ngồi thức với anh à?”

“Chỉ độ một giờ nữa thôi. Đi ngủ đi, Scout. Con đã qua một ngày dài lắm rồi.”

“Ôi dào, con nghĩ con sẽ ngồi với ba một lúc.”

Atticus nói: “Tùy ý con.” Lúc này chắc đã quá nửa đêm, và tôi ngạc nhiên vì ông dễ dãi đồng ý. Nhưng ông khôn lanh hơn tôi: ngay khi ngồi xuống tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ.

Tôi hỏi: “Ba đang đọc cái gì vậy?”

Atticus lật cuốn sách lại. “Một cuốn của Jem. Cuốn Con ma xám.”

Tôi chợt tỉnh: “Tại sao ba lấy cuốn đó?”

Ông nói gãy gọn: “Cưng à, ba không biết. Lấy hú hoạ nó thôi. Một trong ít thứ ba chưa đọc.”

“Đọc lớn lên đi, Atticus. Dễ sợ lắm.”

Ông nói: “Không. Con đã có đủ thứ để sợ trong ít lâu rồi. Thứ này cũng…”

“Atticus, con không sợ.”

Ông nhướng lông mày, và tôi phản đối: “Ít ra là không sợ cho tới khi con bắt đầu kể lại cho ông Tate. Jem không sợ. Hỏi anh ấy rồi, anh ấy nói không sợ. Vả lại, chẳng có gì đáng sợ thật ngoại trừ trong sách.”

Atticus mở miệng định nói, nhưng ngậm lại. Ông rút ngón tay cái giữa cuốn sách ra rồi lật lại trang đầu. Tôi tiến tới dựa đầu lên đầu gối ông. Ông nói: “Hừm. Con ma xám, của Seckatary Hawkins. Chương Một…”

Tôi quyết chí thức, nhưng mưa quá nhẹ, căn phòng quá ấm, giọng ông quá trầm, và đầu gối ông quá êm đến nỗi tôi thiếp ngủ.

Hình như vài giây sau giày ông thúc nhẹ vào sườn tôi. Ông nâng tôi đứng lên, dắt tôi về phòng tôi. Tôi lẩm bẩm: “Nghe từng chữ ba đọc… đâu có ngủ chút nào, chuyện chiếc tàu với Fred Ba Ngón với đứa con trai nhà Stoner…”

Ông tháo khuy bộ áo liền quần của tôi, dựa người tôi vào ông, rồi cởi nó ra. Một tay ông giữ tôi, tay kia với lấy bộ áo ngủ của tôi.

“Ừ, rồi bọn họ nghĩ thằng con nhà Stoner lục tung trụ sở hội của họ rồi vẩy mực khắp nơi rồi…”

Ông dắt tôi đi tới giường, đặt tôi ngồi xuống. Ông nhấc chân tôi lên rồi đắp chăn cho tôi.

“Rồi họ đuổi theo nó mà chẳng bao giờ bắt được nó vì họ không biết mặt mũi nó thế nào, Atticus, khi rốt cuộc họ gặp nó, tại sao nó không làm mấy việc đó… Atticus, nó thật tốt…”

Bàn tay ông dưới cằm tôi, kéo chăn lên, tém mép chăn quanh tôi.

“Phần lớn người ta tốt, Scout, khi rốt cuộc con gặp họ.”

Ông tắt đèn rồi đi vào phòng Jem. Ông sẽ ở đó suốt đêm, và ông sẽ ở đó lúc Jem thức dậy vào sáng mai.

 



[1] Football: môn thể thao chỉ có ở Mỹ, rất mạnh bạo và được nhiều người theo dõi, phần lớn là nam giới.

[2] Andrew Jackson: tổng thống Mỹ, 1829-1837. Trong thập niên 1810, Jackson chỉ huy đoàn quân của chính phủ Mỹ tấn công bộ lạc da đỏ Creek, lấy đất của họ để lập khu định cư cho người da trắng, ngày nay là tiểu bang Alabama và Georgia.

[3] Trận đánh năm 1066 gần thị trấn Hastings, trên bờ biển phía nam Anh quốc, công tước William II xứ Normandy đánh bại đạo quân Anh của vua Harold II, mở đầu triều đại Norman ở Anh quốc kéo dài một thế kỷ.

[4] Cornwall: vùng thôn dã ở chót mũi tây nam Anh quốc.

[5] Methodism: một hệ phái Kytô do Charles và John Wesley sáng lập ở Anh hồi đầu thế kỷ 18.

[6] Philadelphia: một trong các khu thuộc địa đầu tiên của người Âu tại vùng đông bắc Mỹ. Jamaica: đảo quốc trên biển Caribbean, phía nam Cuba, trực thuộc Anh quốc từ năm 1670, và trở thành quốc gia độc lập năm 1962. Mobile: thành phố đông dân thứ ba ở Alabama và là cảng nước mặn duy nhất của tiểu bang, nơi cửa sông Alabama đổ ra vịnh Mễ Tây Cơ. St. Stephens: thủ phủ của Lãnh thổ Alabama trước khi Alabama trở thành một tiểu bang của Mỹ, nằm trên bờ sông Tombigbee, cách Mobile khoảng 100 km.

[7] 1 dặm ≈ 1609 mét.

[8] Nội chiến Mỹ từ 1861 đến 1865 vì một số tiểu bang miền Nam muốn giữ chế độ nô lệ đòi tách khỏi liên bang.

[9] Montgomery: thủ phủ của tiểu bang Alabama ở đông nam nước Mỹ.

[10] Boston: thủ phủ của tiểu bang Massachussetts ở đông bắc nước Mỹ.

[11] Tên gọi thân mật của John.

[12] Hoover cart: khung xe cắt ra từ phần sau xe hơi, do lừa kéo vì không có xăng hồi kinh tế khủng hoảng, lúc đó Herbert Hoover làm tổng thống (1929-1933).

[13] Câu nói của tổng thống Franklin D. Roosevelt lúc nhậm chức lần đầu năm 1933.

[14] Mississippi: tiểu bang sát biên giới phía tây của Alabama. Meridian là thành phố tương đối lớn cách biên giới Alabama khoảng 15 km.

[15] Oliver Optic (1822-1897) là giáo viên, dân biểu tiểu bang Massachusetts, tác giả hơn 100 cuốn truyện, phần lớn dành cho độc giả con trai; Victor Appleton (1873-1962) nổi tiếng trong loạt truyện khoa học giả tưởng cho thiếu niên với các nhân vật Tom Swift, Don Sturdy, anh em trai nhà Rover…; Edgar Rice Burroughs (1875-1950) tác giả các truyện Tarzan và thám hiểm Hỏa tinh.

[16] Merlin: phù thủy cố vấn cho vua Arthur trong huyền thoại Anh quốc. Merlin cũng là một giống chim ưng nhỏ thường sống ở vùng tây bắc nước Mỹ.

[17] Tuscaloosa: thành phố ở giữa tiểu bang Alabama.

[18] Pensacola: thành phố hải cảng ở tây bắc tiểu bang Florida, phía nam Alabama.

[19] The Gray Ghost, cuốn cuối cùng trong bộ truyện ba cuốn Stoner’s Boy, The Red Runners, và The Gray Ghost của Robert Franc Schulkers (1890-1972). Ông cũng là tác giả cuốn Seckatary Hawkins in Cuba rất được thiếu niên thành phố ưa thích và lập thành các nhóm Seckatary Hawkins Fair & Square Club.

[20] Liquor Interests: nhóm vận động chống Tu chính án thứ 18 của Hiến pháp Mỹ (có hiệu lực vào đầu năm 1919 quy định cấm sản xuất, buôn bán và chuyên chở rượu). Đến cuối năm 1933, Tu chính án 21 bãi bỏ luật cấm rượu trên toàn liên bang mới được thông qua.

[21] Big Mules: liên minh của thương gia, đại điền chủ và kỹ nghệ gia, có ảnh hưởng mạnh ở tiểu bang Alabama trong tiền bán thế kỷ 20.

[22] Từ thời tổng thống Abraham Lincoln (1861-1865) đến nửa đầu thế kỷ 20, đảng Cộng hoà có khuynh hướng cấp tiến, chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ, nói chung có ảnh hưởng mạnh ở các tiểu bang phía Bắc. Trong khi đó phần lớn đảng Dân chủ muốn giữ chế độ nô lệ và ảnh hưởng mạnh ở miền Nam. Tình hình này đảo ngược lại rõ rệt sau thời tổng thống Lyndon Johnson (1963-1969), nhất là sau khi ông ký đạo luật về dân quyền, Civil Right Act 1964.

[23] Có thể Scout nói tới nhà văn Mỹ Thomas Bulfinch (1796-1867), tác giả bộ sưu tập thần thoại Hy Lạp Bulfinch’s Mythology. “Bullfinch” (hai “l”) cũng thuộc loài chim “finch” (họ Latin: Fringillidae), một loài chim ăn hạt, hơi giống chim sẻ.

[24] Lorenzo Dow (1777-1834): nhà truyền giáo lưu động người Mỹ, cho rằng Chúa Jesus sẽ sống lại lần thứ hai để cứu rỗi người có đức tin. Về mặt xã hội, Dow chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ. Cuốn hồi ký của ông có thời bán chạy nhất Hoa Kỳ, chỉ kém Kinh Thánh.

[25] Dewey Decimal System: cách sắp xếp sách trong thư viện do Melvil Dewey (1851-1931) nghĩ ra năm 1876, chia sách ra làm 10 loại, mỗi loại có 10 tiểu loại, mỗi tiểu loại có 10 mục. Jem lẫn lộn Melvil Dewey với triết gia John Dewey (1859-1952), người chủ trương cải cách giáo dục.

[26] Trong thời khủng hoảng kinh tế đầu thập niên 1930, một ổ bánh giá độ 10 xu, lợi tức trung bình hằng năm khoảng 1350 đô la.

[27] Học trò ở xa trường, nhất là trong vùng nông thôn, được xe buýt đón đi học.

[28] Scrip stamps: tem phiếu do một số chính quyền quận hạt và tiểu bang phát hành để trợ giúp khẩn cấp cho người nghèo trong thời khủng hoảng kinh tế.

[29] Khủng hoảng thị trường chứng khoán tháng Mười 1929, dẫn đến kinh tế đình trệ kéo dài gần 10 năm ở Mỹ và các nước kỹ nghệ Âu châu. Nhiều nông dân ở giữa nước Mỹ phải bỏ ruộng vườn di cư qua miền tây.

[30] WPA (Works Progress Administration) do nội các Franklin Roosevelt thành lập để tạo việc làm cho hàng triệu người thất nghiệp trong thập niên 1930, phần lớn là việc ở những nơi hẻo lánh, như xây dựng đường sá, cầu cống và công viên quốc gia.

[31] Duncecap: mũ giấy dùng để đội cho các học sinh có lỗi trong thời trước.

[32] Tạp chí Mỹ ra hàng tuần, đăng các tin tức quan trọng trong tuần và xã luận. Trong thập niên 1930, Time thường bị chế giễu vì lối viết đảo ngược trật tự của các cụm từ trong câu nên rất khó đọc.

[33] Một nhãn hiệu kẹo cao su mùi bạc hà sản xuất ở Mỹ từ năm 1914.

[34] Hoa Kỳ phát hành đồng một xu có hình đầu người da đỏ từ năm 1859 đến 1909, và sau đó thay bằng đồng xu có hình đầu tổng thống Lincoln.

[35] Louisville & Nashville Railroad: công ty xe lửa chở hành khách và hàng hoá ở miền đông nam Hoa Kỳ.

[36] Tom, Sam và Dick là ba anh em nhà Rover trong loạt truyện phiêu lưu, nghịch ngợm dành cho thiếu niên của Arthur M. Winfield viết từ 1899 đến 1926.

[37] One Man’s Family: vở kịch của Carleton E. Morse trên radio kéo dài từ năm 1932 đến 1959, với 3256 buổi diễn về gia đình Barbour ở Sea Cliff, San Francisco, California. Kịch bản xoay quanh những chuyện lặt vặt vốn có trong mọi gia đình. Henry Barbour là người mua bán chứng khoán. Bà Fanny, vợ ông, thường đứng ra hoà giải những mâu thuẫn giữa ông với năm người con.

[38] Trận đánh kéo dài ba tuần trên vùng sông Marne, Pháp cùng đồng minh phản công đánh bại quân Đức, dẫn đến kết thúc thế chiến thứ nhất 100 ngày sau đó.

[39] Nashville: thủ phủ tiểu bang Tennessee, giáp phía bắc Alabama.

[40] “A foot-washing Baptist”: tín đồ một hệ phái Kytô chủ trương chỉ rửa tội khi đã trưởng thành, và phải nhúng mình vào nước, chứ không rắc hay dội nước. Phái Baptist có ở Âu châu từ đầu thế kỷ 17, sau đó truyền qua Mỹ và Roger Williams lập một giáo đoàn Baptist đầu tiên ở các thuộc địa trên vùng đông bắc Mỹ châu.

[41] Một tỉnh phía đông Canada.

[42] Joseph Wheeler (1836-1906): tướng của Nam quân trong Nội chiến Mỹ, sau đó làm tướng trong đạo quân Mỹ trong cuộc chiến với Tây Ban Nha ở Cuba (1898) và trong cuộc chiến tranh chiếm đóng Phi Luật Tân (1899-1902).

[43] Loại súng hai nòng bắn đạn ghém, khi nạp đạn phải bẻ gập khẩu súng để nhét đạn vào cuối nòng súng.

[44] Tên một nhân vật trong truyện thần tiên số 130 do anh em Grimm sưu tập: “Một Mắt, Hai Mắt, và Ba Mắt”.

[45] Nghĩa là Jem sẽ nói đúng nếu bỏ các từ bổ nghĩa (vệ sinh và vĩnh viễn) trong câu. Người Ai Cập phát minh ra một số loại giấy viết, nhưng không phải giấy vệ sinh, và thuật ướp xác tất nhiên là vĩnh viễn.

[46] Bia đá khắc đạo luật do vua Ptolemy V, Ai Cập, ban hành năm 196 trước Công nguyên, bằng ba thứ chữ ghi cùng nội dung: chữ tượng hình của Ai Cập ở phần trên, chữ bình dân Ai Cập ở giữa, và chữ Hy Lạp cổ dưới cùng. Năm 1799 một đoàn thám hiểm Pháp tìm thấy tấm bia gần thị trấn Rashid (Rosetta) vùng châu thổ sông Nile. Sau khi quân Anh đánh bại Pháp ở Ai Cập năm 1801, tấm bia được mang về Anh và trưng bày trong British Museum ở Luân Đôn cho đến nay.

[47] Appomattox là ngôi làng nhỏ trong tiểu bang Virginia, nơi tướng Robert Lee của Nam quân đầu hàng tướng Ulysses Grant của Bắc quân vào tháng Tư 1865, sau đó Nội chiến Hoa Kỳ coi như chấm dứt.

[48] Jem nói một chữ vô nghĩa “characterture”, nhưng là một cách ghép chữ rất khéo, chữ “character” (nghĩa: cá tính, đặc tính, nhân vật…) với chữ “caricature” mà Atticus đã dùng.

[49] Nguyên văn: “… erected an absolute morphodite in that yard!” Scout nghe lầm thành “morphodite”, một chữ vô nghĩa; có lẽ là chữ “hermaphrodite”, sinh vật lưỡng tính, để chỉ vẻ bề ngoài vừa nam vừa nữ của người tuyết.

[50] Khu vườn của vợ chồng Walter và Bessie Bellingrath trên khu đất rộng 26 ha bên sông Fowl, ở ngoại ô Mobile, Alabama, mở cửa cho công chúng vào xem năm 1932, và được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1982.

[51] Tạm dịch vì không rõ nghĩa, nguyên văn: “Tell you the truth, I’d like to’ve been with you. And I’d’ve had sense enough to turn around, too.”

[52] John Bell Hood (1831-1879): thiếu tướng của Nam quân thời Nội chiến.

[53] Missouri Compromise được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1820, cho phép Missouri gia nhập vào Liên bang như một tiểu bang có nô lệ, nhưng từ đó về sau các vùng lãnh thổ từ Missouri lên phía bắc muốn gia nhập phải bãi bỏ chế độ nô lệ, chẳng hạn các vùng đất ngày nay là tiểu bang Montana, Wyoming, Colorado, Nebraska, Kansas, North và South Dakota…

[54] Tướng Thomas Jonathan Jackson (1824-1863) được coi là viên tướng giỏi nhất của Nam quân sau Robert Lee. Ông chết vì bị lính gác bắn lầm trong Trận Chancellorsville, ở Fredericksburg, Virginia. Ông có nhiều biệt danh: Stonewall, Old Blue Light, Old Jack, Tom Fool.

[55] Biệt danh lúc đầu để chỉ dân định cư miền đông bắc nước Mỹ thời còn là thuộc địa Anh, đến thời Nội chiến dùng để chỉ những người sống ở các tiểu bang miền bắc. Ngày nay Yankee dùng để gọi người Mỹ nói chung.

[56] Widow’s walk: sân thượng nâng cao trên mái nhà, có lan can bao quanh, thường thấy ở các căn nhà gần bờ nước ở Bắc Mỹ thế kỷ 19. Huyền thoại kể là để cho các quả phụ đứng trên đó ngóng chồng mất tích trên sông biển trở về.

[57] Chuỗi hạt ngọc trai Add-A-Pearl của công ty bán nữ trang của Mỹ thành lập từ năm 1915. Người có chuỗi ngọc trai có thể mua thêm hạt để tự nối dài hơn.

[58] Nguyên văn: “… in the second place you told me never to use words like that except in ex-extreme provocation, and Francis provocated me enough to knock his block off…” Tương tự như “morphodite”, Scout chế ra chữ “provocate” từ chữ “provocation”.

[59] House of Commons: do dân Anh bầu ra để chọn thủ tướng và có quyền giải tán nội các, khác với House of Lords (Viện Quý tộc) có các đại biểu được vua hay nữ hoàng chỉ định.

[60] Lord Melbourne (1779-1848): nhà quý tộc Anh, bộ trưởng Nội vụ, thủ tướng đầu tiên của nữ hoàng Victoria, và nổi tiếng có nhiều vụ lộn xộn với phụ nữ.

[61] Một nhóm 12 người dân địa phương được luật sư hai bên nguyên cáo và bị cáo cùng đồng ý chọn ra với nhiệm vụ nghe vụ kiện, cân nhắc và đưa ra phán quyết theo sự hiểu biết và lương tâm của mình. Phán quyết phải được tất cả 12 người trong bồi thẩm đoàn đồng ý. Nếu bồi thẩm đoàn không thể đi tới quyết định chung sau một thời gian bàn luận, vụ án có thể bị bãi bỏ hoặc được xử lại.

[62] Một câu trong Sách Luke 22:42 kể Jesus cầu nguyện Chúa trong đêm trước khi bị đóng đinh: “Thưa cha, nếu cha muốn, hãy tha con khỏi uống chén này, nhưng đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Jack nhắc lại câu này vì biết Atticus tuy miễn cưỡng nhưng sẽ không từ chối việc bào chữa cho Tom Robinson.

[63] Bluejay: loại chim cùng họ với quạ (họ Latin: Corvidae), có mào trên đầu, rất nhanh, táo bạo, ồn ào và đôi khi bắt chước tiếng chim ưng, thường sống ở miền đông và trung tây nước Mỹ.

[64] Mockingbird: loại chim cùng họ với hoạ mi nâu (họ Latin: Mimidae), thường hót vào ban đêm và bắt chước tiếng hót của các loài chim khác, sống dọc hai bên bờ biển và miền nam nước Mỹ xuống tới Mễ Tây Cơ.

[65] Jew’s harp: nhạc cụ nhỏ bằng kim loại, gồm một khung hình giọt nước và một lưỡi gà nằm lơ lửng ở giữa. Người chơi áp nhạc cụ ngang môi, và dùng ngón tay khẩy lưỡi gà tạo ra âm thanh cộng hưởng trong vòm miệng.

[66] Touch football: một cách chơi bóng bầu dục ít mạnh bạo, bên phòng thủ chỉ cần chạm tay vào người cầm bóng của bên tấn công là quả bóng ngừng ở đó.

[67] Tháng Hai là thời gian lạnh nhất trong năm, ít khi xảy ra bệnh chó dại, và dân quê tin rằng bệnh dại chỉ có vào mùa nóng.

[68] Confederate States of America: tên gọi chính thức của liên minh các tiểu bang miền Nam trong cuộc Nội chiến Mỹ.

[69] Millard “Dixie” Howell (1912-1971): cầu thủ nổi tiếng trong môn bóng bầu dục của đội bóng đại học Alabama từ năm 1932 đến 1934.

[70] Bộ tiểu thuyết lịch sử của Sir Walter Scott xuất bản năm 1820, thuật lại chuyến đi trở về Anh của Wilfred xứ Ivanhoe năm 1194, sau khi thất bại trong cố gắng chiếm lại đất thánh khỏi tay Hồi vương Saladin. Ở đoạn sau Scout kể rằng Jem gọi ông là Sir Walter Scout.

[71] Drop-kick: một cách đá bóng bầu dục bằng cách cầm bóng buông ra, đợi bóng nảy dưới đất lên rồi đá.

[72] Một trong nhiều trận tranh tài cuối mùa bóng bầu dục của đại học, tổ chức vào ngày đầu năm ở Pasadena, California. Hai đội đại học được chọn để vào Rose Bowl thường là đội mạnh nhất của năm ấy.

[73] Birmingham: thành phố thiết lập năm 1871, trong thời kỳ tái thiết sau Nội chiến, và dần dần trở thành trung tâm kỹ nghệ chính của miền Nam cho đến giữa thế kỷ 20.

[74] Công nhân đến xí nghiệp nhưng không làm việc hoặc làm cầm chừng để đòi quyền lợi, dân đô thị xếp hàng lãnh trợ cấp hoặc xin việc làm, và nông dân bị phá sản phải bỏ ruộng đất để di cư là những hiện tượng xảy ra khắp nước Mỹ trong thời khủng hoảng kinh tế thập niên 1930.

[75] Tên của một trong ba ông bị vua Nebuchadnezzar ném vào lửa vì tin Chúa, nhưng cả ba đều thoát nạn, theo Kinh Thánh, sách Daniel, chương 3.

[76] Octagon: một loại xà phòng mạnh và rất cay mắt. Castile: xà phòng nhẹ hơn, làm bằng dầu ô liu và chất xút.

[77] Tiếng Pháp: “Thứ Ba béo”, ngày hội với các buổi diễn hành hoá trang, nguyên thủy là ngày Thứ Ba trước Mùa Chay, mùa tín đồ Kytô ăn kiêng 40 ngày kéo dài từ Lễ Tro đến Thứ Bảy Tuần thánh trước Chúa nhật Lễ Phục sinh.

[78] First Purchase African M.E. Church: Công hội Giám lý (Methodist Espicopal) là tổ chức đầu tiên của giáo phái Giám Lý ở Mỹ năm 1784, ngày nay là thành phần chính trong giáo phái Giám lý Hợp nhất (United Methodist Church).

[79] The Light of the World, tranh của hoạ sĩ người Anh, William Holman Hunt (1827-1910), vẽ hình Chúa cầm ngọn đèn đang gõ một cánh cửa từ lâu không mở, minh hoạ một câu trong Sách Khải huyền 3:20.

[80] Nơi Jesus đến cầu nguyện trong đêm trước ngày bị đóng đinh trên thập giá.

[81] William Blackstone (1723-1780): tác giả bộ Commentaries on the Laws of England, (Chú giải Luật Anh quốc) giải thích thông luật, các luật dựa trên án lệ và phong tục, khác với đạo luật do Nghị viện ban hành hoặc các nghị định của chính phủ.

[82] Nguyên văn: “Enarmored, upright, uncompromising,” có thể dịch theo nghĩa bóng thành “đanh thép, chính trực, cương quyết”; và chữ “enarmored” không có trong tự điển.

[83] Rice Christian: một từ dùng để chỉ người đổi sang đạo Kytô vì lợi ích vật chất hơn là tinh thần, nhất là trong thời các nước Âu châu đi xâm chiếm thuộc địa ở Á châu, nơi gạo là loại thực phẩm chính trong bữa ăn hằng ngày.

[84] Maycomb Amanuensis Club: chữ “amanuensis” ít được dùng, có nghĩa là những người sao chép văn bản hay ghi chép lại lời người khác nói.

[85] Nguyên văn: “she was born in the objective case”. Có lẽ Scout dùng định nghĩa trong bài học văn phạm ở trường để mô tả bác Alexandra. Khi một đối tượng ở “objective case” (thí dụ: “me, them, us”; đối lại với “I, they, we”), mọi thứ đều nói về nó, xoay quanh nó, hướng vào nó. Trong ngữ cảnh này có lẽ dịch theo nghĩa bóng là “bác sinh ra là trung tâm của vũ trụ”.

[86] Alabama Territory là những vùng đất có chính quyền của người da trắng từ 1817, được sáp nhập vào Hoa Kỳ thành tiểu bang Alabama năm 1819.

[87] Thống đốc của Lãnh thổ Alabama và cũng là thống đốc đầu tiên của tiểu bang từ 1819 đến khi chết năm 1820.

[88] Thời kỳ 1865-1877 sau Nội chiến, toàn quốc và nhất là các tiểu bang miền Nam được chính quyền trung ương ở Washington D.C. tái tổ chức và xây dựng lại, cả về cơ sở vật chất và sinh hoạt xã hội.

[89] Lydia Estes Pinkham (1819-1883): người bào chế rượu thuốc cho phụ nữ.

[90] Nguyên văn: “I felt the starched walls of a pink cotton penitentiary closing in on me”.

[91] Scout dùng lại chữ “morphodite” vô nghĩa, đã nghe lầm khi cô Maudie nói với Atticus về người tuyết.

[92] Change of venue: đổi nơi xử án tới một nơi khác. Trong các vụ án nổi tiếng, luật sư thường xin đổi nơi thụ lý để có thể chọn một bồi thẩm đoàn khách quan hơn từ một địa phương khác.

[93] Henry Woodfin Grady (1850-1889): ký giả, nhà hùng biện của tiểu bang Georgia giúp hội nhập các tiểu bang miền Nam vào liên bang sau Nội chiến.

[94] Ku Klux Klan, hay KKK, hay The Klan: tên tổ chức cực hữu ở Mỹ, chủ trương người da trắng là thượng đẳng và dùng cách khủng bố để bày tỏ lập trường của họ. Sắc phục màu trắng của thành viên KKK: áo thụng, mặt nạ, và nón nhọn đầu. Ban đêm khi hội họp giữa trời họ thường đốt một cây thánh giá lớn.

[95] “Nearer, My God, to thee”, bài thơ phổ nhạc của Sarah Flower Adams (1805-1848), được cho là bản nhạc cuối cùng tám nhạc công hoà tấu trước khi tàu Titanic bị chìm năm 1912.

[96] Nữ hoàng Anh, trị vì từ năm 1837 đến 1901. Kiến trúc Victorian làm sống lại kiến trúc Gothic thế kỷ 12 đến 16, pha trộn ảnh hưởng Trung Đông và Á châu, và dùng sắt thép của thời Cách mạng Kỹ nghệ để thực hiện các công trình lớn.

[97] Nguyên văn: “Called ‘em off on a snipe hunt”. “Snipe” là một loại chim nhỏ, mỏ dài, sống nơi nước cạn hoặc bùn lầy. “Snipe hunt” là mẹo lừa người khác mang bao đi ngồi đợi để bắt chim trong khi cả nhóm trốn về.

[98] Braxton Bragg (1817-1876): viên tướng chỉ huy đạo quân miền Tây của Nam quân trong Nội chiến, sau đó là cố vấn quân sự cho tổng thống Jefferson Davis của miền Nam. Sau chiến tranh ông làm những nghề dân sự, như giám đốc hệ thống cấp nước ở New Orleans, giám thị công trình cải tiến hải cảng Mobile của Alabama, kỹ sư đường sắt ở Texas.

[99] Tín đồ giáo phái Anabaptist, chủ trương người trưởng thành phải rửa tội lại vì lúc đó mới đủ trí khôn, họ thường sống cuộc sống đơn giản, bất bạo động.

[100] Prohibition Party, một đảng thiểu số thành lập năm 1869 để vận động thông qua luật cấm sản xuất và mua bán rượu ở Mỹ.

[101] Một câu trong sách Ecclesiastes 6:4 (sách Giảng viên, hay Truyền đạo).

[102] Sách Châm ngôn 15:13.

[103] Ngày hội thời đế quốc La Mã thường có những trò chơi dã man, như bắt người nô lệ đánh lẫn nhau hoặc đánh với thú dữ đến chết.

[104] William Jennings Bryan (1860-1925): chính trị gia rất hùng biện, ra tranh cử tổng thống Mỹ ba lần nhưng thất cử, chủ trương hoà bình, cấm rượu, bảo thủ về mặt tôn giáo, và rất được ưa chuộng ở miền Nam.

[105] Pop-the-whip: trò chơi của trẻ con, trong đó bọn trẻ nắm tay nhau thành một dây, một đứa dẫn đầu chạy vòng quanh, những đứa ở sau phải giữ cho đừng đứt dây.

[106] Một nhãn hiệu nước ngọt có vị trái cây của Công ty Nehi từ thập niên 1920, ngày nay đổi tên thành Dr Pepper Snapple Group.

[107] Trong thời Cựu ước, Ethiopia là vương quốc ở đông bắc Phi châu, một trong những nơi các nhà khảo cổ tìm thấy dấu tích đầu tiên của loài người hàng triệu năm về trước. Theo Kinh Thánh, thời Cựu ước bắt đầu từ lúc khai thiên lập địa cách nay khoảng 6000 năm.

[108] Arlington House do người cháu của George Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ, xây từ năm 1802 đến 1818 mới xong. Trước Nội chiến, Arlington House là nhà ở của tướng Robert Lee, và ngày nay nằm trong Arlington National Cemetery, gần thủ đô Washington D.C.

[109] Greek Revival: kiểu kiến trúc bắt chước đền đài Hy Lạp cổ, rất thịnh hành ở Mỹ và Âu châu hồi thế kỷ 19.

[110] “Champertous connivance”: một thoả hiệp trái đạo đức nghề nghiệp giữa luật sư với thân chủ, chẳng hạn như luật sư thông đồng với thân chủ đi kiện và hứa sẽ chia nhau số tiền thu được nếu có.

[111] Model-T: kiểu xe thành công đầu tiên do Henry Ford sản xuất năm 1909, giá rẻ và tương đối bền. Xe đặt trên mấy khúc gỗ vì không còn chạy được nữa.

[112] “Frog-sticking without a light”, ở vùng đông nam nước Mỹ đi đâm ếch mà không mang đèn có thể đâm nhằm… cá sấu, vì thế người đi săn có thể thành con mồi thay vì có ếch để ăn.

[113] Nhân vật thám tử lừng danh trong loạt truyện của Arthur Conan Doyle (1859-1930).

[114] Scout dùng câu tục ngữ “đếm gà trước khi trứng nở”, nghĩa là tin tưởng vu vơ vào một điều chưa xảy ra.

[115] Nguyên văn: “chiffarobe”, đúng ra phải là “chifforobe”, tổng hợp của hai chữ “chiffonier” và “wardrobe”. “Chifforobe” là một loại tủ cao, một bên có nhiều ngăn kéo, bên kia là chỗ để treo quần áo. Loại tủ này chỉ thông dụng ở miền nam nước Mỹ, và chữ “chifforobe” có thể xem là một từ cổ, ít người dùng, ngay cả trong thập niên 1930 ở Mỹ.

[116] Một nhân vật nói nhát gừng, câu nói rời rạc và không mạch lạc, trong cuốn tiểu thuyết The Pickwick Papers xuất bản lần đầu năm 1836 của Charles Dickens.

[117] Nguyên văn: “Judge Taylor’s ex cathedra remarks”. Chữ “ex cathedra”, gốc Latin nghĩa đen là “từ trên ngôi”, dùng để chỉ thuộc tính bất khả sai lầm của giáo hoàng Giáo hội Công giáo La Mã khi tuyên bố về tín điều và luân lý.

[118] Về mặt luật thành văn, đến năm 1967 trong vụ xử Loving v. Virginia, Tối cao Pháp viện Mỹ mới tuyên bố vi hiến và xoá bỏ luật cấm hôn nhân giữa người da trắng với người da màu đã có trong nhiều tiểu bang. Tuy nhiên, Alabama là tiểu bang cuối cùng cố bám lấy luật này thêm 33 năm nữa, đến năm 2000 mới chính thức hủy bỏ trong một cuộc bầu phiếu vẫn có 40% người muốn giữ luật cấm.

[119] Thomas Jefferson: tổng thống thứ ba của Mỹ (1801-1809), một trong những người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 có câu nói trên.

[120] “Nữ giới bên ngành Hành pháp” ám chỉ bà Eleanor Roosevelt, vợ của tổng thống Franklin D. Roosevelt, vì quan điểm cấp tiến về dân quyền và nhân quyền của bà thường bị chính trị gia miền Nam chỉ trích.

[121] Rockefeller: dòng họ giàu có lâu đời ở Mỹ. Albert Einstein (1879-1955): nhà vật lý lý thuyết, nổi tiếng với thuyết tương đối hồi đầu thế kỷ 20.

[122] Nguyên văn: “We’re so rarely called on to be Christians, but when we are, we’ve got men like Atticus to go for us.” Chữ “Christian” vừa có nghĩa “tín đồ Kytô”, vừa có nghĩa “người văn minh, nhân đạo, nhân bản”.

[123] Nguyên văn: “can’t any Christian judges an’ lawyers make up for heathen juries”. Tương tự như chú thích bên trên, chữ “heathen” có nghĩa “ngoại đạo, kém văn minh, dã man”.

[124] Tạp chí kiến thức phổ thông về khoa học kỹ thuật.

[125] Năm 1957, Luật Dân quyền (Civil Rights Act) ở Mỹ mới quy định phụ nữ được tham dự vào bồi thẩm đoàn trong các toà án liên bang. Tuy nhiên, nhiều tiểu bang vẫn tìm cách giới hạn, chẳng hạn phụ nữ phải nộp đơn xin có tên trong danh sách bồi thẩm đoàn, trong khi nam giới không cần. Đến năm 1973 phụ nữ mới không bị ngăn trở làm bồi thẩm trong tất cả 50 tiểu bang như nam giới.

[126] “Double first cousin”: khi hai chị em ruột cưới hai anh em ruột, con của họ sẽ là anh chị em họ đôi đời thứ nhất.

[127] Nhóm dân dòng dõi người Pháp sống ở Acadia (miền đông Canada ngày nay), nhưng hồi giữa thế kỷ 18 bị chính quyền thuộc địa Anh ở đó trục xuất phải di cư xuống vùng đông nam nước Mỹ, nhất là ở tiểu bang Louisiana.

[128] “Pot liquor”: một món ăn nhà nghèo ở miền nam nước Mỹ, hầm các loại rau thừa và có thể thêm thịt vụn để thành xúp hay nước chấm.

[129] Tangee Natural và Cutex Natural: son môi và thuốc sơn móng tay gần như không màu, rất thông dụng với các bà nội trợ cho đến đầu thập niên 1960.

[130] Năm 1939, bà Eleanor Roosevelt, vợ của tổng thống Franklin Roosevelt, đến Birmingham dự một hội nghị của các nhóm cấp tiến ở miền Nam. Bà thách thức chính quyền tiểu bang bằng cách ngồi chung với người da đen, do đó vi phạm luật phân biệt chủng tộc ở Alabama.

Tình trạng này tại Mỹ chỉ chấm dứt trên mặt pháp lý vào năm 1954 khi Tối cao Pháp viện trong vụ án Brown v. Board of Education phán quyết các đạo luật cấm người da trắng và da màu học chung trường là vi hiến. Kỳ thị chủng tộc có thể mang nhiều dạng, chẳng hạn người da màu trên xe buýt phải nhường chỗ cho dân da trắng, không được dùng vòi nước người da trắng dùng, cho đến kỳ thị trong giáo dục, việc làm, y tế, cư trú… Phong trào tranh đấu cho dân quyền từ thập niên 1950 đến 1980 đã giúp giảm bớt tệ nạn kỳ thị này.

[131] Những sợi sừng dẻo ở hàm trên của cá voi dùng để làm cứng và phồng vạt áo phụ nữ thời trước.

[132] Nguyên văn: “Jem would personally never speak to me again”, một cách khéo léo để nhắc đến tật dùng lạm chữ bổ nghĩa của Jem, trong trường hợp này là chữ “personally”.

[133] The Grit Paper: tuần báo có từ năm 1882, phát hành mỗi cuối tuần, gồm các mục tin tức, phụ nữ, gia đình, truyện và truyện tranh. Trong thập niên 1930, tờ báo nhắm vào độc giả ở nông thôn và các thị trấn nhỏ, với số phát hành lên tới gần nửa triệu trong 48 tiểu bang.

[134] “Holy-roller”, một từ dùng để chế nhạo các tín đồ phái Pentecostal, xuất hiện ở Mỹ vào đầu thế kỷ 20, vì khi dự lễ họ thường lăn xuống sàn và nói líu lưỡi với những cử chỉ bất thường.

[135] “Sweetly Sings the Donkey”, một bài hát đồng quê có 5 câu ngắn, thường hát lặp lại đến khi mệt; câu cuối là “hee haw, hee haw, hee haw, hee haw, hee haw!”

[136] Uncle Natchell: nhân vật trong truyện tranh quảng cáo phân bón.

[137] Tác giả dùng hai chữ tương đối cùng âm: Cecil nói “prosecute”, cô Gates sửa lại là “persecute”.

[138] Kinh Thánh kể chuyện người Do Thái có lần làm ô uế đền thờ vì mang các bàn đổi tiền vào nơi thờ phượng Chúa.

[139] Elmer Davis (1890-1958): ký giả và bình luận viên đài CBS từ năm 1939 đến 1941. Sau đó ông làm trưởng phòng Tin Chiến sự của chính phủ Mỹ, và đề nghị tổng thống Roosevelt cho phép người Mỹ gốc Nhật bị nhốt trong các trại tập trung hồi thế chiến thứ hai được nhập ngũ.

[140] Works Progress Administration: cơ quan của chính phủ liên bang cung cấp việc làm cho hàng triệu người thất nghiệp, phần lớn để thực hiện các công trình công cộng, trong thời khủng hoảng kinh tế.

[141] Robert Love Taylor (1850-1912): chính trị gia tiểu bang Tennessee. Ông cũng nổi tiếng là đã thắng anh ruột của mình trong kỳ tranh cử thống đốc Tennessee.

[142] Ladies’ Law của tiểu bang Alabama ban hành năm 1907, quy định cách giao thiệp với phụ nữ. Một điều khoản của bộ luật này cấm dùng ngôn ngữ lăng mạ hay thô tục để nữ giới nghe được, nếu không sẽ bị phạt tối đa 200 đô la, và có thể bị tù hay đi lao động khổ sai sáu tháng.

[143] “Radical” có nghĩa là cấp tiến hoặc cực đoan. Trong lịch sử nước Mỹ không có đảng Cấp tiến.

[144] James Thomas Heflin (1869-1951), biệt danh “Cotton Tom”, là chính trị gia đảng Dân chủ. Ông là thư ký tiểu bang Alabama (1903-1904), nhiệm vụ chủ yếu là lưu giữ hồ sơ tiểu bang. Sau đó ông là dân biểu (1904-1920) rồi nghị sĩ (1920-1931) trong quốc hội liên bang. Ông cầm đầu nhóm chủ trương kỳ thị chủng tộc được sự ủng hộ của nông dân và tổ chức Ku Klux Klan.

[145] NRA, “National Recovery Adminitration”, cơ quan phối hợp các dự án phục hồi kinh tế theo đạo luật “National Industrial Recovery Act, 1933”, nhằm đem lại sự cộng tác bình đẳng giữa các nhà kỹ nghệ và giới công nhân. Khẩu hiệu “NRA – WE DO OUR PART” cổ động cho các dự án này. Năm 1935, Tối cao Pháp viện Mỹ, gồm chín ông thẩm phán, đồng phán quyết luật này là vi hiến.

[146] Hội đêm cuối tháng Mười, trước ngày lễ các thánh Kytô giáo, có thể bắt nguồn từ Tây Âu để mừng mùa gặt hái đã xong, và cũng để làm lễ cho vong hồn người chết. Ngày nay, Halloween ở Mỹ trở thành ngày trẻ con hoá trang đến từng nhà để đòi bánh kẹo, người lớn dự tiệc hoá trang, đùa nghịch những chuyện ma quái, và nhất là để các cơ sở thương mại được dịp bán hàng.

[147] Con chó ngồi bên cái loa lớn kiểu xưa trong hình quảng cáo máy hát đĩa Victrola của hãng RCA/Victor.

[148] Một nước ở Tây Á, trên bờ biển phía đông Địa Trung Hải.

[149] Tiếng Latin, “Vượt khó khăn vươn tới các vì sao”.

[150] Nguyên văn: “Somebody just walked over my grave”. Lô đất để dành làm mộ trong tương lai bị người khác bước qua là điềm gở.

 

Phạm Văn
Số lần đọc: 4672
Ngày đăng: 07.12.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
TÂM HỒN NGƯỜI XA XỨ Thương tặng những người con xa xứ - Nguyễn Phương
Từ rày đỡ lo.../ Tối lửa tắt đèn.../ Vẫn chưa đầy đủ! - Hòa Văn
giáng sinh buồn - Hoàng Chính
Dưới Ánh Sao Thu - Nguyễn Thành Nhân
Bán Chữ - Phan Trang Hy
máu hồng y - Brian Moore
Về Từ Cõi Chết 3: Tai Nạn - Elie Wiesel
Về Từ Cõi Chết 2: Rạng Sáng - Elie Wiesel
Casanova ở Bolzano - Márai Sándor
Về từ cõi chết - Elie Wiesel
Cùng một tác giả
Giết con chim nhại (truyện dài)
Prue (truyện ngắn)