Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
547
116.597.906
 
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Khuyết danh

Lời giới thiệu
Cuốn sách này chủ yêu gồm các bài tuyển chọn từ tuần báo INDOCHINE.
Indochine là một tờ báo bằng tiếng Pháp của Hội Alexandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940 tới cuối năm 1944 thì đình bản.
Cộng tác viên của báo chủ yếu là người Pháp. Có người là hội viên của Học viện Pháp quốc Viễn Đông như G.Coedes, Louis Malleret, có người đúng đầu một cơ quan chuyên môn như Paul Boudet, Giám đốc Sở lưu trữ và các Thư viện, J.Y. Claeys, Giám đốc Sở Khảo cổ...

Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường.

Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân.

Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine.

Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa.

Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine.

Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine.

Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó.

Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa.

Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng.

Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương.

Người tuyển và dịch

______________________

Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng.

Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội

In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học

Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003

In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004

Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.

Tel/fax: (04) 7733041

32 Bà Triệu, Hà Nội

Tel/fax: (04) 8251374

 

Tỉnh thành xưa ở Việt Nam

Louis Malleret

Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880.

Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học.

Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu.

Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại.

Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco.

Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ.

Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu.

Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu.

Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”.

Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”.

Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm.

Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình).

Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng.

Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp.

______________________

Cảnh đẹp Bắc Kỳ

Arnaud Barthouet

Trong một lần nói đùa, có người nào đó kêu lên: “Cảnh đẹp Bắc Kỳ à? Làm gì có! Cứ đều đều, nói đúng ra là đơn điệu. Chỉ có bốn cảnh: đồng bằng, miền biển, trung du, thượng du; những cảnh như vậy đầy trong các ảnh...”.

Chúng tôi không chê bai các ảnh đó và chúng tôi không hề xem chúng là những thứ bỏ đi. Trong cỗ máy của cuộc đời thường nhật này, cảnh đẹp có khắp nơi và có lẽ chỉ những người nói liều hay tinh quái là những người khăng khăng cho rằng bản thân cảnh không chứa cái đẹp.

Cảnh đẹp có ở khắp nơi, khắp lúc. Trong những cảnh đẹp của Bắc Kỳ, trước tiên phải kể tới Hà Nội, thủ đô của toàn xứ Đông Dương. Hà Nội, đô thị kiến trúc tinh tế, cư dân chọn lọc, sức sống thanh xuân mạnh mẽ ngập tinh thần thể thao trong các trường. Nhà thờ, đền chùa, nhà bảo tàng, câu lạc bộ, các phố buôn bán, thợ thuyền và thợ thủ công, hàng trăm nghìn người hiếu kỳ lang thang qua các phố trong những ngày lễ lớn. Nét yêu kiều của những chiếc hồ, các ốc đảo xanh tươi - các công viên, những bồn cây, vườn cây ăn quả, các vùng ven đô, những mùa thu dịu hồn, những mùa đông xiết bao dịu dàng... Chúng tôi sẽ không nói thêm gì nữa về Hà Nội, người ta không thể tàn nhẫn đến nỗi vặt hết cỏ ở các thảm cỏ hay hoa ở các vườn cây.

Tiếp đến, cảnh đẹp Bắc Kỳ nằm trong thiên nhiên, trong các cánh đồng, cánh rừng mà chúng tôi hân hạnh được nêu ra ở đây một số hình ảnh và một số nét. Những cảnh đẹp đó rất đáng xem trước khi đánh giá dứt khoát hay phát biểu nhận xét. Này đây:

Biển lúa ở vùng châu thổ thật đẹp khi các hạt lúa nặng trĩu hứa hẹn một vụ thu hoạch tốt cho những người nông dân cần cù đang vội vã trong những ốc đảo xanh của vựa lúa Bắc Kỳ. Vịnh Hạ Long, quần đảo tuyệt vời và vui tươi của bờ biển Đông Dương.

Những đồi núi của miền trung du, các tầng cây vui tươi, những con suối trong cuộn nước đôi khi làm tung bọt.

Mùa xuân thần tiên ở vùng núi biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ với bạt ngàn hoa của những cánh rừng đào và mận, của phong lan, huệ; sự tương phản tinh tế giữa mầu xanh đậm của các loài cây nhiệt đới với mầu xanh của cây xuân thay lá. Mùa thu ở thượng du với bầu trời trong xanh, với những thời khắc bình minh và hoàng hôn, như một phép mầu, làm tôn giá trị những đường viền đa dạng của các chỏm núi.

Các phiên chợ thượng du ở mạn Tuyên Quang, Bắc-kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn với mầu sắc đa dạng của các bộ lạc miền núi: Thái, Mán, Mèo, Lô Lô.

Những cánh rừng ở khu vực Kép-Lang-Met-Thanh-Moi, dưới chân dẫy Cai Kinh, nguyên sơ tuyệt vời. Chúng tôi có thể kể những khu rừng khác nữa, nhưng thôi.

Những rừng hạt dẻ của xứ Cao Bằng còn phong phú hơn rừng thông bá hương ở Liban. Và vẫn tại Cao Bằng, cạnh thác Bản Giốc, một Niagara của chúng ta, trong một con sông chẩy từ dẫy núi Quay-son-chau (núi quý) ở Trung Quốc sang có một giống cá có hương thơm. Dĩ nhiên là sẽ có những người nói rằng họ không nhận ra hương thơm này ta nên trả lời họ rằng phải có một sự cảm nhận nào đó và không phải ai cũng có được cảm nhận đó ngay một lúc.

Những cây hồ đào ở Đồng Văn, điểm cực Bắc của Bắc Kỳ. Ở đây phải đi ngựa và khi ta từ phía Đông tiến vào hay khi gặp cánh đồng thuốc phiện của người Mèo, ta sẽ gặp một gam mầu phong phú bất tận và mê hoặc với những mầu sắc dịu dàng mờ mờ uốn lượn theo sự mơn trớn cua gió xuân. Trên con đường đó, ta phải leo qua một cái đèo gọi là đèo Ma-pi-leang (đèo yên con ngựa có mũi đẹp, nghĩa của từ đủ nói giá trị của đèo). Phía trên đèo khoảng vài trăm mét, trong một khu bằng phẳng như thềm nhà có một loại cải soong chỉ có ở vùng ôn đới. Bạn ơi, nếu tới được đây, bạn hãy xuống ngay ngựa, bỏ hết những thứ trong túi bên hông ngựa ra, hái cho đầy túi vì đi xa hơn sẽ không có nữa và chuyện được ăn món sa lát cải soong đó do tự tay mình hái bên đường ở vùng nhiệt đới cũng là một chuyện đáng nói.

Tại biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ, các lô cốt và các chòi canh nổi trên nền trời như những tổ chim ưng là những đồn người xưa dựng lên để theo dõi những vùng đất xung quanh và đánh thuế các băng từ Trung Quốc sang. Việc bình định xong hàn Bắc Kỳ, xứ quan trọng nhất của Liên bang Đông Dương, xuất phát từ vùng này. Chúng ta đang ở một thời kỳ khác và các lô cốt, mãi mãi là một phần của sự trang trí, giờ đây là những chứng vật; những viên đá của chúng có tiếng nói mạnh mẽ hơn những diễn văn, thậm chí hơn cả những bài viết.

Sẽ là vô ích nếu nói nhiều hơn nữa; chúng tôi chỉ lướt qua vì đề tài không bao giờ cạn; đó là tặng vật của mùa xuân bất tận. Cầm một đầu của sợi dây ba sợi sự nhạy cảm, sự yêu thích mầu sắc, sự nồng thắm - buộc chúng ta với cảnh đẹp của Bắc Kỳ, ta có thể kéo dài nó ra mãi mãi vì đó là một sợi dây mềm mại hơn lụa và dẻo hơn vàng. Không thể tìm thấy sợi dây này trong các cửa hàng hay tại nhà các thương nhản vì chính chúng ta là những người làm ra nó và kéo nó.

Thực tế, chúng ta không biết hết sự giầu có của chúng ta, một sự giầu có rõ ràng minh bạch mà không phải chịu một khoản thuế nào. Các bạn đọc các bạn hãy tin tôi. Có đầy rẫy cảnh đẹp ở Bắc Kỳ. Ta có thể thưởng thức nó với niềm hân hoan chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ cần mở mắt nhìn.

______________________

Hà Nội 1911

Claude Bourrin

Claude Bourrin tới Đông Dương năm 1898 làm công chức ngành quan thuế nhưng rất ham mê các hoạt động văn học và kịch nghệ. Ông ở Đông Dương khá lâu, nhất là ở Bắc Kỳ, và đi lại nhiều nên đã viết các cuốn Xứ Bắc Kỳ Xưa (Le Vieux Tonkin), Người và việc ở Đông Dương (Choses & Gens en Indochine), Pháp Á (France d' Asie), Môlie và người An Nam (Molière ét Les Annammites).

Cuốn Người và việc ở Đông Dương gồm 3 tập: tập I (1898 - 1908), tập II (1908 - 1916), tập III (1917- 1927).

Đoạn dưới đây trích dịch từ cuốn Choses & Gens en Indochine (1908-1916) do nhà xuất bản IDEO ở Hà Nội in năm 1941.

... Nhân dịp Van Der Born, phi công người Hà Lan, vừa thực hiện thành công một số cuộc bay biểu diễn ở Sài gòn và Băng Cốc, tháng hai năm 1911, Besse, Chủ tịch hiệp hội Thuyền Buồm mở cuộc lạc quyên để tổ chức một tuần lễ hàng không ở Hà Nội. Bắc Kỳ phải mời cho được Van ghé qua biểu diễn trước khi anh đi Hồng Công. Trước đây đã có một số phi công đàm phán với Bắc Kỳ nhưng họ đòi ít nhất từ 30.000 tới 40.000 quan trong khi Van bằng lòng với cái giá từ 15.000 tới 20.000. Ý đồ của Besse không thành nhưng lại được thực hiện dưới hình thức khác. Số là khi đó một Uỷ ban do Trú sứ Trung Bắc Kỳ là Henn de Monpezat làm chủ tịch quyết định mua một chiếc máy bay cho Liên đoàn Hàng không. Uỷ ban gồm toàn người Pháp trong đó có dược sĩ, trưởng phòng vô tuyến điện báo, quản trị khách sạn Métropole, một kỹ sư, một ông cò phụ mãi tận cuối năm 1912 chuyến bay đầu tiên mới được thực hiện trên bầu trời sân đua ngựa ở Hải Phòng mà lại do một người Nga tên là Cuminski lái. Người Pháp tự an ủi cho rằng người Nga là bạn và đồng minh của mình; hơn nữa động cơ máy bay là động cơ Blériot của Pháp. Mỗi lần bay kéo dài khoảng 10 phút. Vài ngày sau đó, buổi biểu diễn bay được thực hiện ở Hà Nội trước một cử tọa đông đảo và nồng nhiệt. Chỉ có người Trung Quốc không có mặt vì nhận được lệnh tẩy chay. Nguyên nhân tẩy chay là quốc tịch của phi công.

Mãi năm sau, chuyến bay trên bầu trời Bắc Kỳ mới do phi công Pháp thực hiện. Phi công này tên là Marc Pourpe. Ngày 13 tháng 6 năm 1913, Marc Pourpe tụ hội bạn bè ở Hải Phòng. Ngày hôm sau, anh bay đi Hà Nội và hạ cánh thành công. Ngày 16 anh bay đi Lạng Sơn nhưng bị chói nắng khi hạ cánh nên phải quay lại Kép và hạ cánh trên một thửa ruộng ở Seno(? ND) không có hư hại gì. Vài ngày sau đó, anh lại bay đi Lạng Sơn và hạ cánh an toàn vì đã tính toán để quay lưng lại phía mặt trời khi hạ cánh.

Cũng trên bầu trời Đông Dương, bạn của Marc là Verminck đã không được may mắn: anh bị chết trong lần bay biểu diễn ở Nam Kỳ. Có lẽ đây là phi công đầu tiên chết trên bầu trời Đông Dương. Song song với hoạt động hàng không là hoạt động sân khấu. Tháng hai năm 1911, Besse mở lạc quyên thì ngày 1 tháng tư, nhóm kịch nghiệp dư của người Pháp, trong đó có Claude Bourrin, tổ chức vở Ami Fritz của Erckmann-chatrian để lấy tiền giúp Liên trách hộ tịch một thời là phi công, một nhà thầu khoán và một số nhà buôn, tất nhiên có Besse. Sau khi có máy bay, người ta triệu một phi công Pháp sang để chuyến bay đầu tiên được thực hiện bởi phi công Pháp, chứng tỏ nước Pháp đã có một bước đáng kể trên thế giới về mặt hàng không. Cuối cùng thì đoàn Hàng không Hà Nội. Buổi diễn được thực hiện ở rạp Philharnonique vì lúc đó Nhà hát lớn Hà Nội đang được hoàn thành.

Từ nhiều năm qua, thành phố Hà Nội đã thực hiện việc xây dựng một nhà hát thành phố xứng đáng với thủ đô hành chính của Đông Dương hơn cái phòng diễn cổ lỗ ở phố Takou (Hàng Cót - ND). Mặc dù chưa hoàn thành đầy đủ do thiếu kinh phí, cuối cùng thì tòa nhà cũng dùng được. Tuy việc sơn quét các phòng, hành lang và nhiều thứ khác không bao giờ được thực hiện nhưng như thế là mừng rồi. Tòa nhà có vóc dáng to lớn với những nét thô xấu của lâu đài Garnier (có lẽ là nguyên mẫu của là Hát lớn Hà Nội - ND) và khách dạo chơi trên đường Paul Bert (tức Tràng Tiền) tự hỏi khi nào khai trương nhà hát mới. Nhóm kịch Philharmonique có tham vọng gắn tên tuổi của họ vào ngày lễ khánh thành. Nhóm quyết định diễn vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon (Le voyage de M.Perrichon) trong ngày khánh thành Nhà hát lớn với mục đích lấy tiền ủng hộ trẻ em lai lang thang. Thành phố trao cho nhóm kịch một sân khấu trống trơn, không màn kéo, không thiết bị trang trí. Một diễn viên là thú y sĩ sửa chữa những khiếm khuyết đó bằng một sự năng động ghê gớm: ông đã làm màn kéo và vẽ trên đó cảnh Hồ Gươm có Tháp Rùa. Chiếc màn kéo này được cách tân vào năm 1927 và mãi tới tận năm 1932 mới được thay thế bằng chiếc màn nhung kiểu Ý.

Ngày 9-12-1911, Nhà Hát thành phố Hà Nội được khánh thành với vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon.

______________________

Hải phòng 1884

Bonnal[i]

Trú sứ Hải Phòng

trích Au Tonkin 1872-1881-1886

Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.

... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.

Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.

Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.

Theo các điều khoản của hiệp ước, lãnh sự Pháp không có quyền hành bên ngoài khu nhượng địa. Các quan tỉnh Hải Dương thì làm như không biết có một trung tâm dân cư mới vì trung tâm này được tạo ra bằng đủ thứ tạp nham, đầy những kẻ lang thang và những tên bất hảo, không có sự phê chuẩn của triều đình, không có quy chế của một cộng đồng thông thường.

Không cảnh sát, phố xá và các bờ sông bẩn thỉu, các hố đào ở chân đê hôi thối và thiếu đường đi vào mùa mưa là những yếu tố làm cho Hải Phòng kém hấp dẫn người Pháp. Tuy nhiên, nếu những bất tiện này là một vấn đề lớn vào lúc cộng đồng người Pháp còn rất nhỏ bé thì nó không còn là vấn đề nữa khi đội quân chiếm đóng hàng ngày thu hút tới đây một số lượng đông đảo thương nhân châu Âu. Những người mới tới tràn đầy tin tưởng vào tương lai của tỉnh thành và cảng.

Vấn đề cảng của Bắc Kỳ đã gây ra những cuộc tranh cãi sôi nổi, đặc biệt là trong giới hàng hải. Các kỹ sư thủy văn và các sĩ quan hải quân không nhất trí được với nhau trong việc chọn một cảng mới trước khi thay thế cho cảng Hải Phòng. Một số người ca ngợi Quảng Yên, số khác ca ngợi Hòn gay trong vịnh Hạ Long, nhưng tất cả đều nhất trí yêu cầu Chính phủ Pháp bỏ Hải Phòng vì không có lối vào cho các tàu trọng tải lớn, được “xây dựng trên bùn” không bao giờ có thể nối với Hà Nội bằng đường sắt, bị các dòng chẩy rộng và xiết cắt ngang cắt dọc tạo ra ngập lụt lớn và tính kém ổn định của nền đất trong vùng châu thổ làm cho công tác xây dựng “tôn kém tới mức tất cả các nguồn tài nguyên của Bộ Thuộc Địa sẽ bị hút vào đây”. Mặc dù có những lời công kích mạnh mẽ chống lại cảng đặc biệt và có thể xây dựng được cầu cống. Nếu đất bùn nhão, có thể có sạt lở và thẩm lậu, và do đó các máy bơm sẽ không có tác dụng khi xây dựng dưới mực nước của các con sông bên cạnh. Cũng cần phải nâng cao các tường chống ít ra là ở một số điểm. Những thăm dò cho tôi biết khắp nơi là đất sét pha cát nén chặt và người ta có thể đào sâu tới 8 mét mà vẫn không có nước.

Yên tâm với vấn đề cốt tử này, tôi chuyển sang nghiên cứu kỹ chế độ sở hữu ruộng đất ở vùng lân cận khu nhượng địa. Một cuộc điều tra tiến hành kín đáo cho tôi biết rằng sẽ không có vấn đề trưng dụng ruộng đất với giá cao (à prix d'argent). Vị trí của con kênh tương lai hoàn toàn nằm ở khu vực người châu Âu không có mảnh đất nào. Thêm vào đó, ở xứ An Nam, việc trưng dụng ruộng đất vì lợi ích công cộng không được đền bù. Như vậy, tôi có thể trưng dụng những mảnh đất của người bản xứ nằm trong khu vực kênh, nhất là các quan tỉnh tôi dò ý hứa sẽ đền cho những người bị trưng dụng những mảnh đất tương đương nhưng mầu mỡ hơn thuộc nhà nước nằm bên Núi Voi cách Hải Phòng không xa. Thế là vùng đất giới hạn bởi con kênh và hai con sông hầu như hoàn toàn thuộc về người Pháp bằng cách hoặc mua lại của nhà cầm quyền địa phương, hoặc điều đình với những người bản xứ tự xưng là sở hữu chủ. Những người này thường lạm dụng sự cả tin của người mua nhưng nói chung giá cả luôn luôn rất thấp.

Tôi tham dự vào quá trình chuyển nhượng đó bằng cách coi mọi giao dịch là có giá trị và để cho tòa án lãnh sự xét xử cẩn thận các tranh chấp có thể có. Để lập dự án vạch ra các đường phố và đại lộ của thành phố tương lai, tôi giữ nguyên các con đường hiện có và tôn trọng đất của người Pháp bằng cách không chia nhỏ đất của họ ra. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ tới lúc này tôi mới cho những người bị cai trị biết dự án của mình. Đồng thời, tôi ngăn cấm mọi sự giao dịch về đất đai nhằm tránh những vụ đầu cơ đất có thể có hại cho lợi ích chung. Sau khi được thông báo dự án của tôi, mọi người Pháp ở Hải Phòng tỏ ra thỏa mãn và chúc mừng sáng kiến của tôi.

Giờ đây phải tìm nhân công cần thiết cho công trình tôi sắp đảm nhiệm mà không có một khoản tín dụng nào. May thay, ở An Nam có một thiết chế mà tên của nó người châu Âu nghe khó lọt tai, mặc dù thiết chế này vẫn còn tồn tại ở châu Âu dưới cái tên cỏ vê (corvée) kém tàn nhẫn hơn cái tên đi sâu.

Ở Bắc Kỳ, trừ một số người có đặc quyền, mọi người dân đều phải đi sâu. Họ phải làm không công trong việc xây dựng và sửa sang đê điều, đường xá, kênh mương, nói chung là các công trình mang lại lợi ích chung.

Từ hai năm nay, do chiến tranh và biến động, dân trong vùng Hải Phòng thoát khỏi sự đóng góp khá nặng này, nhất là khi thời gian đi sâu quá dài hay trùng vào mùa cấy hái. Chúng tôi đang ở vào mùa khô. dân bản xứ đang nhàn rỗi. Thật là thời điểm thuận lợi cho việc tập trung về Hải Phòng những người phải đi sâu trong các tổng lân cận.

Các quan tỉnh rất sẵn sàng cho việc đó và thậm chí còn hứa cung cấp cho nhân công khẩu phần gạo và tiền trích từ ngân khố tỉnh. Họ cho tôi một viên võ quan hàm Lãnh Binh để làm nhiệm vụ cảnh sát trong các công trường do ông Bédat, phụ trách công chính, làm chỉ huy trưởng.

Công trình được khởi công ngay. Những nông dân Bắc Kỳ là những người thợ đất tuyệt vời. Việc xây dựng các con đê ở vùng châu thổ Bắc Kỳ là tác phẩm của dân tộc cần cù và kiên nhẫn này. Không có một dụng cụ gì khác ngoài chiếc mai và cái thúng đan bằng tre, họ đã dựng lên trên bờ của tất cả các dòng sông một mạng đê điều rộng lớn, kết quả của một khối lượng lao động vĩ đại, để bảo vệ vùng châu thổ khỏi những trận ngập lụt theo chu kỳ của Sông Hồng.

Ngay từ đầu, chất đất làm cho công việc tiến hành rất dễ dàng. Mai cắm sâu vào đất sét pha cát ướt sắn ra những miếng đất đều đặn để thợ bốc lên. Những người khác kém khỏe mạnh hơn hoặc có tuổi, đôi khi có cả trẻ em và phụ nữ bị lôi cuốn bởi khẩu phần gạo, làm thành dây chuyền chuyển đất tới tận chỗ san lấp. Công việc tiến hành như vậy trong khoảng hai tháng bằng các đội phu thay phiên nhau cứ tám ngày một lần mà không hề có sự phản đối nào của dân chúng bản xứ. Khi lòng kênh đã hình thành giữa các con đê được dựng lên để ngăn nước tràn vào thì một sự cố đáng buồn xảy ra làm ngưng trệ công việc và ảnh hưởng tới việc hoàn thành nó.

Trong khi áp dụng các sáng kiến để tạo ra mặt bằng cho người Pháp xây dựng nhà ở và các công trình công thương nghiệp, tôi không hề nghĩ tới sự phản đối của các quan chức ở Hà Nội. Tại Bộ tham mưu của Thống tướng, người ta lo ngại về công việc của viên Trú sứ, không tiền và, chỉ bằng một thiết chế của dân bản xứ, dám xấc xược tạo ra một thành phố. Giới quan liêu dân sự ở Hà Nội phản đối kịch liệt công trình và nóng lòng chờ đợi cơ hội để làm nó sụp đổ.

Chẳng lâu la gì, các biến cố trên chiến trường Lạng Sơn đã cung cấp cơ hội cho những chống đối đó. Để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh tới một vùng quan trọng như Lạng Sơn, cần phải tuyển mộ phu khuân vác trong thời hạn một năm để vận chuyển lương thực và đạn dược. Giới cầm quyền quân sự đã kêu gọi các trú sứ hợp tác. Trước đây khi ở Sơn Tây, tôi đã tuyển mộ, không phải là không vất vả, được 1.500 người bản xứ tình nguyện để đưa về Hà Nội. Các tỉnh khác ở vùng châu thổ không thể tuyển được nhiều như thế. Hiện nay công việc vận chuyển rất khó khăn. Bị thuyết phục bởi những báo cáo có dụng ý của công binh Hải Phòng rằng hàng ngàn người lao động đang bị thu hút vào các công trình của thành phố, giới quân sự liền ra lệnh cho tôi bằng điện tín phải dùng dân binh bao vây công trường, sau đó dùng vũ lực tập trung số người lao động đó lại và cho người áp giải lên Lạng Sơn. Tôi đang sẵn sàng từ chức công sứ để không a tòng theo một hành động mà tôi cho là lạm quyền không thể tha thứ được thì có người báo cho tôi biết là những người khỏe mạnh đã trốn khỏi công trường từ nhiều giờ rồi, chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em. Không còn nghi ngờ gì nữa: đã có sự bất cẩn và chắc chắn một nhân viên nào đó người bản xứ đã thông báo cho nhà cầm quyền An Nam kế hoạch mai phục và họ đã làm trống trơn các công trường.

Tôi cho Hà Nội biết và sự việc lúc này tạm gác lại. Thế là công trình bị đình lại trong sự luyến tiếc của những người Pháp ở Hải Phòng. Năm sau, công trình do tôi phụ trách lại tiếp tục và tiến hành cho tới kết quả mỹ mãn, khi chế độ dân sự bắt đầu ở Bắc Kỳ dưới chính quyền của Paul Bert.

______________________

Một vọng gác tiền tiêu của Vịnh Hạ Long: Đảo Bạch Long Vỹ

Trích nghiên cứu chưa công bố của P.A. Lapicque

Các chỉ dẫn hàng hải về đảo Bạch Long Vĩ khá khiêm tốn. Các chỉ dẫn đó xếp đảo này vào khu vực nguy hiểm trên đường vào Hải Phòng và cho biết:

“Đảo này nằm giữa vịnh Bắc Kỳ ở tọa độ 20o08 Bắc và 107o43 Đông, một điểm thám sát tốt. Đảo có dạng tam giác, chu vi 7 km. Giữa đảo là một bình nguyên cao 58m, sườn có chỗ dốc đứng, có chỗ cây bao phủ. Cách đảo từ 0,5 tới 0,75 hải lý là những bãi đá ngầm, vì thế muốn cẩn thận nên đi cách đảo khoảng 2 hải lý. Thường thường, có những đàn cá mà từ xa người ta tưởng là sóng bạc đầu”.

Hiện nay, với sự phát triển của máy bay thương mại và sự tinh vi của trang thiết bị hàng hải, mọi hòn đảo nhỏ nhất,bãi đá ngầm, bãi san hô v.v... đều có vai trò quan trọng vì chúng được các phi cơ hay thủy phi cơ sử dụng làm các trạm khí tượng hoặc trạm vô tuyến điện nếu vị trí hoặc địa hình của chúng thuận lợi cho những việc đó.

Vì thế, việc thu thập các thông tin về đảo Bạch Long Vỹ và xác định các thông số về hòn đảo tiền tiêu trong vịnh Hạ Long là một việc rất có ích. Thực vậy đảo Bạch Long Vỹ chỉ cách đảo Lai Tao ở cực Nam Vịnh 38 hải lý, cách đèn biển Norway 42 hải lý, cách cửa sông Hồng 65 hải lý, cách mũi Pillar, điểm cực Tây của đảo Hải Nam, 83 hải lý.

Đảo Bạch Long Vỹ, chữ Tầu có nghĩa là “đuôi rồng trắng”, còn được người An Nam gọi là Vô thuỷ đảo, hay đảo không có nước, và người Tầu gọi là Ma Sheuo Tchap, Mao Xui Chao hay Mao Xứng Chao tùy theo phương ngữ.

Bạch Long Vĩ nằm trong chuỗi khép kín các đảo phải đi tuần tra định kỳ do nhà cầm quyền cao cấp ở Đông Dương quy định: bắt đầu là băng ngang vịnh Hạ Long, tới các đảo Gow Tow (Cô Tô), Bạch Long Vỹ vòng quanh quần đảo Hoàng Sa (Paracels), sau đó vòng lại qua các đảo ven biển Trung Kỳ và kết thúc tại trạm Quan thuế Appowan trên đảo Các Bà.

Viên chủ sự Quan thuế là phái viên hành chính tại trạm Bạch Long Vỹ. Tất cả các thuyền đánh cá của người Tầu trong vịnh Bắc Kỳ phải tới đây đăng ký; các thuyền này cũng buộc phải mua muối trong các cửa hàng của Quan thuế Các Bà mới được phép đánh cá trong vùng biển của Pháp và được bảo đảm an toàn trong các vịnh và đảo của chúng ta.

Phái viên hành chính này, qua trung gian của Công sứ Quảng Yên, giữ hên hệ thường xuyên với trưởng hạt Cô Tô hay Kao Tao, vì Bạch Long Vỹ trực thuộc hạt này về mặt hành chính. Như vậy, Bạch Long Vỹ trực tiếp thuộc quyền quản lý của trưởng hạt Cô Tô. Theo quy định, hàng năm, trưởng hạt Cô Tô phải thực hiện thanh tra Bạch Long Vỹ, viết một biên bản kèm theo báo cáo chi tiết tình hình đảo.

Trên đảo Bạch Long Vỹ, ly-trong (lý trưởng), chức danh do chính quyền Pháp lập ra với nhiệm vụ đứng đầu làng, được phát một lá cờ Pháp và có nhiệm vụ kéo lên khi có tàu bỏ neo ở đảo. Lý trưởng có con dấu đúng với các quyền hạn của ông ta. Mặt khác, các thẻ thuế thân, trong các kỳ tuần tra, được phát cho dân đảo để dễ dàng kiểm soát người và điều tra dân số.

Các văn bản tham khảo để viết lịch sử đảo có rất ít. Tuy nhiên, người ta đã ghi nhận được 25, 30, thậm chí 50 chiếc thuyền buồm đăng ký ở đảo Các Bà hàng năm vẫn ra đánh bắt cá ở vùng biển Bạch Long Vỹ từ tháng chín. Trong mùa gió Đông Bắc, các thuyền tìm được chỗ thả neo tốt ở phía Nam đảo. Tại đây, các thuyền này gặp các thuyền từ đảo Hải Nam tới. Đó là thời kỳ hoạt động trao đổi, mua bán duy nhất trong năm. Do thiếu nước ngọt nên những hoạt động này diễn ra rất khó khăn.

Tình hình cứ diễn ra như vậy cho tới năm 1920, giai đoạn như mô tả ở trên, khi người ta tìm ra nguồn nước và xây dựng giếng tại một điểm ở phía Nam bình nguyên.

Sự kiện này được trưởng hạt Cô Tô báo cáo vào tháng 8- 1921 cho chỉ huy trưởng đội lính cơ (Garde Indigène) ở Quảng yên, kèm theo một lá đơn bằng chữ nho của một người Tầu tên là Hung Lin Xao. Ông này vừa là nông dân vừa là ngư dân ở làng Giáp Nam trên đảo Cô Tô. Trong đơn, ông Xao xin phép được trồng cấy trên mảnh đất thấp của đảo.

Báo cáo cho biết “người Tầu này, nhận là đã tìm ra nguồn nước, muôn khai khẩn chỗ đất quanh nguồn nước. Khu đất ông ta khai phá trồng ngô và khoai lang rất tốt. Ông ta mang theo gia đình và một số người gốc ở đảo Hải Nam. Nhũng người này trước đây hàng năm vẫn tới đảo bắt tôm cua, sò và cá có rất nhiều quanh đảo. Ngoài đánh bắt, họ còn thu mua tất cả cá đánh được trên đảo. Số cá này nếu không bán hết ở Bắc Kỳ sẽ được xuất sang Bắc Hải (Pak Hoi) sau khi có giấy phép xuất khẩu của các văn phòng Quan thuế ven bờ

Sau báo cáo trên, chính quyền thiết lập những cơ sở lâu dài để tăng cường kiểm soát phần lãnh thố phụ thuộc vào chính quyền bảo hộ. Vì thế, phụ cho các tàu tuần tra của Quan thuế và các thuyền gỗ chạy động cơ ở các đảo Cô Tô, chính quyền trung ương còn quy định các đơn vị của hạm đội phải đăng ký chương trình thăm Bạch Long Vỹ mỗi năm ít nhất một lần.

Dưới đây là một số dữ liệu về hình thể, diện tích v.v... của đảo.

Đảo hình tam giác lệch, trong đó cạnh dài nhất nằm gần theo hướng Bắc Đông Bắc - Tây Nam, dài khoảng 3 km. Chiều cao hạ xuống cạnh dài nhất này khoảng 1,5 km cho ta diện tích toàn đảo khoảng 225 hecta.

Đảo hình như được cấu tạo từ các trầm tích. Cát kết, có ở khắp ven biển, ở dạng tầng có độ nghiêng thường là Đông sang Tây. Theo thời gian, chúng bị cắt theo tầng thăng đứng. Có rất nhiều mảnh san hô được sóng đánh lên bờ và đôi khi tạo thành những cồn dài hàng trăm mét. Trên đảo có những bãi cát rất rộng, trong đó có một bãi chạy từ Đông sang Tây chiếm hết phần phía Nam của đảo, trên có làng.

Các làng.

- Vì lý do thuận tiện và an ninh, ba điểm dân cư nói trên tập trung trong một làng lớn hơn, tức là làng hiện nay, gồm có 75, 80 nóc nhà. Các nhà này lợp rơm, tường trát bùn hoặc những chỗ trú thân đơn giản. Số dân làng giao động quanh con số 200, trong đó có 30 phụ nữ và 60 trẻ em. Các nhà được xây dựng trên những cồn cát ở vách phía tây và tập trung gần một ngôi chùa nhỏ.

Những điểm có nước.

- Đảo được cung cấp nước ngọt bằng ba nguồn là:

Giếng nằm gần làng, cách chỏm đao khoảng 300 m. Lưu lượng giếng này rất nhỏ và cho nước lẫn bùn. Giếng này đã bị bỏ.

Giếng nằm trong vùng đồng lầy, cách làng về phía bắc theo đường chim bay khoảng một cây số. Giếng cho một lưu lượng khá. Nằm sâu trong một thung lung cây cối rậm rạp, giếng nhận nước của tất cả thung lũng và tạo ra một nguồn ngang mặt đất ở phía thượng lưu. Điều này giải thích vì sao các khu đất xung quanh nó lại đẫm nước.

Giếng thử ba nằm cách các đầm lầy khoảng 500 m về phía Bắc. Giếng nằm trong một khu đất bằng phẳng cao hơn các khu đất khác khoảng 5 m. Giếng này cũng cho một lượng nước đáng kể và chất lượng có vẻ tốt.

Như vậy, khu dân cư của đảo có vẻ được cung cấp nước tốt nhưng một vài điểm ở sườn tây thiếu nước. Ngoài ra, sự có mặt của lớp cát kết dưới sâu là dấu hiệu gần như chắc chắn cho thấy sự tồn tại của nước ngọt.

Có một ngôi chùa nhỏ nằm bên bờ biển và cách làng khoảng 500 m thờ Thần Giếng. Thực vậy, ở trong chùa, có một chiếc bia trên ghi dòng chữ Thủy Thang Phúc Thần Vi bằng chữ nho, có nghĩa là bia thờ phúc thần nước giếng. Chùa quay ra biển, mặt trước được che bằng một bức bình phong xây bằng đá. Người ta bố trí một hốc khoét vào tường mặt trước để thờ thần núi. Hốc được trang trí bằng một lá cờ bằng lụa đỏ có hàng chữ Sơn Đầu Đại vương bằng chữ nho.

Trồng trọt và chăn nuôi.

Người ta trồng trọt trên khắp các cồn ở phía đông bình nguyên. Trồng trọt cũng được thực hiện ở chỏm đảo nhưng bao giờ cũng ở phía Đông. Những cuộc khai hoang lớn mới đây nhắm trồng trọt trong tương lai đã gây ra hậu quả là các thực vật tự nhiên của đảo bị tàn phá. Cây trồng chủ yếu trên đảo là khoai lang, loại cây trồng rất tốt trên đất cát giầu các chất hữu cơ. Người ta cũng thấy một số mảnh ruộng nước, các mảnh trồng lạc, rau... và cả cao lương. Diện tích trồng trọt được đánh giá khoảng hai mươi hecta. Những cuộc khai hoang mới cho phép suy ra cư dân trên đảo có ý định mở rộng trồng trọt.

Súc vật trên đảo đặc biệt có bò. Nếu căn cứ theo vết chân bò để lại, có thể suy ra số lượng của chúng khá lớn. Người ta cũng thấy lợn và các loại gia cầm khá phong phú.

Hiện nay còn thiếu những thống kê chính xác về nghề đánh bắt cá. Đây là nghề duy nhất kiếm tốt hiện nay trên đảo, nhưng các thương vụ vẫn không đáng kể do gần như không có dấu hiệu của tiền trên đảo Vì thế các thương vụ phải thực hiện bằng trao đổi tại chỗ. Cá đánh được tiêu thụ tại chỗ hoặc phơi khô dự trừ, nhưng phần lớn được gửi đi Các Bà hoặc đảo Hải Nam. Các loại tôm, cua và sò là mặt hàng buôn bán với vùng ven biển tỉnh Quảng Đông qua sự vận chuyển của các thuyền tới từ tỉnh này.

Về mặt chính trị và hành chính, chính quyền Pháp tại Đông Dương còn lâu mới buông lỏng hòn đảo tí xíu này, mặc dù nó rất nhỏ và khá nghèo.

Trước những sự kiện hiện nay, chính quyền Bắc Kỳ có ý định xây dựng một ngọn đèn biển trên đảo. Thực vậy, rất nhiều báo cáo của các nhà hàng hải chỉ rõ những lợi ích ngọn đèn biển trên đảo sẽ mang lại cho các tàu từ phía Nam ra lẫn các tàu từ Hải Nam tới để vào các cảng của Bắc Kỳ.

Về mặt kinh tế, các doanh nhân Pháp cho biết đã có đơn xin một khu vực mỏ phủ gần hết đảo. Tuy nhiên các kết quả thăm dò vẫn còn thiếu chính xác. Những người chơi thuyền buồm của Câu lạc bộ Hàng hải ở Vịnh Hạ Long, trong một lần tạm dừng ở đảo Bạch Long Vĩ khi đi tuần, đã mang về những ảnh xương thú khá cổ khá nhiều trên đỉnh cao nguyên. Đối với đường hàng không, đặc biệt là đường hàng không từ Đà Nẵng đi Hongkong, Bạch Long Vĩ có thể có vai trò đáng quan tâm vì tất cả cho phép người ta tin rằng có thể xây dựng một bãi đỗ khẩn cấp ở Đông Nam đảo. Chỗ này có kích thước và độ cứng đạt yêu cầu mà thi công lại không tốn kém lắm.

______________________

Những điểm nghỉ mát bên biển của Bắc Kỳ:

Đồ Sơn

Đồ Sơn là một bán đảo hẹp dài 7 km gồm những đồi núi nhấp nhô chạy dài ra biển giữa Cua Câm (Cửa Cấm) và Cua Van Uc (Cửa Văn Úc). Các cánh rừng thông non trên các đồi phô các biệt thự duyên dáng hiên ngang trên các sườn núi hoặc lười biếng nép mình dọc theo bãi biển. Bán đảo nằm gần trùng theo hướng Bắc Đông Bắc - Nam Tây Nam và bị các mỏm đá chia cắt thành nhiều vụng nhỏ. Dãy núi tạo thành bán đảo được cấu tạo từ cát kết thạch anh chống được sói mòn và có nguồn gốc địa chất giống như các núi ở vịnh Hạ Long. Chắc chắn trước đây bán đảo là một chuỗi các đảo nhỏ và các vách dựng đứng thường xuyên bị sóng biển xô đập đinh tai nhức óc trước khi được phù sa các sông ở Bắc Kỳ bồi đắp cùng với vùng hạ châu thổ. Một truyền thuyết cho biết những cư dân đầu tiên của Đồ Sơn là các ngư dân gốc Thanh Hóa bị bão đánh giạt lên đảo trong mùa gió Đông Nam.

Một thuyết khác lại cho rằng cư dân ở đây có nguồn gốc từ các gia đình ở Hưng Yên đi tìm đất hoặc trốn tránh pháp luật hà khắc.

Số ngày 17-9-1942 của tạp chí này đã kể lại một truyền thuyết đẹp về nguồn gốc hội chọi trâu ở Đồ Sơn vào ngày 10-8 âm lịch hàng năm diễn ra trước Dinh - Chung (Đình Chung - ND) thuộc thôn Đồ Hải.

Văn học dân gian vùng Đồ Sơn cũng rất phong phú với sự tích Bà Đế. Rất nhiều văn nhân, thi sĩ lấy tứ thơ từ cái chết bi thảm của bà. Hồn bà vẫn lang thang trong những đêm giông bão vì thế dân chúng dựng một miếu thờ bà trên một hòn đá lớn ở phía Bắc biệt thự Joséphine. Sau đây là câu chuyện một ngư dân có tuổi kể cho tôi nghe về sự tích bà sau khi tước bỏ những chi tiết rườm rà:

Bà Đế là một thiếu nữ xinh đẹp của gia đình họ Dao (Đào? - ND) ở làng Ngọc Xuyên. Sắc đẹp và giọng nói trong trẻo của cô thiếu nữ đã làm nhiều bạn gái phải ghen tức. Một con trai chúa Trịnh chạy loạn trốn trong một hang núi ở Đồ Sơn một hôm nghe thấy tiếng hát trong thung lũng:

Tay cầm bán nguyệt xênh xang,

Bao nhiêu thảo mộc lai hàng tay ta

Anh hùng ví biết tay ta,

Rồng mây gập gỡ ắt là thành danh.

Đó chính là Bà Đế vừa hát vừa cắt cỏ. Vị vương tử họ Trịnh rất thích, bền gọi thiếu nữ lại và hứa sẽ đưa nàng về triều đình khi mình trở lại kinh thành. Nhưng vị vương tử trẻ đã quên lời hứa trong khi Bà Đế bị làng phạt vạ rất nặng. Không ai tin chuyện nàng kể và làng quyết định sẽ ném người con gái phạm luật làng xuống biển. Mặc dù cổ bị buộc đá rất nặng vì có thai. Bà Đế vẫn ngoi lên mặt biển được hai lần như chứng thực cho sự trung thực và ngây thơ của mình. Những kẻ giết người phải dùng sào dìm nàng cho tới khi chết. Ngày kỷ niệm tấn thảm kịch diễn ra hàng năm vào ngày 16 tháng giêng âm lịch đã lôi cuốn nhiều người tới đền dâng hương.

Trên các sườn đồi và các bãi biển bị sông Do-hông (Đô Họng, tên đúng của sông là Sông Họng hay Họng giang - ND) cách ly với châu thổ và bị gió bão quất tơi tả là những chiếc lều nhỏ bé của các ngư dân bị đất liền quên lãng. Khách duy nhất tới thăm họ là những tên cướp biển người Tầu ở đảo Các Bà.

Chiến thắng to lớn của Trần Hưng Đạo trước quân Mông Cổ năm 1288, cuộc nổi dậy của Lê Lợi năm 1420 chống lại ách cai trị của người Tầu có lẽ chẳng có tiếng vang nào trên bán đảo, thậm chí người ta còn ngờ rằng Đồ Sơn tham gia vào đời sống của tiếm vương Mạc Đăng Dung khi ông này thiết lập kinh đô của mình ở phủ Kiến Thụy, một nơi chỉ cách khu nghỉ mát hiện nay khoảng mười cây số.

Năm 1880, Jean Dupuis đổ bộ lên bán đảo nhưng chỉ khảo sát qua loa các địa điểm. Năm 1886, các ông Vlaveanos, Costa và Gouma (độc giả chú ý gốc Bồ Đào Nha của các tên này - ND) “phát hiện” ra Đồ Sơn.

Bị chinh phục bởi sự trong lành của khí hậu, ba người giới thiệu các bãi biển cho các gia đình muốn trốn cái nóng oi bức của Bắc Kỳ. Làm theo những người táo gan đi ngựa qua các bãi và đầm lầy hoặc trên những chiếc thuyền tam bản thô sơ, các gia đình này mạo hiểm ra Đồ Sơn và dựng tại đó những ngôi nhà lá.

Các năm sau đó, một công ty thương mại, rồi thuế quan, thiết lập liên lạc mỗi tuần một lần với Đồ Sơn bằng một chiếc xà lúp mà những người Hải Phòng có tuổi gọi là xà lúp của những ông chồng. Chiếc xà lúp này không thể cập sát vào các bãi biển, do đó những người đi nghỉ hè phải thuê ngư dân dùng thuyền chở vào bờ hoặc cõng.

Năm 1891, một con đường bộ nối Hải Phòng với Đồ Sơn được khởi công và năm 1892 thì hoàn thành. Vào thời kỳ này, trú sứ Kiến An cho xây dựng ở Đồ Sơn một ngôi biệt thự. Việc làm của ông ngay lập tức được hàng chục gia đình làm theo và các nhà bằng gạch ở Đồ Sơn mỗi năm một nhiều. Những chiếc xe hơi đầu tiên ra đời càng tạo điều kiện cho Đồ Sơn phát triển. Các con đường lớn thay dần cho những con đường mòn và ngày nay người ta có thể đi lại khắp thị trấn trên những con đường đẹp phần lớn đã được trải nhựa. Càng ngày trung tâm nghỉ mát Đồ Sơn càng được nhiều người biết và lui tới. Đường vào thuận lợi, cảnh trí như tranh, sự đón chào niềm nở, khí hậu trong lành là những yếu tố khiến Đồ Sơn được mọi người tán thưởng. Hàng năm từ tháng 5 tới tháng 10, Bãi Lớn, vịnh Clateau, vịnh Hoa tiêu (Bai des Pilotes), vịnh Pagodon rất nhộn nhịp. Một trăm năm mươi biệt thự, ba khách sạn, nhiều hàng ăn không đủ phục vụ khách đi nghỉ hè.

Bán đảo Đồ Sơn hoàn toàn xứng đáng với sự ưu ái của Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Là vọng gác của đất liền vươn ra biển, dãy núi liên tục được gió biển mang lại sự trong mát và lành mạnh. Đồ Sơn không chỉ thu được những thành quả to lớn vào mùa nóng nực mà sự duyên dáng lôi cuốn của nó còn sinh động hơn vào mùa xuân và mùa thu. Vào hai mùa này, sự biến mất của cái nóng cho phép người ta đi dạo trên những đoạn đường dài hay đua thuyền ra Hon - dau (Hòn Dáu) và những ngày chủ nhật thị trấn nhỏ nhộn nhịp trong vài giờ.

Dân cư Đồ Sơn đa phần là dân các làng chài nằm bên bờ biển lô nhô đá. Cho tới thời gian gần đây, người châu Âu không nhiều nhưng hiện nay số người châu Âu tăng đáng kể do nhiều gia đình ở Hải Phòng chạy ra để tránh bom.

Nghị định ngày 18-5-1909 của Toàn quyền Klobukowski nâng Đồ Sơn lên thành đô thị.

Năm 1911, lãnh thổ của đô thị này được chia thành ba khu và được xác định rõ vào năm 1929. Sự phê chuẩn được thực hiện vào năm 1933 và việc đăng ký nhà đất được thực hiện bằng nghị định 27-5-1940. Ngày 31-12-1921, thị trấn được coi như ngoại ô và đặt dưới quyền thị trưởng Hải Phòng. Nghị định 29-2-1924 của toàn quyền Đông Dương lại đặt Đồ Sơn thuộc vào tỉnh Kiến An.

Thời gian gần đây, các công trình đô thị được đẩy mạnh: hai con đường, một nối biệt thự của Trú sứ với Nhà Thanh Niên, một chạy men theo bờ biển có biệt thự Saint Mathurin tới tận khu quân sự, một sân thể thao cạnh đồn binh, một chợ và một bò sát sinh phù hợp với quy mô của thị trấn, sẽ xem xét lại quy hoạch của các làng cá, trong đó mỗi nhà từ nay trở đi sẽ có vườn rau.

Câu lạc bộ Hàng hải Đồ Sơn có một cơ sở khá duyên dáng. Thuyền đơn, ván lướt, thuyền máy phao hơi là những thứ gây hứng thú cho các nhà thể thao trong mùa nghỉ hè. Hàng năm, các cuộc đua thuyền thu được những thành công và lôi cuốn tới bãi những người nhiệt tình với thuyền buồm.

Cuối cùng chúng tôi xin nhấn mạnh là các cầu nổi của câu lạc bộ bị cơn bão ngày 11-11-1942 phá hủy đang được gia cố và nối dài từ ngày 19-6-1943. Công trình được thực hiện. dưới sự hướng dẫn của Cục Hàng hải Cảng Hải Phòng và cho ra đời hai chiếc cầu tàu vững vàng ngay cả khi thời tiết xấu.

Sự quan tâm của Đô đốc Jean Decoux trong việc làm đẹp khu nghỉ mát là một đảm bảo vững chắc cho sự thành công của các công trình đã thực hiện. Nhưng các quan chức cao cấp của Đông Dương không chỉ chú ý tới những người đi nghỉ hè. Các nỗ lực to lớn đang được thực hiện để giúp ngư dân làng Ngọc Xuyên. Một hợp tác xã vừa được thành lập nhằm mục đích khuyến khích, bảo đảm và tạo thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của các xã viên cũng như chế biến, bảo quản và bán các sản phẩm thô hoặc đã chế biến tới người tiêu dùng.

Trong tình hình khó khăn ngày càng lớn hiện nay, do tình hình chính trị cũng như do thiếu sợi đay để sản xuất và sửa chữa lưới, những tiềm năng vốn có của nghề cá ở Đồ Sơn khó thực hiện được một sản lượng ổn định như các ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, hiện nay ngư dân Đồ Sơn có thể cung cấp mỗi năm từ 80 tới 100 tấn cá, trong đó phần lớn cung cấp cho các tỉnh vùng châu thổ.

Cũng cần phải ghi nhận là mỗi năm Đồ Sơn sản xuất được khoảng 30 tấn mắm tôm đáp ứng được yêu cầu thực phẩm cho dân chúng Hải Phòng và các vùng xung quanh.

Vừa là khu nghỉ mát nổi tiếng vừa là trung tâm đánh cá quan trọng, bán đảo Đồ Sơn giữ một vai trò quan trọng ở Bắc Kỳ. Những kết quả thu được hiện nay về mặt nghỉ mát cũng như về mặt kinh tế cho phép chúng ta tiên báo một tương lai rất thuận lợi của Đồ Sơn.

______________________

trích đọan 1

[1] Trú sứ Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng

Khuyết danh
Số lần đọc: 4010
Ngày đăng: 09.02.2005
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
6 biểu tượng thiên nhiên của Phần Lan - Khuyết danh
Văn Thánh Miếu - Khuyết danh
Nghĩ về ông Phan Thanh Giản - Nguyễn Hữu Hiệp
Thượng Tân Thị (1879-1966), giai tế đất Vĩnh Long - Lê Tương Ứng
Làng Vĩnh Hòa Đông : - Nguyễn Thị Diệp Mai
Danh nhân văn hóa – lịch sử : Trương Vĩnh Ký - Khuyết danh
Tháp cổ Bình Thạnh (Trảng Bàng - Tây Ninh) - Khuyết danh
Nhà công tử Bạc Liêu - Khuyết danh
Văn Thánh miếu Vĩnh Long - Khuyết danh
Trào lưu di dân Nam tiến - Khuyết danh
Cùng một tác giả
Khu di chỉ Óc Eo (khảo cổ)
CHỢ ÂM DƯƠNG - NƠI (dân tộc học)
Chợ Việt Nam (dân tộc học)
Bình thơ : (văn hóa)
Phù điêu (nghệ thuật)
Võ Việt Chung và (thời trang)
Tranh dân gian (hội họa)
Dân ca (dân ca)
Văn Thánh Miếu (lịch sử)
Lý Cái Mơn (ca cổ)
Tranh dân gian (hội họa)
Ngày bình yên (thời trang)
Bàn tay (điêu khắc)
Bên nhau (điêu khắc)
Chim lửa (điêu khắc)
Cô gái vuốt tóc (điêu khắc)
Mối quan hệ (điêu khắc)
Ngọc (điêu khắc)