Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
518
116.586.049
 
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 1
Tạ Tỵ

 

Tư liệu

 

MỤC LỤC [−]

 

  1. Trịnh Công Sơn

  2. Tuý Hồng

  3. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ

  4. Dương Nghiễm Mậu

  5. Nguyễn Đình Toàn

  6. Nhật Tiến

  7. Thế Uyên

  8. Thế Phong

  9. Bùi Giáng

  10. Võ Hồng

 

 

 (Xếp theo thứ tự năm sinh từ nhỏ đến lớn: Trịnh Công Sơn, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Bùi Giáng, Võ Hồng)

 

 

Dans tous les domaines, le triomphe de la vie est la création.

Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của đời sống là sáng tạo.

Henry Bergson (1859-1941)

 

Thưa

 

Sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam trong vòng mười năm (1961-1970) đã phát triển thật phong phú với sự góp mặt đông đảo những người làm văn nghệ thuộc nhiều lớp tuổi. Họ du nhập vào đời sống nghệ thuật như dòng nước lũ, chảy phăng phăng với những chiều hướng khác biệt nhưng vô cùng sung mãn.

 

Những người làm nghệ thuật hôm nay, họ không quan niệm văn nghệ có nhiệm vụ nhằm cải tạo nếp sống, hoặc đem cái tinh hoa của nghệ thuật để phục vụ cho mục đích nào đó của xã hội, nhưng chính để tỏ bày trước tập thể, những giá trị mới của suy nghĩ. Bởi vậy, cái ý nghĩa tinh khôi của danh từ, đã biến chất, trở thành một xác định hiển nhiên qua nhiều phương cách sáng tạo. Cái tạp đa (diversité) trong văn nghệ hiện đại, không phải chỉ do sự biến chuyển của những yếu tố cấu tạo nên ngôn ngữ, nó còn là biểu tượng của sự điều hoà thế hệ, ở một thời đại có nhiều biến chuyển đột ngột do thời cuộc đẩy tới.

 

°

 

Đi vào văn nghệ là đi vào khung trời đầy rẫy buồn phiền với nhiều ray rứt nội tâm. Cái vòm con sáng tạo treo cao giữa vùng trời suy tưởng, muôn đời vẫn chỉ là ảo ảnh do mộng mơ sáng tạo. Người làm văn nghệ nhìn lên cái vòm cong vinh quang để phác hoạ, mong tìm về cho mình một thuần khiết nào đó, nhưng hỡi ơi! Mỗi lần viết ra, nó lại biến thể qua ngôn ngữ đê trở thành một vùng ám ảnh, mang nhiều chứng tích u uẩn với đêm khuya phủ kín mặt người. Nỗi ám ảnh trong lòng người làm văn nghệ hôm nay, ít nhiều gì cũng trùng hợp với bóng dáng của F. Scott Fitzgerald 1 với chiều sâu bi đát, với nhiều đêm mất ngủ, với khủng hoảng tâm trí, trong mỗi suy nghĩ về tình yêu, cuộc sống và hư vô!

 

Sự sáng suốt vô tư ở mỗi ý nghĩ hầu như đã biến dạng, chỉ còn lại chua chát của ngôn từ trong mỗi dòng, mỗi ý được phô diễn qua tác phẩm để chứng minh sự thật. – Tại sao như vậy? Những người làm văn nghệ hôm nay, phải chăng bị thôi thúc quá nhiều bởi dục vọng kỳ bí? Họ muốn tiêu huỷ cho hết, dốc đi cho khô cạn những dòng cảm xúc đang ứ nghẹn ở nội tâm?

 

Trước mặt họ, hiện ra một vũ trụ tối đen như niềm tuyệt vọng, không có cả sự tới gần cõi Siêu hình để đối chiếu tương quan giữa con người và khách hàng trước Hư vô. Họ như đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm, cong mình ngó xuống: tự đáy sâu bỗng mọc lên sự ô nhục, đớn hèn và phản trắc. Họ vội ẩn mình vào bản ngã. Họ có cảm tưởng như kẻ đứng chờ đợi vĩnh viễn ở biên giới của đời sống, không có hy vọng kinh qua được ngưỡng cửa cách ngăn giữa họ và thực tại.

 

Họ băn khoăn, mệt mỏi trong cuộc hành trình đi tìm thân phân trước ba vấn đề: chiến tranh, tình yêu và đời sống.

 

Cuộc chiến với hai mươi lăm năm hoang phí mà tuổi trẻ chưa một lần an hưởng trọn vẹn, được hình dung bằng vùng trời đầy huyết lệ, ở đó, mỗi số phận như bị buộc chặt vào tập thể, vào định mệnh. Nó có đấy như một kiêu hãnh đồng thời cũng như một nhục nhằn. Chiến đấu cho tự do, dân chủ, danh từ có phải bàn tay Tuý Hồng đang đong đưa chiếc “nôi phù thuỷ” vẫy gọi lũ kên kên mở hội ái tình với tiếng thở dài não nuột! Còn ai kia, đang cất lên tiếng nói độc địa, với dáng điệu hung hãn, phá phách điên cuồng, có phải vóc dáng Thế Phong với những mũi nhọn nén vun vút vào cuộc đời để thoả mãn tự ái? Cái nguồn thương yêu sáng láng và cao cả của tình người giữa những cơn sóng đảo điên ích kỷ, cũng thổn thức đâu đây, qua tâm tư Nhật Tiến với khung trời mơ ước thăng hoa. Cách mạng, chiến tranh, phẫn nộ và tình dục đang quay tít mù giữa cuộc đời đổ vỡ, hình ảnh Thế Uyên im sững nhìn lũ âm binh mải mê thi hành nhiệm vụ. Nay quê hương, ôi! Quê hương yêu dấu! Đã bao lâu rồi, tiếng nói kinh hoàng còn cất lên giữa thinh không bát ngát, gọi về từng chắt chiu kỷ niệm, gọi về dĩ vãng khoả lấp trong bom đạn mịt mù, với bao nhiêu dang dở! Có phải Võ Hồng đó chăng? Tiếng nói trang nghiêm vẫn lẩn khuất nỗi u hoài của thương, của nhớ, của điêu tàn, sụp đổ mơ ước trần gian cùng đắng cay mãi mãi!…

 

°

 

Tiếng nói của văn nghệ hôm nay có lúc nó thì thầm thân mật, có lúc nó bùng cháy giận dữ, có lúc nó cay đắng, mỉa mai, có lúc nó dâm loạn, có lúc nó buông thoát, chia lìa!… Trong vùng ánh sáng nghệ thuật chiếu rọi vào đời sống, từng hình ảnh thấp thoáng chạy quanh, đuổi bắt nhau, chửng rỡn nhau như những con múa rối. Chiến tranh, tình yêu và đời sống đã gắn bó từng sự kiện để từ đấy, tạo nên bi kịch!…

 

Nghệ thuật hôm nay cách biệt hẳn với nghệ thuật tiền chiến. Nó khoẻ và sống hơn nhiều, vì nhờ vào những yếu tố thực tế, với bao nghịch cảnh tác động thẳng vào tri giác, gây phản ứng cho mỗi suy nghĩ. Chính vì suy nghĩ miên man, nên sự tỏ bày tình tiết trong tác phẩm có phần nào rắc rối, và đôi khi khép kín nữa, nhằm kích động tò mò đồng thời cũng để gây hứng thú cảm mỹ. Họ quyết tâm đi theo con đường đã chọn lựa. Họ muốn những suy nghĩ ấy được trực tiếp truyền cảm, không cần đi qua cánh cửa lý trí.

 

Nhưng nghệ thuật vốn cô đơn và buồn rầu, mặc dù chỉ có nó mới đủ khả năng để nhận định đời sống một cách chân thực nhất. Cái dòng sống nội tâm của mỗi cá nhân nghệ sĩ, không ở mặt đất, nó sinh động trong môi trường đặc biệt và bị thúc đẩy vào sâu ý thức, để khám phá ra từng sự thực che giấu sau mỗi đột biến. Nó đi tìm cái căn bản của mỗi trạng huống để trình bày thái độ. Nó hướng vào tương lai với cái nhìn lý tưởng. Nó cũng biết tàn nhẫn bỏ rơi không thương tiếc những cái bất toàn của xã hội (mù quáng, vô ý thức) và tin tưởng vào lẽ tất thắng cuối cùng của sức mạnh hướng thiện. Nó là toàn vẹn. Nó không cần tán tụng, chỉ cần cảm thông. Vì nghệ thuật biểu thị cho niềm tin vĩnh cửu – thực sự cần thiết cho việc tạo dựng một đời sống chân thực. Đôi khi nó cũng là tiếng kèn cấp báo trong đêm tối mịt mùng, hay mang nỗi thất vọng như lời cầu cứu truyền đi trên mặt nước!…

 

Nghệ thuật có sức mạnh tự tại. Nó lấy đà vượt lên, tạo thành chuyển động. Chỉ nghệ thuật mới có thể nói lên cái biểu tượng duy nhất đó. Nếu những người làm văn nghệ để mất đi, thì không còn gì mà tồn tại. Bổn phận của họ phải giữ gìn cái sức mạnh đó trong suy nghĩ và ngôn ngữ.

 

Không biết những người làm văn học nghệ thuật hôm nay, có chia sẻ phần nào với quan điểm của W. Faulkner về văn nghệ, trong bài diễn văn của ông đọc khi lãnh giải Nobel, 1950:

 

… Tôi tin rằng con người không phải chỉ tồn tại một cách đơn giản mà thôi, nó còn phải chiến thắng. Nó bất tử, không phải vì nó là kẻ duy nhất trong tạo vật có một tiếng nói bất tuyệt, nhưng bởi nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng biết xót thương, biết hy sinh và biết kiên trì. Bổn phận các nhà thơ, nhà văn là phải nói lên những điều đó…

 

(“Tôi từ chối thừa nhận sự tận cùng của con người”)

 

… Je crois que l’homme ne doit pas simplement durer, il doit triompher. Il est immortel, non parce qu’il est le seul parmi les créatures à posséder une voix intarissable, mais parce qu’il a une âme, un esprit capable de compassion, de sacrifice ed de persévérance. Le devoir du poète et de l’écrivain est de parler de ces choses…

 

(“Je me refuse à admettre la fin de l’homme”)

 

W. Faulkner, traduction de L. Jacoël

 

Cuốn sách này được thực hiện cùng một chiều hướng với cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ, ấn hành năm 1970, nghĩa là kẻ viết chỉ tỏ bày cảm nghĩ của riêng mình đối với mười nhà văn nghệ hiện diện trong những trang sau. Do đó, không tránh được chủ quan trong vấn đề chọn lựa cũng như nhận định giá trị từng người qua tác phẩm và tài năng. Vì ý thức được sự thiếu sót ấy, nên kẻ viết xin gửi nơi đây lời tạ lỗi chân thành đến các văn hữu, nếu kẻ viết không, hoặc chưa khám phá ra những cái Hay, cái Đẹp, cũng như sự trích dẫn chưa đúng mức để mà sáng tỏ toàn bộ sự nghiệp của mỗi vị.

 

Sự thực, khu vườn văn nghệ còn nhiều bông hoa đáng quý, đáng kính khác, hơn một lần, kẻ viết lại cầu mong có hoàn cảnh cùng thời gian để tiếp tục được hân hạnh, lần lượt viết về những tinh hoa của nghệ thuật Việt Nam – những người đã phải trả giá đời mình cho văn nghệ.

 

°

 

Cuốn sách đang ở trong tay bạn, chắc chắn còn nhiều sơ suất lỗi lầm. Nhưng dù sao nó cũng được hoàn thành do thiện chí và cố gắng miên tục, với ngày dài cặm cụi, với đêm khuya đèn chong một ngọn, giam mình giữa đống sách ngổn ngang. Từng dòng chữ nhảy múa giữa hồn người mê chữ, ngay cả trong giấc ngủ, mới chợp mắt, ngoài trời đã dựng sáng.

 

Những cánh hoa đã thả cho bay theo chiều gió, chả biết có cánh nào rơi vào vùng trời hằng mơ ước?…

 

 

Trịnh Công Sơn

 

Sinh ngày: 28-2-1939 tại Lạc Giao. Chính quán: Minh Hương. Soạn nhạc từ năm 1958-1959

 

Tác phẩm: 1. Trên ba mươi bản (Ướt mi, Biển nhớ, Lời buồn thánh, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Xin mặt trời ngủ yên…) do các nhà xuất bản An Phú, Ly Tao, Minh Phát phát hành từ 1959 đến 1965; 2. Tập Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận do nhà xuất bản An Tiêm và Nhân Bản phát hành 1965-1966; 3. Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời, Những tình khúc Trịnh Công Sơn, Như cánh vạc bay, Cỏ xót xa đưa,… do nhà xuất bản Nhân Bản in ấn lần lượt từ 1966 đến 1970-71.

 

Trịnh Công Sơn và tiếng ru máu lệ

Tôi là một nghệ sĩ thuần tuý. Tôi chỉ diễn tả những điều gì tôi mơ ước, nhưng tôi không biết làm cách nào để hoàn thành những mơ ước của tôi!…

(Trịnh Công Sơn, trích The New York Times, 10-6-1970)

 

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình, những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn. Trong vòng 4, 5 năm trở lại dây, tiếng nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly đã đi hẳn vào đời sống tâm linh của những trẻ tuổi bằng niềm đau xót và phẫn nộ xen kẽ trong một hoàn cảnhh không mấy thuận lợi vì tình hình quân sự và chính trị.

 

Tiếng nhạc Trịnh Công Sơn đã gieo rắc nỗi ai oán giận hờn bàng bạc trong vòm cong âm thanh để trở thành niềm ám ảnh khôn nguôi ở mỗi lương tri hiện hữu. Cái vòm cong đó như một khung trời trong suốt, ở đấy, mọi cảm xúc được thể hiện rõ ràng qua từng nét nhạc chập chờn, khắc khoải, với vóc dáng xanh xao, với đêm dài không ngủ, với nguồi vui chợt tắt trên môi, với dòng lệ hoà theo tiếng gào thét âm vọng tự cuối trời máu lửa. Trịnh Công Sơn đã rót vào cuộc sống những giọt cường toan hay mật ngọt? Thân phận con người Việt Nam với 25 năm chinh chiến đè nặng trên quê hương này có phải chăng, để chứng minh cho tinh thần bất khuất của một dân tộc đã trải qua nhiều cay đắng và tủi nhục? Nhưng cuộc chiến hôm nay, với những tan nát có đấy, đâu phải cuộc chiến thuần tuý quân sự giữa hai quốc gia, nó đương nhiên là cuộc đấu tranh để chọn lựa chế độ trong một quốc gia với sự cổ võ, trợ lực ở cả hai phe cộng sản và tư bản.

 

Sự xác nhận một vị trí, một tư thế giữa hoàn cảnh này, phải chăng là nhận thức đứng đắn của con người chân chính? Dưới bóng mặt trời hằng ngày soi tỏ từng khuôn mặt anh em, bạn bè đang bị hút cuốn vào guồng máy nhập cuộc, Trịnh Công Sơn thoát ra, không phải để yên thân, hay đóng vai nhân chứng cho lịch sử mà đích thực, Sơn tìm riêng cho mình lối sống cá biệt với những gì mà xã hội đã quen thuộc. Do đó, chiều hướng sáng tạo âm thanh của Trịnh Công Sơn trong hơn 100 ca khúc, tuy không cùng chảy chung nguồn cảm hứng, nhưng tất cả đã khởi hành từ một ý thức, ý thức thê thảm của thân phận làm người trong một môi trường khốn khó: chiến tranh. Chiến tranh, chẳng những gây đổ vỡ, tang tóc cho quê hương, cũng vì nó, bao nhiêu ước mơ phải tàn lụi và tương lai mịt mù vóc dáng. Ai cũng biết vậy, ai cũng nghĩ vậy, chẳng cứ gì Trịnh Công Sơn, nhưng cuộc chiến này, mang một hình thái đặc biệt, ở đấy, con người được quyền chọn lựa chế độ và thái độ trước cuộc sống, do đó, mới cần đến sự góp sức của cá nhân vào tập thể để bảo vệ cuộc sống mình thừa nhận. Sự khước từ nhập cuộc của Trịnh Công Sơn trong âm nhạc, thực ra, cũng chẳng mang lại ảnh hưởng nào tai hại cho cuộc chiến đang diễn ra từng giờ, từng phút trên mảnh đất khốn cùng từ bao năm. Bằng chứng hiển nhiên, không chiến sĩ nào vì các ca khúc Trịnh Công Sơn mà buông súng, từ bỏ vai trò lịch sử của mình. Phải thành thực nhận rằng, các chiến sĩ trẻ rất mến thích Trịnh Công Sơn, vì nhạc của Sơn đã nói lên hộ họ những băn khoăn, tiếc nuối, những đam mê cũng như chán chường của mỗi số phận trong cuộc đời, trước chiến tranh. Nhưng sự ưa thích ở đây, nằm trong vị trí thuần tuý nghệ thuật chẳng những không nguy hiểm mà còn giúp ích cho mỗi số phận tự an ủi, vỗ về bằng những âm thanh chất ngất, bằng ngôn ngữ giao hoà nức nở!… Có một số người cho rằng, nhạc Trịnh Công Sơn là sự phản bội xương máu của các chiến sĩ đã hy sinh ngoài mặt trận từ bao lâu, để giữ vững mảnh đất tự do này, trong đó có Trịnh Công Sơn, gia đình, cùng bè bạn đang góp mặt. Nhưng cũng có người nghĩ, Việt Nam hiện nay là quốc gia dân chủ, mọi công dân đều có quyền bày tỏ ý kiến của riêng mình trong phạm vi này đấy, vì nếu không, còn đâu dân chủ? Bởi vậy, sự hiện diện của Trịnh Công Sơn như một thách đố.

 

Thực ra, vị trí của các ca khúc Trịnh Công Sơn chỉ là cái nút an toàn của chiếc động cơ đang quay với tốc độ khủng khiếp, để tránh một nổ vỡ bất ngờ nào đó, có thể xảy ra ngoài dự định.

 

Trịnh Công Sơn vào đời với vóc dáng độc đáo, với những đắm đuối đến tận cùng của đam mê, hoà trộn cùng niềm đau thương rã cánh của một tâm hồn ngu ngơ, nhìn cuộc đời với lo sợ và chán chường. Chính vì những mâu thuẫn nội tâm phát triển một cách quá mạnh mẽ trong mỗi suy nghĩ, nên tiếng nhạc của Sơn lúc nào cũng choáng váng, ngây ngất trong từng vũng âm thanh run rẩy, nghẹn ngào để chạy trốn vào tiềm thức của người thưởng ngoạn. Rồi nó nằm chết trong đó với buồn thương lãng đãng. Nó đưa con người đi dần vào cơn mê hoặc. Nó làm cho tâm tư bị vò xé bởi niềm đau không thành tiếng. Nó ray rứt, đứt nuối trong mỗi ưu tư về thân phận vật vã trước định mệnh. Nó kéo dài từng cơn mệ loạn làm ngất ngư thân xác.

 

Ca khúc Trịnh Công Sơn, dù ở bản nào cũng vậy, không mang một ý tình cứu rỗi, một ân huệ thiêng liêng, nó có đấy như biểu tượng của oán hờn! Dòng nhạc Trịnh Công Sơn chia làm ba loại: ca khúc viết cho chiến tranh, ca khúc viết cho tình yêu và ca khúc viết về thân phận.

 

Trong loại thứ nhất, Trịnh Công Sơn bị ám ảnh bởi chiến tranh, ở đấy, tuổi trẻ không còn là một dự tính nữa. Nó hiện diện như loài rong biển, phó mặc cho chiều nước đẩy đưa đến bến bờ nào đó, hay ngàn đời phải chìm đắm giữa lòng đại dương mù mịt. Chiến tranh, dù là cuộc chiến chính nghĩa, thuộc bên này hay bên kia, Sơn không cần tìm hiểu. Sơn chỉ nghĩ đến sự chết chóc và những cảnh tượng thê thảm đang vì chiến tranh, tiếp diễn mỗi giờ phút trên mảnh đất nghèo này, nên Sơn chẳng ngần ngại gì mà tuyên bố với Jean-Claude Pomonti: Je ne veux pas faire de différence entre les guerres justes et les autres. (Câu này trích trong bài “Trịnh Công Sơn, ca nhân phản chiến tại miền Nam Việt Nam” – “Trịnh Công Sơn, chantre de l’antiguerre au Viêtnam du Sud, phụ trang báo Le Monde số 7570 ngày 17-5-1969). Cũng trong bài, Pomonti cho biết Trịnh Công Sơn đã làm nhạc vì một rủi ro trong lúc tập Nhu đạo (1959), phải nằm bệnh trong bốn năm liền. Trịnh Công Sơn sống ẩn dật ở Huế, và cũng từ đó tiếng dân ca lần đầu xâm nhập vào hồn. Sơn cũng chẳng cần giấu diếm rằng, mình chịu ảnh hưởng của dân ca cải cách ngoại quốc qua các ca khúc của Bob Dylan và Joan Baez. Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác các ru khúc và ca khúc tình cảm với biểu thức mới, rồi lần lần tìm kiếm.

 

Sự tìm kiếm đưa Trịnh Công Sơn đi dần vào nỗi đau của con người trong cuộc chiến hiện hữu, mà vì lý do thầm kín nào đó, Trịnh Công Sơn đã chối bỏ không gian mình góp mặt, để thay vì làm cho nó, tại nó, lại đứng riêng biệt mà khóc than, oán hờn gây nên ngộ nhận. Chiến tranh không do sự phản đối của một người, một số người, hay nghệ thuật mà có thể chấm dứt một cách ổn thoả, bình thường. Nhưng mọi người phải thẳng thắn nhìn vào nó như nhìn vào một sự thật hiển hiên, rõ ràng như đời sống có đấy, còn đấy, nghĩa là phải chấp nhận, dù cho sự chấp nhận đi qua một hình thức nào đó, thuận tiện hay bất lợi đối với mỗi cá nhân đi nữa.

 

Trịnh Công Sơn đã chấp nhận cuộc chiến này có thật, nhưng chấp nhận bằng những âm thanh run rẩy, bằng môi cười gượng gạo, bằng mắt nhìn e ngại, bằng tiếng khóc nghẹn ngào vương vất vây quanh,

 

Một ngày, ngày đã qua, ôi một ngày chóng qua, một chiều, một ngày âm thành đã… đã trôi đi không còn gì. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè, ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương, còn có ai không, còn người, ôi nhân loại, mặt trời và em thôi!… (“Xin mặt trời ngủ yên”)

 

Mỗi ngày qua đi là mất, dù nó qua trong sôi nổi hay âm thầm ở tâm sự mỗi người. Cái tuổi trẻ, chúng ta đang ôm trong vòng tay quấn quít, đang nhìn đời bằng đôi mắt hồn nhiên, đang phác hoạ trong tâm trí muôn vàn mơ ước và những cánh bướm vàng đang đuổi nhau bay lượn giữa vườn đời mới lớn. Nhưng một ngày đã trôi đi, chinh chiến đã lấy mất của mình bao nhiêu bạn bè? Có buồn không? Có tiếc nhớ không? Một tương lai mịt mờ với khuôn mặt chiến tranh làm tàn úa mộng mơ, làm con-ngựa-hồng-biểu-tượng-của-tuổi-trẻ đã mỏi vó chết trên đồi quê hương, hay chết giữa hồn mình? Mặt trời, xin mặt trời hãy ngủ yên, ngủ vĩnh viễn trong không gian này, để đừng bao giờ tôi phải nhìn thấy nỗi đau đớn đang trải rộng trên quê hương. Và nhân loại, và em, có còn gì không? Có còn gì không? Trong nỗi xót xa sau mùa chinh chiến, có chăng, mảnh đất mến yêu này trở lại thuở hồng hoang, với hình ảnh Liêu trai chập chùng hằng đêm mở hội!…

 

Niềm than van của ca khúc như lời tuyệt vọng và tiếng hát, ôi! Tiếng hát đã dìu người nghe vào đến tận cùng ngây ngất. Trong đó, thực và giả như xáo trộn rồi để lại những dư âm nghẹn ngào, lãng đãng. Những ngày qua đi, những ngày còn lại với vết thương in đậm trong hồn người. Hằng ngày, hằng đêm từng cảnh tượng đi qua, đi qua trên khuôn mặt người già, trong tâm trí rối loại người điên, trong xác chết, trong tiếng bom, tiếng súng vây quanh, với 25 năm hoả châu thay mặt trời thắp sáng nhân gian. Mẹ Việt Nam , quê hương ruộng vườn ta đó, nay còn gì? Chỉ còn màu đất loang đỏ, chỉ còn đàn bò không luống cỏ và ngày dài của quê hương chỉ còn lại đau buồn trong màu da vàng bệnh hoạn. Ca khúc “Ngày dài trên quê hương”, nếu xét trên phương diện đấu tranh, đúng là ca khúc phản chiến. Nó đã thê thảm hoá cuộc chiến mà miền Nam chỉ đóng vai trò thuần tuý tự vệ. Thành phố kia, đồng ruộng này nếu có xơ xác và điêu tàn như vậy không phải do chúng ta khơi nguồn máu lệ! Sự có mặt hàng hàng lớp lớp thanh niên hiện diện dưới bóng cờ chẳng phải vì ham thích sự chém giết nhưng đích thức, có mặt để gìn giữ những gì mà họ có nhiệm vụ phải gìn giữ, dù vì bổn phận chứ không do ý thức. Nhưng đứng trên bình diện nghệ thuật để phê phán và xác định, thì ca khúc “Ngày dài trên quê hương”, chỉ là sự tỏ bày nỗi ai oán của cá nhân trước súng đạn với lo âu, căm thù và đau đớn thay, cuối cùng lại nhận thức ra mình xa lạ ngay cả với quê hương, đồng bào ruột thịt.

 

Nhưng dù ở trạng thái nào, Trịnh Công Sơn vẫn vì hai chữ Việt Nam để phải nói lên những điều cay đắng. Tiếng ru của người mẹ đã tự đáy linh hồn dân tộc cất lên như tiếng khóc rã rời, mệt mỏi vì cảm thấy sự không-thuộc-về-mình, những gì mình muốn, mình nghĩ.

 

Con ngủ đi, đứa con của mẹ da vàng. Ru con đạn nhuộm hồng vết thương… (“Ngủ đi con”)

 

Tiếc thay, tiếng ru chỉ là tiếng than thở. Đàn con khi lớn lên vẫn ra chiến trường, để mẹ ê chề, tủi cực. Tiếng ru đã hai lần cất lên, cả hai lần đều bất lực. Chúng đã khôn lớn, tự hành động, tự chọn lựa đường đi dù có làm buồn mẹ!

 

Hoàn cảnh Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, vẫn là sự tiếp nối không ngừng của lịch sử, cũng vì lịch sử mà mẹ Việt Nam, hay một biểu tượng nào đó, được nhạc sĩ dùng để nói về đất nước này cũng chỉ là ý niệm, ý niệm một cách thê thảm rằng, cái chết hay cái sống của mỗi số phận nó ở ngoài quyết định của mỗi người. Đứa con gái da vàng yêu quê hương như yêu thân mình chợt ôm tim, chợt lìa cuộc sống mà đất nước vẫn u mê trong căm thù, oán hận!

 

Những ca khúc viết về cuộc chiến của Trịnh Công Sơn, đều mang bên trong nó, đời sống riêng. Cái đời sống thứ hai đó, không phải ai cũng thấy, ai cũng biết, khi nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nó chính là lương tri trước cuộc chiến, ẩn nấp sau ngôn ngữ, qua giọng buồn đứt nối của âm thanh. Cái lương tri đó không được nói thẳng với mọi người, nó chỉ như chiếc bóng chập chờn thoáng hiện, thoáng mất, mà mỗi người sẽ tìm thấy ở lòng mình khi chợt bàng hoàng, thảng thốt, vì có anh em, chồng con vừa gục ngã đó đây…

 

Trịnh Công Sơn đã nói thật những gì ẩn nấp trong đầu, qua ngôn ngữ và âm nhạc, nhưng chính điều nói thật này, hàm chứa thiên vị và phiến diện, nên thay vì vô tư, nó trở thành bất lợi cho một phía mà ở đó, sự có mặt của mỗi người là để bảo vệ, nếu không, cũng đừng làm hại nó vì ngộ nhận hay ích kỷ. Chính vì không nhìn thấy và không đoán biết những gì thuộc phía bên kia, nên phần nào Trịnh Công Sơn chủ quan, khi phổ biến ý nghĩa của riêng mình trong vấn đề chung của quốc gia. Tiếng bom có rơi ở xóm làng nào đó, đại bác đêm đêm có vọng về thành phố nữa đi, thì thái độ của con người có ý thức không thể như người phu quét đường dừng chổi đứng nghe được. Cái thái độ dửng dưng chắc chắn không phải điều cần thiết đối với người miền Nam. Khi dùng hình ảnh này, Trịnh Công Sơn muốn nói lên sự bất lực của con người trước những thảm hoạ tuy không muốn, vẫn phải chứng kiến và mỗi số phận đều phải gánh chịu cái sự thực hiển nhiên đó mỗi ngày, mỗi đêm…

 

Nhưng chẳng phải chỉ bấy nhiêu, với những dữ kiện được trình bày trong các ca khúc viết về chiến tranh, đích thực nó còn mang nặng niềm đau đớn của từng số phận bị chiến tranh vùi lấp trong một cảnh ngộ nào đó. Các địa danh nổi tiếng về những trận giao tranh ác liệt như Pleime, Chiến khu Đ, Đồng Xoài, Chu Prong, Ashau, A Lưới v.v… được ghi nhận như những chứng tích tuyệt đỉnh của bi thương. Người yêu, người yêu hỡi! Tại sao lại có thể như vậy? Cái chết không thoải mái nằm cong queo ở một lòng đèo, hay cái chết nghẹn ngào không manh áo, hoặc cái chết lạnh lùng giữa rừng núi mịt mùng chẳng hẹn hò, có phải chăng để nuôi sống Việt Nam? Lẽ dĩ nhiên như vậy. Chiến tranh là một trò chơi tàn bạo, không ai muốn, nhưng khi đã chấp nhận nó với một ý nghĩa, thì mọi sự hy sinh phải được coi như thần thánh. Nếu không có những cái chết đèo, hoàn cảnh sinh hoạt miền Nam đã đổi thay và chắc chắn tiếng hát Khánh Ly sẽ thôi ngân dài ứ nghẹn đau trong kích thước phòng trà, hay một thính đường nào đấy, với tiếng vỗ tay của người mộ điệu đang có mặt bình yên, thoải mái để thưởng thức nhạc Trịnh Công Sơn. Tâm hồn nghệ sĩ, đúng ra chỉ là tấm phim lớn ghi nhận những hình ảnh do cuộc đời để lại. Những hình ảnh tốt cũng như xấu, chồng chất lên nhau, trong hồn người nghệ sĩ. Bởi vậy, nếu cơn đau nào có đến, ý nghĩ giận hờn, phẫn nộ nào có làm điên cuồng trí não, hay nguồn yêu thương êm dịu nào có xoa mát thịt da, cũng đều là phản ánh do cuộc đời đẩy tới. Kẻ nghệ sĩ không phải thần thánh, mà cũng chẳng có uy quyền cho lệnh hoặc cải tạo xã hội theo ý muốn của mình, bởi vậy, mỗi khi gặp ngang trái, gặp cảnh ngộ không vừa lòng, tự nhiên bật ra than thở để trút nhẹ oán hờn! Có lúc nào Trịnh Công Sơn vô tư nhất, thanh thoát nhất, dù nói về Việt Nam máu lửa, nhất là một Trịnh Công Sơn đi tìm quê hương, đi khâu vá tình thương đất nước, trong căn nhà nhỏ, đèn mờ sáng, ngủ quên non nước, để cho thịt xương phưoi trắng đôi miền. Ở ca khúc này, người nghệ sĩ đã nhận diện được cuộc chiến hiện tại không do một phía, nhưng vì tương lai, vì ruộng đồng, xin mở tan xích xiềng vô hình trói buộc tự do. Cái tự do trong ca khúc “Đi tìm quê hương” là cái tự do của một dân tộc, người nhìn người không e ngại và mọi ý thức hệ dẫn đường không nằm trong chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ làm con người ly tán.

 

Trịnh Công Sơn, đã chứng kiến cuộc tổng công kích của Việt cộng hồi Tết Mậu Thân vào kinh đô Huế. Sơn đã nhìn thấy tận mắt cảnh chém giết hung tàn do cộng quân gây ra. Đã nhìn thấy bao nhiêu đổ vỡ, bao nhiêu nát tan, đau xót. Đã sống những giờ phút hãi hùng giữa lòng chiến trận với những xác người chết không kịp trối trăn, không kịp nhắm mắt và còn nhiều nữa!… Cảnh tượng này đã gây xúc động thực sự trong hồn Sơn với ca khúc: “Hát trên những xác người”:

 

Chiều đi lên đồi cao

Hát trên những xác người

Tôi đã thấy

Tôi đã thấy

Trên con đường người bồng bế nhau chạy trốn

Tôi đã thấy

Bên khu vườn một người mẹ ôm xác đứa con…

Tôi đã thấy

Người cha già ôm con lạnh giá

 

Chiều đi qua bãi dâu

Hát trên những xác người

Tôi đã thấy những hầm những hố

Đã chôn vùi thân xác anh em…

 

Thảm cảnh tàn sát ở Huế còn được Trịnh Công Sơn khóc vật vã trong: “Bài ca dành cho những xác người”:

 

Xác người nằm trôi sông

Phơi trên ruộng đồng

Trên nóc nhà thành phố…

Xác người nằm bơ vơ

Dưới mái hiên chùa

Trong giáo đường thành phố…

 

Những xác người đó, có già, có trẻ, có em bé thơ ngây nằm trong mưa lạnh, cái lạnh căm căm của mùa xuân xứ Huế với hoa đào chưa phai màu phấn bướm.

 

Đi từ phẫn nộ, tiếng nhạc Trịnh Công Sơn lả vào cầu khẩn với ước mong lời nói của mình được chấp nhận. Hoà bình, ai mà chẳng muốn. Hai tiếng đó như lời kêu gọi thầm kín trong tâm tư mỗi con người thương nước. Nhưng 25 năm đã trôi qua rồi đấy và cảnh xương trắng chất thành non, đâu phải lỗi ở người miền Nam, lỗi ở một chế độ khát máu, mà thực ra, do sự giằng co giữa hai thế lực vĩ đại quốc tế. Trịnh Công Sơn biết chắc điều đó, nên cất lên lời cay đắng:

 

… Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết.

 

Khởi từ một thực trạng máu xương

 

Kinh Việt Nam cũng là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh… (“Kinh Việt Nam”)

 

Nội dung các ca khúc trong hai tập nhạc Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời đều tỏ bày sự mong mỏi thanh bình qua những nét nhạc trầm hùng, nhưng vẫn không xoá hết được ray rứt, đắng cay.

 

Nơi đây tôi chờ

Nơi kia anh chờ

Trong căn nhà nhỏ

Mẹ cũng ngồi chờ

Anh ngồi chờ trên đồi hoang vu

Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù

Chờ đã bao năm

Chờ đã bao năm

Chờ đã bao năm?…

(“Chờ nhìn quê hương sáng chói”)

 

Chờ đợi là điều nhục nhằn với trăm vạn lo buồn. Niềm tin tưởng cũng như hy vọng đến gần hay xa đi, đâu phải tự mình quyết định mà do vận nước. Cứ nghĩ như vậy may ra tránh được thất vọng trong công trình nuôi dưỡng hy vọng.

 

Chẳng cứ gì ở những ca khúc viết về chiến tranh và quê hương. Trịnh Công Sơn mới có những dằn vặt, xót xa đâu. Nhạc tình của Sơn là sự giao thoa của âm thanh và ngôn ngữ thi ca cũng nói lên đầy đủ ý nghĩa trên. Tiếng nói của tình yêu và tuổi trẻ đối với Trịnh Công Sơn, hình như muôn thuở vẫn chỉ là lời dặn dò của ly cách. Những câu ân tình biến thành giọng than van thê thiết, với từng âm giai lả lả trôi về nẻo quạnh hiu nào đó. Sự cuồng nhiệt, đam mê bỏng cháy ở đầu môi không thuộc về nét nhạc của Trịnh Công Sơn.

 

Có lẽ định mệnh đã đưa đường tài năng, nên dù ở chiều suy tư nào, Sơn cũng cố tìm về cho mình những góc cạnh đau thương với những hoài nghi, chán chường. Ngôn ngữ đi qua nhạc như nhức mỏi, buốt giá, làm tê cóng tâm hồn,

 

… Trời còn làm mưa, mươi rơi, mưa rơi!… Từng phiến băng dài trên hai tay em xuôi, tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ!…

 

Trời còn làm mưa, mưa rơi, mưa rơi

 

Từng phiến mây hồng em mang trên vai tuổi buồn như lá, gió mãi cuốn đi quay tận cuối trời!…

 

Âm thanh lướt đi nghe tha thiết, nghẹn ngào rồi kéo dài trong không gian như cơn gió đêm thu thổi lùa giữa rừng sâu. Nhạc tình của Trịnh Công Sơn, hay, hay lắm. Nó đắm đuối trong khung cảnh hoang sơ mà con người có mặt như những chứng tích lạc loài. Từng chùm hoa dã thảo thả xuống tự trời cao bay bạt ngàn trong không gian bát ngát. Tiếng hát, ôi tiếng hát đã cất lên thăm thẳm mịt mùng như bủa vây nỗi buồn không vượt thoát. Tiếng hát dìu âm thanh đi đến cuối trời tiếc nuối, ở đó, đã chờ sẵn biệt ly. Thời gian mong manh, tuổi đời mong manh, hy vọng mong manh, tình yêu mong manh, tất cả những mong manh đó như muốn ta ra, muốn xoá nhoà vào hư vô, để cát bụi lại trở về cát bụi. Tâm hồn Trịnh Công Sơn hình như bị quấn chặt bởi lớp lớp bi thương, nên dù cho tình yêu có đến, hoa đời có ngát hương, chăn chiếu đời có nồng men ân ái thì với Sơn, nó vẫn là ảo tưởng, vẫn cho đau buồn hơn nguồn vui, vì nguồn vui không nằm trong khuôn khổ cuộc sống hôm nay:

 

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ

Dài tay em mấy thuở tóc xanh xao

Nghe lá thu rơi reo mòn gót nhỏ

Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu

Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ

Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua

Trên bước chân em âm thầm lá đổ

Chợt hồn xanh buốt chi mình xót xa…

(“Diễm xưa”)

 

Ca khúc “Diễm xưa”, một ca khúc rất nổi tiếng chẳng những trong nước, mà còn ở quốc tế. Đại hội Dân ca Quốc tế lần đầu tại Nhật Bản vào tháng 11-1970, tiếng hát Khánh Ly đã làm cho hàng vạn con người say mê âm nhạc lắng nghe, ngưỡng mộ. Khánh Ly cũng đã trình bày ca khúc này bằng tiếng Nhật tại Expo 70 – Osaka, được hoan nghênh nhiệt liệt. Có lẽ, trời bắt giọng ca Thái Thanh thuộc về Phạm Duy, thì tiếng hát Khánh Ly phải dành cho Trịnh Công Sơn. Sự thành công của Trịnh Công Sơn hôm nay, một phần nhờ vào tài trình diễn của Khánh Ly vậy.

 

Tiếng hát Khánh Ly có âm hưởng đặc biệt. Nó không cao vút, hoặc thanh thoát ở giọng hát bình thường. Nó ẩm đục, vướng nghẹn như niềm vui chợt mất. Nó bâng khuâng như cơn mưa vội đến. Nó tuyệt vọng như cánh chim non bay lạc trong cơn giông tố mịt mù. Nó đam mê giữa hơi thở chán chường. Nó khóc ngất rồi lịm chết trong nguồn đau vô hạn! Tiếng hát hình như có pha rượu và khói thuốc của từng khuya quên ngủ. Nó rót vào hồn người những thanh âm não nùng ngất ngất!…

 

Tình yêu, tình yêu nào đó, phải chăng để đánh lừa mỗi số phận hay để ghi dấu trong hồn từng hình ảnh qua đi, với nỗi ưu phiền giữa vùng u tối!

 

… Tình yêu xứ này

một lần hiện tượng

một lần bão nổi

giã từ giã từ

chiều mưa giông tới

em ơi em ơi

sầu thôi xuống đầy

làm sao em nhớ

mưa ngoài sông bay

lời ca anh nhỏ

nỗi lòng anh đây

sầu thôi xuống đầy…

(“Cuối cùng cho một tình yêu”, thơ Trịnh Cung)

 

Đối với Trịnh Công Sơn chẳng những cuộc đời là không trọn vẹn, ngay cả tình yêu cũng chỉ là sầu nhớ, mộng mơ! Vì thế, nét nhạc tình của Sơn luôn luôn bải hoải cung bậc, nhưng cái bải hoải ở đây không chứa đựng thất bại mà nó chứng minh cái nhìn của Sơn về tình yêu không nằm trong ước lệ bình thường. Nó là vóc dáng tuyệt đối của cái Đẹp xuyên qua ý nghĩ. Nó là tuổi trẻ đi tìm bóng mình qua kẻ khác. Từng dòng lệ trôi đi, từng cánh lá trôi đi, từng ngày tháng trôi đi và tuổi trẻ này với cơn đau ấy cũng trôi đi, tôi đi mãi mãi:

 

Tuổi nào nhìn lá úa vàng chiều nay

Tuổi nào ngồi hát mây bay ngang trời

Tay măng trôi trên vùng tóc dài

Bao nhiêu cơn mưa vừa tuổi này

Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may

Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai

Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời

Xin cho em tay còn muốt dài

Xin cho cô đơn vào tuổi này

Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài…

(“Còn tuổi nào cho em”)

 

Nhưng cái tuổi thơ ngây đó đã hết rồi. Mây đã vây quanh giọt sầu và bàn tay che giấu lệ nhoà vì khóc ngàn thu, tháng năm van nài cho nguôi mong chờ cũng không một lần trả lại. Nhạc tình Trịnh Công Sơn đều đi chung khuôn thức. Ở đấy buồn, thương pha trộn, cuối cùng là bâng khuâng, tưởng tiếc trong âm thanh ngất ngây. Tiếng ru của người mẹ, hay tiếng ru dành cho cuộc tình với ngôn ngữ mặn nồng qua dòng tóc, phiến môi mềm, trên bàn tay gầy, trên mùa lá xanh rồi tiếng mưa sẽ ru em ngủ với mộng mơ còn đó, nhưng dáng em vẫn trôi dài và tiếng ru này ngàn năm vẫn không phai giận hờn định mệnh!

 

Có lẽ Trịnh Công Sơn bị ám ảnh quá nhiều về cuộc chiến, nên ngay trong tình yêu, vẫn thấy thấp thoáng nỗi lo sợ nào ẩn nấp giữa chiều sâu tiềm thức, và tình yêu chẳng phải những lời hò hẹn ngay tình, nó được hình dung qua nỗi buồn và nước mắt.

 

Trịnh Công Sơn không tin vào cuộc đời có mặt và sự đoán biết nào đó, chỉ là những bóng mây bay lang thang trên trời cao chờ điều kiện vật lý vừa đủ, biết chất thành mưa. Bởi vậy, cái tuổi trẻ mỗi thanh niên mang trên vai hôm nay, nó cũng như những đám mây kia, chờ giờ phút nào đó sẽ hoà tan vào cơn mưa máu lửa,

 

Tôi ru em ngủ một sớm mùa xuân

em hôn một nụ hồng

Hỏi thăm về giọt nắng

Tôi ru em ngủ hạ cũng vừa xong

em hôn lên tay mình

Để chua xót tình trần…

(“Tôi ru em ngủ”)

 

Mình hôn lên tay mình, một hình ảnh vừa đẹp vừa mỉa mai, có nghĩa là cô đơn vẫn còn đó, tình yêu chỉ là đắng cay. Bởi vậy, dù cuộc tình có lên cao vút cũng mỏi cánh xa lìa bầy, rời bỏ đường bay. Cơn buồn phiền của tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn nó kéo dài theo năm tháng. Nó là trái chín trên cây rụng rời, nó như dòng sông nước cuốn, nó như chiếc lá lìa cành và mong manh như nắng, như hồn mình vá khâu…

 

Tình yêu như vết cháy trên da thịt người

Tình xa như trời, tình gần như khói mây

Tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng

Tình buồn làm cơn say

Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu

Tình thắp cơn sầu, tình dìu qua hố sâu

Tình vời lên núi cao, rồi trong cơn yêu dấu

Tình đầy tình xa nhau…

(“Tình sầu”) 

 

liên tục công bố tư liệu 

Tạ Tỵ
Số lần đọc: 2151
Ngày đăng: 27.08.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Hồ Xuân Hương – Huyền Thoại Và Sự Thực. - Nguyễn Cẩm Xuyên
Nhà Thơ Nữ Thơ Edna St. Vincent Millay ( 1892- 1950) - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Thú 3 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Thú 2 - Đỗ Tư Nghĩa
Nguyễn Mộng Giác, Trong Tình Thân & Nỗi Thương Tiếc! - Mang Viên Long
Tự Thú 1 - Đỗ Tư Nghĩa
Có phải cuối đời là. . . vậy vậy ! - Nguyễn Đông Nhật
Phạm Nhã Dự : Thơ Và Hoài Niệm Một Thời Tuổi Trẻ - Trần Văn Sơn
Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích 1891-1978 - Nữ Tu Mai Thành
Người Làng Hà Thượng [1919-2011] - Phan Bá Thụy Dương