Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
733
116.478.067
 
Đời ba như quả đu đủ
Lâm Bích Thủy

 

          

                                                                              

 Tổng hợp giới thiệu      

 

   Đối với nghiệp cầm bút của ba tôi, chỉ là vô tình, sao đời thơ ông lại tựa như ý tình trong “Bến My Lăng”. Ông  cặm cụi chèo trên bến sông thơ, thuyền ông đã chở nặng những dòng thơ cuộc đời, nhưng khách thơ tìm đến chỉ ngắm nghía qua loa rồi bỏ đi, bỡi đó chỉ là những bài nghiên cứu nhỏ mang tính chất cảm xúc là chính.

 

Nhà thơ Thanh Hải:

    “Những vần “thơ lưu” của Yến Lan là cuộc sống được chắt lọc qua tim, qua tâm hồn thi sĩ, là nghệ thuật điêu luyện về ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu…là thế giới tình cảm bao la, là tiếng thơ của những cảm xúc chân thành”

   Nhà thơ Chế Lan Viên: “Lan đâu có gặp nhiều ngẫu nhiên may mắn như tôi, Lan đã phải đương đầu với nhiều khó khăn ở trong cuộc sống. Năm 1937 tôi mới có Điêu tàn. Nhưng năm 1935, khi nền thơ mới còn chập chững Lan đã có nhiều tìm tòi táo bạo. Tả một cánh buồm cô đơn, tìm về nghĩ ngơi trên sóng đảo dịu dàng, Lan viết:

Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ / Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi.

Tả nắng chiều trải ra như cánh chim trên các trang viên ở Sầm sơn có hòn trống mái Lan viết: 

Trống xa mái ngẩn ngơ thơ đá chạm / Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang

   Cánh ủ viên trang, chiều bồ câu, thơ đá chạm biết bao nhóm chữ phối hợp cấu trúc trong cái tương quan kỳ lạ, ngỡ như mới được viết hôm qua, giữa năm 86 này…Hiện đại mà Việt Nam, mà dân tộc 

   Một nhà thơ có tài là có thể sử dụng thập bát ban võ nghệ, là như cây xương rồng có hai cực đối lập, gai rất gai mà hoa rất dịu dàng. Lan không phải chỉ có loại thơ điêu khắc kỵ khu vào đá ấy, mà lại có nước chảy đưa ru như nhạc. Gần nửa thế kỷ rồi, tôi vẫn thuộc các câu này mà có lúc Lan quên:

 Năm nay cũng có tiếng xe đi/  Đường cũ cong cong ngõ ý gì/ Chỉ thấy bàn tay người khớp ngựa / Ngừng roi chậm séo cánh hoa si / Và liễu bên đường sống phút mơ / Xếp hàng nhau như vạn trang thơ/ Chờ bàn tay lạ, bàn tay gió/ Lật rải tung ra tờ lại tờ

 

 ****

                                                                     

   Hôm ấy, đang đọc cuốn “Hội chợ phù hoa” thì nghe ba gọi; tôi quay lại, thấy ông quắc quắc mấy ngón tay ra hiệu tôi đến bên: “Thủy, lại đây ba bảo cái này”. Vẻ bí mật đó khiến tôi hơi lo; bởi, chưa bao giờ ông tỏ ra như vậy. Rồi,  tâm tình: “Việc này ba chỉ nói mình con biết. Đây là toàn bộ sáng tác của ba, chưa đăng ở đâu, ba để ở góc này, con nhớ nhé.” Ông chỉ phía góc trái tủ gỗ, giả cổ (má mua lại của gia đình đã di cư vào Nam; hiện Tú Thủy chưng ly tách) và nói tiếp: “Nếu nhỡ lúc nào đó ba đi xa, con mang tập bản thảo này đưa cho các chú ở Nhà Xuất bản Văn Học”.  Nói đến đây gương mặt ba chùn xuống, đầy tâm sự: “Con có bao giờ để ý thấy quả đu đủ ứa nhựa tự hàn vết thương khi bị trầy, xước… Đời ba cũng như thế!”.

   Câu nói của ba khiến tôi mủi lòng. Sau đó.., chưa có gì xảy ra, tôi tạm gác lời tâm sự ấy vào tâm khảm; thầm hẹn sẽ tìm hiểu sau.

   Rồi, Hội Nhà văn xuất bản cho ba vài tập thơ. Tập nào tôi cũng lật từ trang đầu đến trang cuối, tìm chữ “đu đủ” Rất nhiều bài lướt qua mới thấy trong Tuyển tập Tứ tuyệt Yến Lan hai chữ “đu đủ, ở bài :

                                    Quả đu đủ góc ao

                                    Ứa nhựa hàn vết đau                                                                                         

                                    Tĩnh yên cành gió quật

                                    Quả đu đủ góc ao

                                    Lặng dâng đời quả ngọt.

Tôi muốn hiểu điều ba nói “Đời ba giống như quả đu đủ, tự ứa nhựa hàn vết đau” một cách trọn vẹn từ trong suy luận của người thi sĩ.

Trước hết; tôi liên tưởng đến mấy cây đu đủ từng nhìn thấy. Tôi nhớ lại, hồi chưa đi tập kết, trước sân có cây đu đủ, tự mọc. Nó nằm sát mép rào nhà cô Ba Đen; quanh nó chỉ gạch đá lởm chởm không thấy đất, đã vậy, cành trứng cá choáng hết ánh nắng; thân đu đủ khẳng khiu, oằn ra hứng chút ánh sáng để tồn tại; thế mà nó cho quả từ gốc đến ngọn, thịt nó thật thơm, ngọt lịm đến tận chân răng. Cả nhà tôi, ai cũng được ăn. Có lẽ ba liên hệ đời mình từ cây đu đủ này:

Mới năm sáu tuổi mồ côi mẹ, ba phải tự lập, vừa lớn thì cách mạng xảy ra; ông không chút so đo tính toán như người “Ta nằm chính giữa cân trời đất” mà bằng sự nhiệt tình của mình, tự nguyện dâng tuổi xanh cho cách mạng:

- Một là trực tiếp kêu gọi bà con thị trấn đứng lên giành chính quyền từ tay bọn phản động, quan lại,

- Ý thức được việc sáng tác của mình để động viên, cổ vũ nhân dân hăng hái làm cách mạng. Mà theo nhà thơ Anh Chi:

Yến Lan là nhà thơ tả thực rất tinh, sâu và có hiệu quả thơ, khiến độc giả rung động bởi được hiểu đời thật và thắm thía thương đời. Có thể nói viết câu thơ tả thực mà làm cho người đọc rung động như Yến Lan là rất khó và rất hiếm :  Nghe trên đàng quạnh hiu / Cổ xe bò nặng nhọc /Người trên xe trằn trọc / Giữa những tiếng rơm kêu

 Trong thơ ông nặng tâm hồn yêu quê hương, giàu lý tưởng và ý chí cách mạng, khát vọng sống tự do hòa bình. Điển hình là bài Bình Định 1947.

       …Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám

Bao đứa con xiêu lạc trở về làng.

Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh

Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga….

 

Và Bình Định nằm thương em nhớ chị

Ôm phố phường quấn quýt sắc trời xanh.

Một viên sỏi cũng cộm thành ý nghĩ,

Sáng trên đường chờ chận bước hôi tanh.

Tin hỏa tốc bạc thếp đèn cửa quán 

Lửa mài gươm sáng rực xóm Lò-rèn

Mẹ binh sĩ  lòng khâu theo túi đạn

Phòng tuyến binh người áo vải chân chen.

 

Mõ lốc cốc, chó không còn tiếng sủa

Quân lên đường chân đất bước như ru

Quạnh hơi thở trong những nhà đóng cửa

Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư

 

Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy,

Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.

Gái quạt trấu cũng hóa thành Dũng sĩ,

Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng….

Lòng Bình Định như go chèn chỉ rối,

Dệt lòng tin qua từng gút âu lo…..

 

Nhà thơ Chế Lan Viên, người bạn văn, rằng: ”Có những câu thơ như nói chuyện bình thường, lại nổi tiếng: Đau đớn thay phận đàn bà/ Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Nhưng có những câu nhỏ máu ra mà ít người hay. Có nhiều lý do… Nguyễn Nhược Pháp chỉ với chùa Hương và Sơn Tinh Thủy tinh đã không uổng công đi vào bể ấy.

Lan à mình bảo Lan rủi! Không, Lan thế mà lại may lắm. Mình thèm viết được một bài “Lại Về Tỉnh Nhỏ”, một bài Mùa xuân lên cao, một bài “Uống rượu với bạn đồng hương như Lan. Rất đổi thèm.

 

Những nhà thơ khác như Trần Ninh Hồ, Nguyễn Bao, Thúy Toàn đều có chung ý nghĩ:  “Thơ Yến Lan về hình ảnh hết sức gợi cảm, gây liên tưởng sâu xa, nội dung thơ tuy mới, vẫn giữ được phong cách xưa, tứ thơ không phá vỡ đơn vị dòng; nên thơ ông vừa mang tính truyền thống mà lại rất hiện đại.”

 

 Lâu nay, tôi viết về chân dung cha mình. Nay, xin giới thiệu tới bạn đọc một số bài thơ của ông, để bạn chiêm nghiệm những điều đồng nghiệp đã ghi nhận về ông :  

Hai cung cùng một nhịp cầu

                                 

         Thân mến tặng La Nhiên Tel pere tel fils”          kính trao hương hồn cụ Paul Hổ  (Việt Kiều Pháp) tác giả bộ phim. Chuyện tình nàng Nha, mang bối cảnh  9 năm VN kháng Pháp ở Phú Đa-An Nhơn-Bình Định.

                    

Cung La buồn - nỗi nhớ

Văng vẳng vọng bên mồ

Mi ướt – dễ nao khô

Người xưa đâu trở dậy

Trăm cánh thư ngày ấy

Sao chẳng đến người thương

Chừ-lệ vẫn vấn vương

Tìm quên…Hoa về Đất

Cung Mi trầm – nỗi nhớ

“Sen”rũ giữa mùa hương

Biển xanh dội sóng dồn

“Giọt Măng cầm” nhịp lỡ

Hai cung đàn nỗi nhớ  *

Sương rơi… rồi sương rơi

Lệ chát mặn vị đời

Kiếp sau - chờ - xa xôi

Hai cung đàn nỗi nhớ

 

Sen = Liên (La Nhiên), tên của một nhân vật chính của bộ phim

“Chuyện Tình Nàng Nha”nổi tiếng tại Alge’rie những năm 1960-70

 Hai cung đàn nỗi nhớ = Tựa đề bài thơ tặng La Nhiên của Yến Lan sau khi nghe tin “Nàng Nha-Lệ Nha”đột ngột qua đời 1952.

 

 

Độc ẩm

 

Người ta trối già, tớ chối già

Vẫn nguyên hồn bướm chực mơ hoa

Mơ hoa nên mãi chờ xuân đến

Xuân đến mừng xuân một ấm trà

 

Không ướp ngâu, nhài –chẳng mạn sen

Thiên thanh mầu nước bốc hương riêng

Cúc, mai kề gối vờn tay rót

Đỡ trống đêm nay bóng bạn hiền

 

Nhấp ngụm đầu tiên bỗng dạt dào

Thấy mình trở lại núi Tô Châu  (*)

Hồ Đông tưởng cạn từ đêm ấy

Theo cuộc trà chuyên lượn sóng chao

 

Uống hớp tiếp nhớ về Sa Vĩ

Một mái nhà tranh bờ Mẫu lệ

Ấm sành Mống Cái ẩn giao lân

Ngan ngát hương quê tình khách địa

 

Lung linh đất nước hiện hai đầu

Ký ức đưa mình tới những đâu

Lòng bỗng chập chờn theo tuổi trẻ

Hơi trà bốc dậy cả chiêm bao

 

Uống nhớ sông dài với núi cao

Mưa dầm eo gió, lũ ngầm sâu

Bến phà bom nổ, rừng lim cháy

Cốc nước nâu hoen đất chiến hào

 

Chú thích

Tô Châu: tên một cụm núi ở Hà Tiên

Sa Vĩ: bãi bể nơi tận cùng thuộc huyện Mống Cái

Bờ Mẫu lệ: bờ đê nhớ xây bằng san hô vớt ở bể

 

 

Sống bù

 

Tám chục năm qua nhiễm thói đời

Buông tuồng ngày tháng cuộc dong chơi

Duyên tình gán ghép, vinh hoa mượn

Cánh cửa chiêm bao hé mở hoài

 

Sách vùi cổ viên, tiếng trùng ngâm

Rượu nhạt, trăng hiu, lạnh phiếm cầm

Người đẹp khuất dần không kịp ngắm

Lửng lơ hoài niệm, khát tri âm

 

Còn được bao năm nửa sống thừa

Lấy gì ấp lạnh với che mưa

Nợ đời còn phải lo trang trải

Đến lúc xuôi tay hết lọc lừa

 

Ước có nơi nào hiểu nghĩa “già”

Tình làng nghĩa xóm khéo lân la

Đượm, nồng chén chuốt cơn thù tạc

Êm ả hồn quê giác sớm trưa

 

Trăng khuya huyền hoặc chái hương đình

Gió lộng, tùng ngâm, trúc lã mình

Ngắm lại sông Ngân cầu dứt nhịp

Thương đời còn đọng bước chông chênh

 

Cổng bụt song thưa lọt nắng đào

Lắng chừng tin bạn cánh thư trao

Cuốc kêu vườn thị gây mùi Đạo

Đèn nhớ nhung chong đến cạn dầu

 

Chiêu hồn Lý, Đỗ hận ly hương

Nhẫm chuyện thiên luân khóc Sở cuồng

Mắt mỏi, chữ mờ thèm nhớ sách

Thềm hoa gọi cháu giảng đôi chương

 

Kể chuyện xưa sau luận thánh hiền

Vô chùa đàm đạo thuyết nhân duyên

Nón nan, túi vải băng đồi thuốc

Nghiền ngẫm đơn thang, thuật cổ truyền

 

Lễ hội xuân thu nổi trống tuồng

Vịnh đào lát liễu tối liên hoan

Trái hườm trí tuệ theo mùa chín

Vẫy tới mùa sau gié mộng vàng

 

Tạ từ ẩn tích chốn đơn cô

Tám chục năm, thôi sống vật vờ

Lái trở nồm lên, buồm chuyển bến

Góc mai già đợi báo tin thơ

                     20.12.1994

 

Nghe sao

 

Có lẽ sao trời ta nhìn thấy đêm đêm

Là tiếng nói hào hùng nhịp đập con tim

Của nhân loại qua nghìn đời để lại.

Ta sẽ nghe từ chùm sao bánh lái

Tiếng người hô vượt biển thắng phong ba

Nghe sao Hôm, sao Mai nói đợi, nói chờ

Vằng vặc hai đầu không gian chung thủy.

Nghe Tua-rua gọi gieo trồng, gặt hái

Xong mùa màng lại bàn dệt chiếu chăn

Nghe Thần-nông dạy con cháu kiệm cần

Hạt vãi hạt vương lấy phần nuôi vịt

Nghe Bắc Đẩu, Nam-Tào lục tìm sổ sách

Xe chặt nhân duyên bằng sợi nghĩa, sợi tình…

Cả một Ngân Hà tỏ rạng lung linh.

Sao đang nói bao điều cho cuộc sống…

Biết đâu nữa ngày mai trên trời rộng

Sẽ mọc thêm biêng biếc một chòm xanh

Từ những lời em nói với anh.

 

 

Khi hoa đào nở

 

Sáng nay trời khép chân mây trắng

Thuyền bến sông ba đậu khít bờ

Chim về xóm lạ mong sương mới

Tháng chạp hoa đào nở lẳng lơ

 

 

 Gió đẩy bờ lau chạy với lau

Núi chàm thu hẹp núp trong sâu

Bên cầu trúc đỏ, phơi đầu bạc

Ông lão quên về, đứng thả câu

 

Và có hơi may thấm lạnh lùng

Có từng loạt lá trút trên sông

Có người thiếu phụ gầy như trúc

Đi khắp vườn cau tước gió đông

 

Nàng mơ sống lại thu hôm trước

Đã rung bao nhiêu ánh mặt trời

Mùa đông buồn quá, chim lâu quá

Chim cả trong lòng nét thắm tươi

 

Tiểu thuyết thứ năm, 10/10/1937

 

 

Trăng chín    

 

Đò trôi lấy bẩy nước xuôi dòng

Trăng bỏ đầu cành rụng xuống sông

Đôi tiếng ếch kêu từ gốc bẹ

Đáp vào rung lạnh mái chèo cong

 

 

Chơi xuân

 

Gửi bạn vào xuân, hương cúc thoảng
Thung sâu bặt tiếng búa sơn tràng
Quyên đôi rỉa cánh chòm mai nhún
Câu đối trưng lên ánh nhũ vàng.

Ông lục thơ xưa trong sách cũ
Cháu tìm khoe áo với đàn anh
Ngoài sân lơ lửng nêu xe tóc
Lạc ngựa luồn trong ngõ trúc quành
 

Chùa bên vẳng lại tiếng chuông ngân
Ẩn hiện bờ lau cát trắng ngần
Đò chở sang sông hai quả bánh
Của người thôn nữ viếng tình nhân

Giải khăn cô gái bay trong gió
Khúc khích cười sau vạt áo bà
Lúc nãy lên chùa dâng lễ phật
Vô tình để ố vết chu sa.
Người cũ năm nay đâu hút bóng
Ngõ thôn vòm trúc vẫn che ngang
Ta đi nhặt cánh tầm xuân rớt
Của khách chơi hoa rải dọc đàng.

1938

 

       Khô

 

Giếng làng hôm ấy không còn mạch

Chàng kéo gầu lên thấy nhẹ không

Từng đoạn đường xa bàng rụng lá

Một bờ sông nhớ một bờ sông

 

Đường chảy, người đi, mỗi sớm mai

Lá bàng lấp lại, dấu chân ai

Kéo dài trong cát khô như cát

Thuyền đậu bên bờ nối một hai

 

Thu khóc tình thu, ta khóc ta

Mà chàng mơ ước giếng làng xa …

Qua sông còn một con thuyền nát

Mà kẻ chèo kia đã ở nhà

 

Nhưng bổng ta nghe lời trúc đổ

Tự rừng muôn cánh, gió bao phương :

Bỏ ta, chàng bước sang phường khác,

Gánh nước làng trên giếng dọc đường.

 

Hầu ta thôi khát, giếng càng khô,

Mắt đã ngừng trông nẻo hẹn hò.

Tim đã thôi reo lời tuyệt vọng,

Mực còn lưu đọng chảy ra thơ.

 

Tiểu thuyết thứ năm, số 30, 01/5/1939

 

 

 

 

 

 

Lâm Bích Thủy
Số lần đọc: 2930
Ngày đăng: 07.04.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tháng chín, mùa cua lên bãi - Nam Dao
Mùa hoa khói - Hải Điểu
Tiểu thuyết và cuộc đời - Nguyễn Trung Dũng
Chung thủy ! - Trạch An – Trần Hữu Hội.
Dòng sông không trở lại - Võ Công Liêm
Con nhện - Nguyễn Trung Dũng
Sét đánh pho tượng - Hoàng Xuân Hoạ
Có thể lắm - Nguyễn Hồng Nhung
Đôi mắt - Nguyễn Trung Dũng
Quả táo đỏ và con rắn lục - Nguyễn Trung Dũng
Cùng một tác giả
Tình lên ngơ ngác (truyện ngắn)
Chàng Ngốc (truyện ngắn)
Thư cảm ơn (sự kiện)