Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
577
115.981.063
 
Quan Điểm Của Các Nhà Nhân Học Về Vấn Đề Sử Dụng Biểu Tượng
Đinh Hồng Hải

Raymond Firth- Đinh Hồng Hải dịch

 

Lời dẫn: Ý nghĩa của các biểu tượng luôn là một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn các nhà khoa học. Nhưng những tranh cãi đôi khi không có hồi kết về ý nghĩa của chúng đã khiến cho một ngành khoa học độc lập nghiên cứu về biểu tượng dường như chưa thể phát triển. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các biểu tượng bằng sự kết hợp liên ngành: ngôn ngữ học, kí hiệu học, nhân học... đã cho thấy những kết quả khả quan. Nhân học biểu tượng là một trong những hướng nghiên cứu ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XX “liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể”(Raymond Firth). Trên thực tế, nhân học biểu tượng đã kế thừa những nền tảng lý thuyết về kí hiệu học của Ferdinand de Sausure, xã hội học của Emile Durkheim, nhân học cấu trúc của Claude Levi-Strauss,.... Nó tiếp tục được hoàn thiện bởi nhiều nhà nhân học khác như Raymon Firth, Mary Douglass, Victor Turner, Cliford Geertz, David Schneider,... Dưới đây là bản dịch một phần Chương 1 trong cuốn Biểu tượng - Chung và riêng (Symbols: Publish and private) của Raymond Firth, trong tập hợp sách: Biểu tượng, thần thoại và nghi lễ (Symbol, myth, and ritual) do Victor Turner tuyển chọn. Ở đây có những kiến thức căn bản đối với sinh viên, giảng viên và những người đang tìm kiếm tài liệu“nhập môn nhân học biểu tượng.” Hy vọng trong tương lai, những tài liệu này sẽ được chuyển ngữ sang tiếng Việt để tập hợp thành một bộ tài liệu cơ bản phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu.

Đinh Hồng Hải

 

Biểu tượng hóa là một hiện tượng phổ biến trong tiến trình phát triển của loài người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần hiểu nhiều hơn nữa về nó, đặc biệt nhìn nhận nó theo khía cạnh so sánh trong các xã hội khác nhau, các tầng lớp khác nhau, các tôn giáo khác nhau. Thâm nhập vào trong giao tiếp, nó được xem là căn cứ cho việc sử dụng ngôn ngữ, biểu tượng hóa là một phần của cuộc sống chứa đầy trong đó các mối quan hệ xã hội. Văn học phương Tây đã đóng góp một phần thông qua những tài liệu tham khảo, chúng gợi cho chúng ta những câu hỏi về sự tồn tại và nhận dạng các giới hạn của biểu tượng. Trong một bài luận về một nhà thơ, Emerson đã viết về tính phổ biến của ngôn ngữ biểu tượng: “những gì được thừa nhận sử dụng như những biểu tượng là bởi vì chúng vốn đã là một biểu tượng” (kể cả văn hóa) - “chúng ta là những biểu tượng và sống trong thế giới của những biểu tượng”. Trong Sartor Resartus Carlyle tin rằng trong một biểu tượng luôn có cả sự che giấu và sự bộc lộ.

 

Các bản ghi chép của phương đông cũng đưa ra những quan điểm tương tự như  vậy. Có cái gì bày tỏ trong đó khiến chúng ta bị hấp dẫn? Nó là thực hay chỉ là ảo tưởng cá nhân của con người? Và nếu ở đó không có những câu hỏi để các  nhà nhân học trả lời, liệu chúng ta có thể đưa ra chí ít là những bình luận có ý nghĩa dựa trên những cấu trúc diễn giải, các điều kiện bày tỏ của họ, và các ảnh hưởng xã hội của họ?

Trong các nhóm tri thức, tính biểu tượng trong văn học, nghệ thuật và tôn giáo là một chủ đề xuyên suốt các nghiên cứu; các nhà triết học và nhà ngôn ngữ học đã có những nghiên cứu kỹ lưỡng về khái niệm biểu tượng trong những bản tóm tắt đầy ý nghĩa. Tôi sẽ chỉ ra sau đây tại sao tôi lại suy nghĩ và luận bàn về mối quan tâm của các nhà nhân học. Nhưng các nhà nhân học cũng liên quan tới vài hướng mà ở đó thông thường con người nghĩ về các biểu tượng, cư xử bằng các biểu tượng trong cuộc sống thường ngày của họ như các thành viên trong một xã hội, và thể hiện một cách có ý thức những gì họ tạo ra các ý nghĩa biểu tượng.

 

Bản chất của tính biểu tượng nằm trong nhận thức về một cái gì đó thay thế hoặc diễn giải cho một cái khác, mối quan hệ giữa chúng thường là từ cụ thể tới trừu tượng, từ cái đặc thù tới cái chung. Mối quan hệ này cho thấy bản thân biểu tượng đã bộc lộ khả năng cho và nhận mặt khác lưu giữ cho những đối tượng mà nó đã đề cập đến - và những ảnh hưởng đó thông thường mang tính cảm xúc cao hơn.

 

NHẬN THỨC PHỔ BIẾN VỀ CÁC BIỂU TƯỢNG

 

Ngày nay, những gì nổi bật trong bối cảnh xã hội đương thời, được lưu hành rộng rãi theo quan điểm về tính tượng trưng, và công khai, thường đươc sử dụng như một biểu tượng để mô tả về những đồ vật, những con người, những hành động, những mối quan hệ về các mối quan tâm của công chúng*. Đặc biệt trong một vài năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa ra nhiều ví dụ. Tôi xin nhặt ngẫu nhiên ở đây một vài trong số đó.

 

Nhiều quốc gia sử dụng những sản phẩm của riêng họ để làm vật biểu tượng. Vì vậy, có thể thấy rằng trong những năm đầu của thế kỷ này, than bùn, khoai tây và vồ đập đá của các mục sư trong giáo phận có nghĩa là Ai-len, và rằng chúng “vẫn là những biểu tượng có giá trị”. Nhưng một vài sản phẩm quốc gia đã trở thành biểu tượng của một số tổ chức quốc tế bởi vì nét đặc biệt của sản phẩm đó. Ví dụ một loài động vật của Trung Quốc, gấu trúc khổng lồ quý hiếm (panda), đã được lấy làm biểu tượng của Quỹ động vật hoang dã thế giới, và hình ảnh của nó đã được chạm nổi trên thẻ bảo đảm của những người buôn bán lông thú cam kết không sử dụng da của những loài có nguy cơ tuyệt chủng. Trong lĩnh vực chính trị-xã hội, quân đội quốc gia lập căn cứ quân sự ở nước ngoài, luôn được xem là “một biểu tượng của sự lãnh đạo thế giới.” Các cuộc gặp gỡ của lãnh đạo các quốc gia được cho là sẽ trở nên có chất lượng vượt trội nhân một dịp đặc biệt nào đó. Quan điểm cá nhân của Tổng thống Pháp và thủ tướng Anh có thể trao đổi về Thị trường chung châu Âu, được cho là để đáp ứng tương lai của lịch sử châu Âu như là “điểm rẽ mang tính biểu tượng” trong thế kỷ XX. Hành trình của Tổng thống Nixon tới Alaska để chào đón Thiên hoàng Nhật Bản - đi 4000 dặm cho một cuộc nói chuyện chỉ kéo dài 50 phút - cuối năm 1971 được xem như “một hành động biểu tượng mang tính cốt lõi”, cuộc gặp này được hy vọng có thể giảm nhẹ sự căng thẳng trong mối quan hệ Nhật-Mỹ; cuộc gặp đóng góp “tầm quan trọng mang tính biểu tượng to lớn.” Chuyến thăm của tổng thống tới Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được một phần tư người dân Mỹ quan tâm chú ý như “một động thái ngoại giao biểu tượng”- ở đó thực tế chuyến đi của tổng thổng tới Bắc Kinh sẽ đóng góp tầm quan trọng về ngoại giao hơn bất kỳ một sự đồng thuận nào, chuyến đi có thể đạt được khi tổng thống tới đó. Nhưng từ khi chuyến đi “mang tầm quan trọng có tính biểu  tượng,” được nhận ra rằng nó có thể biểu tượng hóa cho những thứ khác ở các thủ đô châu Á, và nó được diễn giải cả ở Tokyo và Bắc Kinh.

 

Trong cuộc đối thoại giữa Bắc Kinh và Washington một cuộc bóng bàn “được tạo ra như một biểu tượng” cho những trao đổi “của nhân dân hai nước.” Sẽ có một sự vô tư nếu hành động hiềm thù của những lính trẻ người Do Thái giải thoát những con ếch và con chuột trong các trung tâm thương mại Xô Viết ở New York trong suốt tuần lễ Passover (một nghi lễ của người Do Thái -ND) như là một phần nỗ lực giành được tự do cho những người Do Thái ở Liên bang Xô Viết rời đến Isarel được miêu tả như một sự quấy nhiễu của các “tai họa biểu tượng”. (Điều này được cho là tương ứng với sự tính toán trong kinh thánh về những nỗ lực của Chúa để giải phóng cho những người Do Thái bởi những người Ai Cập). Và theo lời kể trong Psalm 83, trong tang lễ của một người Do Thái hy sinh trong chiến tranh được mô tả như “một ý nghĩa biểu tượng có liên quan tới sự đàn áp văn hóa của người Do Thái và quyền lợi tinh thần ở Liên bang Xô Viết”. Ở một phương diện khác, khi Thống đốc bang Illinois ngồi trong văn phòng của ông ta lúc nửa đêm cùng với các sỹ quan phụ tá để thách thức một quả bom đe dọa, ông ta giải thích rằng đó là “một hành động biểu tượng - chúng ta đang cố gắng nói một vài điều gì đó tới một số người những kẻ kêu gọi và đang cố gắng hăm dọa chính quyền.”

 

Giới trí thức có thể dễ dàng đồng ý với tổng thống Columbia rằng trường đại học là “biểu tượng và là đại diện của một xã hội rộng lớn hơn” và như vậy nó nên được phê bình công khai, rằng “những công kích điển hình không văn minh” không làm cho nó bị sụp đổ mà còn là sự cải tổ. Một ghi chú mỉa mai hơn đã lộ ra trong sự mô tả về thư viện khổng lồ Lyndon Baines Johnson ở Đại học Texas. “Kiến trúc cũng như nghệ thuật và biểu tượng là một trong những trò chơi cổ nhất của nền văn minh” và kiến trúc của công trình kỷ niệm vĩ đại này đã “tạo ra một sự thể hiện tuyệt vời những thành tựu của chính họ tạo nên hiệu quả đáng kinh ngạc về biểu tượng và mỹ học”. Trong các hoạt động phát triển của xã hội loài người nhát thọc mạnh của một chiếc xẻng vào lòng trái đất “trong một nghi lễ biểu tượng” bởi một người Anh-điêng trong trang phục áo khoác bằng da hoẵng và đội trên đầu chiếc mũ gắn lông vũ đại bàng đã đánh dấu sự bắt đầu của một mô hình kiếm tiền mới của thổ dân - từ những trung tâm hội nghị khách sạn, cùng với mặt đất hiện tại bị đe doạ san phẳng bởi những chiếc máy ủi. Trái lại, khách sạn cổ kính đồ sộ Mississipi Gulf Coast đã bị phá hủy để làm đường cho một cửa hàng và trung tâm mua sắm được mô tả như “một biểu tượng của ngày mới”. Khái niệm hóa về biến đổi xã hội đã đưa đến một hình mẫu quan niệm rằng người dân chống lại sự hợp pháp hóa cây thuốc lá được xem như “như một thanh chắn biểu tượng với sự huỷ hoại văn hóa” bởi những áp lực khó tránh. Một hình mẫu khác là khi các nhà đấu tranh bình quyền ở Mỹ tranh luận về việc yêu cầu  một người phụ nữ chỉ rõ vị thế hôn nhân của cô ấy bằng tiền tố Miss hoặc Mrs, điều đó là thể hiện sự phân biệt và rằng nó nên được thay thế bằng Ms - “Ms thực sự chỉ là một biểu tượng - một kí hiệu - nhưng nó quan trọng đối với nhiều phụ nữ.”

 

Một loạt những đồ vật và hành động đã được viện dẫn như những biểu tượng - từ bóng bàn tới gấu trúc, từ thọc xẻng vào trái đất tới sự ngăn cấm cây thuốc lá - cho thấy rằng bản thân chúng không mang ý nghĩa căn bản và rằng chìa khóa để hiểu các giá trị biểu tượng của chúng nằm trong bối cảnh mà ở đó chúng được quy kết hoặc là một phần trong đó. Đó không phải là bản chất tự nhiên đặc thù của chúng mà là những mối quan hệ của chúng để đánh giá sự lựa chọn như là những biểu tượng. Đồng thời, người ta không thể phủ nhận hoàn toàn đặc điểm của một vật thể được sử dụng như một biểu tượng (ví dụ như tóc, máu), vì một vài loại đồ vật có xu hướng đại diện cho một số mối quan hệ đương nhiên được đưa ra trong các tình huống.

 

Đây có lẽ là một trường hợp khá đặc biệt khi một vật được đề cập đến như đang sở hữu một ít quyền tự trị, một ít tự do trong hành động bản thân, và vì vậy được công nhận rằng với những giá trị tự thân được cho là phù hợp với hoàn cảnh. Vì vậy, nó là một phần của thành ngữ phổ biến hiện đại rằng con người có thể dễ dàng trở thành  những biểu tượng. Một mục sư được cho là có “một vai trò biểu tượng như là một ‘dấu hiệu’ của nhà thờ”. Một giáo sĩ cống hiến có một lương tâm vì xã hội - chẳng hạn như như cuộc tranh luận về vị tổng giám mục người Braxin Dom Helder - được những người bạn và những người ngưỡng mộ ông ta mô tả như một vị thánh, hoặc “chí ít cũng là một nhân vật biểu tượng” người có những lời tuyên bố dũng cảm ở trong và ngoài nước để kêu gọi chú ý tới những người có hoàn cảnh khốn khổ ở đất nước của ông ta. Cardinal Mindszenty của Hungary người có 15 năm ẩn dật  trong sự phản đối chống lại chính quyền được xem như là “một biểu tượng về sự kháng cự cứng rắn của thời đại chiến tranh lạnh”. Mô tả về các thủ lĩnh chính trị giống như các biểu tượng cũng rất phổ biến. P.C.Lloyd đã chỉ ra trong tài liệu tham khảo về các xã hội châu Phi mà ở đó những biểu tượng hiện đại về sự thống nhất quốc gia có xu hướng là những cá nhân hơn là những khách thể hoặc tư tưởng (1967, 316). Một trong những người theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, người bác bỏ kịch liệt bất kỳ ý tưởng nào về sự hòa giải với những người theo chủ nghĩa cộng sản, được “biểu tượng hóa” Tưởng Giới Thạch; Lon Nol của Campuchia được mô tả như “một biểu tượng về một thủ tướng hoàn toàn trong sạch” sau một tai hoạ gần như không thể tránh khỏi làm ông ta chết đứng; Sheikh Mujihurb Rahman, thuộc Đông Pakistan (nay là Bangladesh), là “một biểu tượng kháng cự của người Bengal.” Nhưng hiện tượng tương tự đã công nhận sự đi xuống trong nấc thang chính trị. Ernest Bevin, người lãnh đạo công đoàn Anh quốc, là “biểu tượng công nghiệp trong bước chuyển của tầng lớp lao động” và khi ông ta trở thành Bộ trưởng ngoại giao “vai trò của ông ta trong việc thành lập NATO và bác bỏ kế hoạch Schumann của Hiệp hội Than đá và Thép đã trở thành biểu tượng”. Khi cựu thủ tướng David Ben-Gurion tham dự hội nghị đảng lao động Israel vào năm 1971, sự có mặt của ông “được biểu tượng hóa như là sự thiết lập lại quan hệ hữu nghị của ông với giới lãnh đạo của đảng” sau hơn một thập niên tranh cãi về tư tưởng của đảng này. Charles Ever, thị trưởng người da đen của Fayette, Mississipi, với những người bạn của ông “không phải là một người bình thường hoặc là một thị trưởng tép riu mà là một biểu tượng quý giá - một anh hùng về sự phục hưng chính trị của những người da đen ở miền Nam”. Adam Clayton Powell, “người da đen” đầu tiên đến từ khu vực miền đông tới làm việc trong Quốc hội Mỹ, trong một thời gian dài “là một biểu tượng thành công của người da đen”. Tiến sĩ Eric William, Thủ tướng đầu tiên của Trinidad-tobago thăng tiến trong ngọn lửa đấu tranh của những người da đen địa phương, “từng là biểu tượng của những người da đen” khi đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân Anh. Và trong lĩnh vực kinh tế, một nhà tư bản công nghiệp Scotland, người đã quan tâm tới việc mua xưởng đóng tàu đang bị phá sản Clydebank, “đã nổi lên từ chỗ không có tên tuổi gì trở thành biểu tượng hy vọng cho hàng nghìn công nhân đóng tàu ở Clydeside”.

 

Một ví dụ tiêu biểu về sự hợp nhất rõ ràng của khái niệm biểu tượng trong mối quan hệ của một người với một thực thể trừu tượng đó chính là Thiên hoàng Hirohito của Nhật Bản. Trước khi xảy ra thất bại của Nhật Bản ở cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, Thiên hoàng thường được xem như một vị thánh thiêng liêng, người nối dõi trực tiếp của Nữ thần Mặt trời. Được phong thần và được tôn kính công khai trong nhiều năm liền, trong lời công bố của Thiên hoàng vào tháng 1 năm 1946 ông đã không thừa nhận quan niệm thần thánh của mình “được dựa trên ý tưởng hư cấu cho rằng Thiên hoàng hiển nhiên là một vị thần”- và đã trở thành “Biểu tượng quốc gia và sự thống nhất của nhân dân.” Bằng hành động này, Thiên hoàng đã biến chính bản thân ông từ huyền thoại thành thế tục, từ một vị thần trở thành một con người bình thường. Trong vai trò của mình khi là một biểu tượng quốc gia, sự xuất hiện của ông sẽ dễ dàng được phần đông những người Nhật chấp nhận, và ông ta dường như có thể thi hành được phần lớn các chính sách khi có được sự ảnh hưởng khôn khéo lên các quyết định chính trị được đưa ra bởi chính phủ. Một con người trong vai trò một biểu tượng chính trị có thể có những chức năng cả tích cực lẫn bị động*.

 

Những quan điểm phổ biến hiện nay về luật pháp và đạo đức cũng rất phong phú trong việc thừa nhận con người như là các biểu tượng. Có thể nói rằng những công dân Mỹ không chịu ảnh hưởng nền tảng quân chủ hay được thiết lập bởi nhà thờ, Tòa án Tối cao đã biểu tượng hóa bộ máy tư pháp, và tiến gần tới mức độ của một thể chế bất khả xâm phạm. Người ta cũng cho rằng J.Edgar Hoover, lãnh đạo Cục điều tra Liên bang (FBI) trong một thời gian dài, đã trở thành “biểu tượng của sự đấu tranh chống lại cái ác.” Ở một thời điểm khác, cựu lãnh đạo Black Panther đã bị buộc tội tấn công cảnh sát và bị cầm tù với khoản bảo lãnh rất cao nắm giữ bởi những thành viên trong cộng đồng địa phương của ông, đã trở thành “một nạn nhân biểu tượng về sự tù tội quá đáng” tương tự như một sự giam giữ có tính phòng ngừa. Cũng giống như vậy, một Nhân viên quân lực bị kết án tù vì tội sát hại một tù nhân địa phương trong cuộc tàn sát Mỹ Lai và trường hợp này được nhiều người xem như là “một biểu tượng cho tất cả những sai trái trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam.” Trong một xung đột phổ biến qua những gì khác nhau được đề cập như một sự ép buộc hoặc giá trị của những quy tắc đã được thiết lập, trưởng nhóm nhạc Rock Rolling Stones, Mick Jagger, đến với nhiều người như “để biểu tượng hóa và tiêu biểu cho toàn bộ các thế hệ nổi loạn nói chung với việc hướng tới thuốc phiện, tự do đạo đức”. Và một hình mẫu gần đây về khả năng lực chọn một ứng viên người da đen vào chức phó tổng thổng của Mỹ, cuộc bầu cử năm 1972 đã để lại dấu ấn mạnh mẽ về giá trị đạo đức của hành động mang tính biểu tượng. Người ta tranh luận rằng ứng viên người da đen vào chức phó tổng thống sẽ có “một tác động ghê gớm mang tính biểu tượng đối với mối quan hệ sắc tộc ở Mỹ.” Con người không chỉ sống với biểu tượng, nhưng con người còn sắp đặt và bộc lộ bản chất thông qua chính những biểu tượng của anh ta, và thậm chí cấu trúc lại nó. Một người da đen ôn hòa chạy đua vào chức phó tổng thống sẽ “là một biểu tượng vô cùng mạnh mẽ về khả năng đạt được sự công bằng về mặt sắc tộc và sự hòa hợp trong xã hội Mỹ.” Biểu tượng bản thân nó không tạo ra sự công bằng hay sự hòa hợp, nhưng nó có thể tạo ra một bầu không khí mà ở đó họ trở nên dễ thở hơn. Vì vậy một ứng cử viên phó tổng thống da đen trong liên danh tranh cử với tên gọi hòa giải và tiến bộ xã hội sẽ giống như “đào được nguồn nước lành trong hệ thống biểu tượng chính trị Mỹ”.

 

Rất nhiều những ví dụ như vậy,* đã được chọn lọc chỉ từ một vài nguồn báo chí trong một số giai đoạn nhất định, minh họa phạm vi mở rộng khái niệm biểu tượng đã thấm nhuần thành suy nghĩ phổ biến. Có rất ít những thắc mắc theo sau như một chuyên gia luật người Mỹ, Steward Alsop, người phê bình về những khuynh hướng chính trị của các đảng hiện đại, đã viết về những gì mà ông gọi là “suy nghĩ biểu tượng.” Các thành viên của một đảng “không phải suy nghĩ về những chính sách sẽ ban hành hoặc tranh cãi về chúng. Thay vào đó, họ phản ứng với các biểu tượng.” Những người không phản ứng theo cách này đối với các biểu tượng tương tự sẽ “không thực sự” là các thành viên trong đảng và vì vậy họ đáng bị đẩy xuống địa ngục*. Trái lại các đảng viên đảng Cộng hòa trước đây “những người có suy nghĩ biểu tượng” chống đối mạnh mẽ với chính phủ một khi được sử dụng sức mạnh, hiện nay họ đã được thay thế bởi đảng Dân chủ “những người có suy nghĩ biểu tượng”…và cứ như vậy (Newsweek, 26/4/1971). Nhận thức xã hội được đề cập bằng một quan điểm được gợi lại từ một phát biểu kinh điển của Emile Durkhiem: “Đây chính là một quy luật nổi tiếng mà ở đó những ẩn ý gợi lên trong chúng ta bởi một vài thứ tự động gán cho chính bản thân chúng bằng những biểu tượng tự thân.” (1926, 219). Những gì đáng kể trong những quan điểm phổ biến hiện đại không phải là sự tự do sử dụng biểu tượng mà là sợ mở rộng cách nhìn nhận việc sử dụng và gọi nó một cách biểu tượng.

 

Thêm một sự công khai sử dụng khái niệm biểu tượng không cần thiết chuyển tải một cách rõ rệt loại quan hệ được xem xét giữa vật biểu tượng và những gì mà nó muốn đại diện. Ý tưởng về biểu tượng tình dục dường như có thể minh họa đủ rõ ràng cho vấn đề trên. Nhưng khi một diễn viên điện ảnh hoặc ca sĩ được ví như một biểu tượng tình dục, điều này vốn thường xuyên xảy ra, thì nó có ý nghĩa gì? Một hình ảnh thu nhỏ của những suy nghĩ và ham muốn tình dục, được minh họa một cách sinh động trong một con người cụ thể và điều này liên tưởng đến khiêu dâm một cách tế nhị - hoặc hiển nhiên - kết hợp với hình ảnh và động tác? Vâng, nhưng trong mọi chuẩn mực: một biểu tượng tình dục chỉ dành cho một giới nhất định - nam giới cho nữ giới, nữ giới cho nam giới; chỉ với một số người – còn đa số thờ ơ, ngoại trừ những câu hỏi phức tạp từ những người bác bỏ biểu tượng luận một cách tức giận. Và ngoại trừ các giá trị về thể chất, có vẻ như nếu một người thường xuyên được tôn vinh sự hấp dẫn của bản thân một cách mơ hồ cả tinh thần cũng như thể chất, để cho biểu tượng tình dục không chỉ thể hiện hoặc gợi ra sự tiếp xúc xác thịt, mà còn ngụ ý thêm về cảm xúc, thậm chí là có phần thanh tao. Có lẽ đó cũng là một trong những lý do khiến Marilyn Monroe, được phong danh hiệu là một biểu tượng tình dục vĩ đại nhất trong thời đại của cô ấy, có những lời bình luận rằng biểu tượng về cô ấy là “những gì được va đụng cùng nhau.” Dưới sự dí dỏm của cô ấy, rất có thể, là những cách nhìn mơ hồ là thế nào mà có những biểu tượng như vậy. Những phức tạp trong khái niệm này nằm ở chỗ sự phản đối đàn bà, thể hiện ở sự phân biệt đối xử với những gì phụ nữ được giáo dục, thông qua hình ảnh những ông chủ với “biểu tượng hội chứng tình dục thư ký” (Time Magazine, 6 December,1971).

 

Một biểu tượng đại diện cho một cái gì khác nó - nhưng ở đây có rất nhiều mức độ ý nghĩa có liên quan. Chuyến thăm của tổng thống Nixon tới Alaska để gặp Thiên hoàng Nhật Bản được coi như là một hành động mang tính biểu tượng bởi vì nó được coi như không có sự tìm kiếm mục tiêu cụ thể - không có sự sắp đặt trước, không có câu hỏi nào cần phải giải quyết, không có hiệp ước nào được ký kết, những điều đòi hỏi sự có mặt của ông. Động tác thực hiện chuyến đi với khoảng cách dài như vậy có lẽ ngụ ý cho dấu hiệu về tình hữu nghị đã có hoặc được hy vọng sẽ tồn tại giữa lãnh đạo hai nước. Thực vậy, nó được bắt đầu với mục đích rõ ràng của tổng thống là để biểu lộ tình cảm mà trong thời gian qua đang có xu hướng mất dần trong các cuộc thảo luận về quan hệ kinh tế giữa Mỹ với Nhật, và rằng liên minh bền vững với Nhật có liên quan mạnh mẽ tới chính sách của Mỹ ở Châu Á. Nó cũng được bắt đầu rằng ông có ý muốn chỉ ra một đối trọng biểu tượng trong lần đàm phán hữu nghị với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đó là còn chưa kể đến quan điểm của một tác giả cho rằng trong khi cả hai người đàn ông và hai chính phủ trên đều “kịp thời nắm bắt được chủ nghĩa biểu tượng cơ hội”, “chủ nghĩa biểu tượng đã thuộc về quá khứ” (Max Frank, New York Times, 28/9/1971).

 

Theo cách nhìn nhận này, ở đây có một sự cân nhắc đáng kể giữa các quan chức của cả hai bên ẩn đằng sau vẻ bề ngoài lịch sự, vì vậy nghi thức chào đón mang tính biểu tượng quốc gia đã không được đưa ra như nó vẫn tồn tại trong ngoại giao giữa các quốc gia, nhưng chính điều đã bị bỏ qua đó được hy vọng là sẽ quay trở lại. Đây là một hình ảnh minh họa cho thấy làm thế nào mà một biểu tượng có thể được tách ra từ thực tế hiện tại và đã thay thế cho một thực tế trong quá khứ  hoặc sự ngẫu nhiên trong tương lai. Hoặc đặt nó trong một cách thức khác, những gì đang được “tuyên bố” thông qua các hành vi biểu tượng lại nằm trong sự ảnh hưởng của nó: hành động chào đón này không biểu lộ thực sự những gì các nhà lãnh đạo - hoặc các quan chức và người dân hai bên - đang nghĩ, nhưng phía đối nghịch của chúng ta đang cảm nhận, hoặc một diện mạo thứ yếu chứ không phải là một khía cạnh quan trọng. Ý nghĩa của một biểu tượng sau đó có thể là một hành vi mà, nếu nó vô nghĩa, chí ít sẽ là phản tác dụng đối với các mối quan hệ quốc gia. Nghĩa rộng của biểu tượng ở đây lại chỉ nằm ở bề ngoài, chứ không phải ở thực tế sâu xa. Hơn thế, Thiên Hoàng Nhật Bản là một bảo chứng hoàng gia về biểu tượng quốc gia. Vì vậy “sự dừng chân biểu tượng” của ông dành cho cuộc gặp gỡ có thể được miêu tả như một hành vi biểu tượng của một người vốn đã là một biểu tượng - một loại biểu tượng của sức mạnh thứ hai.

 

Quan điểm cho rằng “biểu tượng” chỉ tương tự như những thứ “phi thực tế” được dẫn ra bởi một ví dụ khác - mặc dù nó cũng đặt ra câu hỏi liệu rằng trong việc sử dụng phổ biến giới hạn “biểu tượng” thường không dễ bị dùng sai. Như một phần của sự cố gắng để giúp kiểm soát việc buôn lậu những bức tranh cổ ra khỏi nước Ý, các nhà chức trách thuế quan Hoa Kỳ năm 1971 cho phép “bắt giữ mang tính biểu tượng” với tên gọi Boston Raphael, về tính xác thực của nó các chuyên gia giám định vẫn còn mâu thuẫn (Tạp chí Times, 6/3/1971; New York Times, 11/9/1971). Việc sử dụng thuật ngữ “mang tính biểu tượng” là gì trong bối cảnh này? Điều gì đã thực sự xảy ra dưới vẻ bề ngoài của việc các nhà chức trách thuế quan chịu trách nhiệm với những bức tranh và cho phép nó được gỡ ra từ bức tường của Bảo tàng Mỹ thuật Boston, nơi nó được treo lên để triển lãm cho công chúng, tới kho của bảo tàng. Ở đó nó vẫn còn dấu hải quan, dựa trên yêu sách cho rằng nó đã có thể bị buôn lậu trong nước mà không có phép. Ý nghĩa biểu tượng ở đây là gì? Các nhân viên thuế quan trên thực tế có thể đã không chạm tay lên các bức tranh, và vì vậy không thực sự “bắt giữ” nó; hành động của họ có thể vì vậy mà đã được mô tả như một sự bắt giữ ẩn dụ; bằng cách này họ đã giành được quyền kiểm soát bức tranh mà không cần nắm giữ nó. Được mô tả hợp thức như “biểu tượng” trong những giới hạn thông thường, nó có thể dẫn đến tranh cãi rằng một hành động của sự chiếm đoạt nên được diễn giải bằng những cái khác, chứ không phải một hành động khác thể hiện sự bắt giữ. Cụm từ “bắt giữ mang tính biểu tượng”đương nhiên chỉ là một phát minh của báo chí. Nhưng từ quan điểm của công chúng khi nhìn nhận về nó có thể cho rằng “bắt giữ” thực sự chỉ là tượng trưng chứ ở đó không có ý định tóm lấy bức tranh nổi tiếng kia. Hành động này có thể có ý nghĩa như một sự ngăm cấm của các nhà chức trách thuế quan (hoặc cơ quan chính quyền nào đó) trong việc phát triển các bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật từ các tác phẩm của nước ngoài bỏ qua những quy định về các loại giấy phép thích hợp – nói cách khác, là buôn lậu những thứ có giá trị.

 

Trong một ví dụ khác, tính đa nghĩa của biểu tượng luận được thể hiện rõ rệt hơn trên nhiều chứng cứ. Khi những cuộc bầu cử dân chủ được đưa ra sau chiến tranh ở một vài quốc gia có trình độ dân trí thấp, những biểu hiệu bằng tranh ảnh thường được sử dụng để giới thiệu về các chính đảng khác nhau trong quá trình vận động tranh cử. Năm 1969, đảng Quốc đại Ấn Độ bị chia tách thành 2 phe đối nghịch, và một cuộc chiến hợp lệ kéo dài đã diễn ra để quyết định xem phe nào được dùng “biểu tượng cũ của đảng, hình ảnh hai con bò lồng ách”. Vấn đề này được xem là rất quan trọng vì có rất nhiều cử tri là những người mù chữ sẽ nhận ra và bầu trước hết cho biểu tượng hơn là cho đảng được đại diện (Times, 14/1/1971). Và cho đến khi Tòa án Tối cao từ chối không trao biểu tượng hai con bò bị lồng ách cho phe nào, đảng của bà Gandhi đòi chọn một biểu tượng về hình ảnh bà mẹ và đứa trẻ - nhưng trong sự kiện quan trọng này họ đã sử dụng hình ảnh con bò và con bê. Một vài đảng khác để hướng tới cuộc bầu cử đã sử dụng những phương sách tương tự để gợi tới hoạt động của nông dân - cái liềm và bông lúa; người phụ nữ bên khung xe sợi; chiếc đèn dầu (Neville Maxwell, New Society, 4/3/1971). Hình hoạ về những thứ này được mô tả như những biểu tượng của các chính đảng. Tới lúc đó, các bức vẽ được quy ước hóa như sự tượng trưng của con bò, hạt lúa,v.v... như những tín hiệu của họ. Có thể nói rằng phác họa của những thiết kế này chính là “những biểu tượng” của nhiều đảng chính trị khác nhau, chừng như nó có ý nghĩa rằng họ muốn gợi lên suy nghĩ từ các lãnh đạo đảng, các đảng viên, và toàn thể cử tri bản chất của mỗi đảng chính là thực thể chính trị của họ, những ý tưởng của họ, và chương trình hành động của họ. Cũng có thể, sự lựa chọn những biểu tượng “mang tính tự nhiên” giống như những con bò đực, bò cái và con bê, người mẹ và đứa con, hạt lúa, khung xe sợi, đèn dầu, đều có nghĩa để gợi tới tầm quan trọng của cử tri mà ở đó có sự kết nối giữa các đảng và sự quan tâm của họ tới cuộc sống của người dân sẽ được thể hiện.

 

Với ngụ ý đối với cuộc chiến hợp lệ về ách bò kể trên, có thể thấy những giá trị, bao gồm cả uy tín, đã được đính kèm vào những biểu tượng này. Nhưng những gì mà các khẩu hiệu thực sự biểu tượng hóa đối với các cử tri vẫn còn là cái gì đó rất mờ mịt. Liệu có phải họ đã kết nối hình ảnh những con bò đực với đảng Quốc đại truyền thống một cách thường xuyên đến mức người ta sẽ bầu cho những con bò đực với suy nghĩ rằng họ vẫn đang bầu cho chính đảng đó? Liệu họ có nhận ra rằng hình ảnh những con bò đực không còn đại diện cho đảng nhưng vẫn bầu cho khẩu hiệu dựa trên nền tảng rằng những người đã sử dụng hình ảnh con bò đực tự động sử dụng các chính sách đã được cử tri thông qua - rằng chính sách đi cùng với biểu hiệu, chứ không phải với chính đảng mà ở đó nó có thể thay đổi biểu hiệu? Hoặc có phải những cử tri không băn khoăn về những vấn đề này, nhưng đơn giản là bầu cho khẩu hiệu mà họ ngưỡng mộ hơn là trên những nền chữ nghĩa - và rằng họ thích hình ảnh từ những con bò đực tới hình ảnh bò cái hay bê, hoặc họ thích sự bộc lộ tình cảm của khẩu hiệu về hình ảnh một người mẹ và đứa con? Cuối cùng thì điều đó không nằm trong tất cả các câu hỏi trên mà được minh hoạ bởi lời bình luận của một người phụ nữ mù chữ Kelantan Malay với một nhà nhân học khi được đối chất với chính đảng địa phương về các biểu tượng của một bó lúa, một chiếc thuyền đánh cá dưới cánh buồm, một ngôi sao và trăng lưỡi liềm. Cô nói rằng cô sẽ bầu cho hình ảnh bó lúa bởi vì với cô lúa gạo là liên quan đến phụ nữ trái lại chiếc thuyền đánh cá liên quan đến công việc của đàn ông, và các thiên thể thì ở rất xa. Vì vậy để miêu tả các khẩu hiệu chính trị như “những biểu tượng” của các chính đảng thì phải phớt lờ đi một sự khác biệt có thể xảy ra ở trình độ của lời phát biểu - trong tính mộc mạc hồn nhiên hoặc tính thẳng thắn đối nghịch với tính phức tạp hoặc không thẳng thắn của sự diễn giải. Nói một cách khác - những sự kết hợp của các khẩu hiệu chính trị có thể bị điều chỉnh bởi một số người thuộc nhóm nông dân hoặc nội trợ, không phải là khẩu hiệu chính trị được phổ biến rộng như ý muốn.

                                                                                              

TIẾP CẬN NHÂN HỌC ĐỐI VỚI BIỂU TƯỢNG LUẬN

 

Tôi đã chỉ ra sự tồn tại ở một phạm vi rất rộng của thực thể mang tính biểu tượng - những thứ được gọi là biểu tượng và những ý tưởng về các biểu tượng - trong bối cảnh xã hội hiện tại tất cả chúng ta đều chuyển động. Tôi cũng đã đưa ra đề nghị rằng các thực thể có thể thích hợp với bất kỳ một nghiên cứu nhân học biểu tượng thông thường nào bởi vì những vấn đề để xác định và tưởng tượng về nó vẫn đang tiếp tục tăng lên.

 

Vậy đóng góp cụ thể của nhân học trong việc tìm hiểu biểu tượng luận là gì? Một nhà nhân học có thể làm gì để không giống với những gì mà nhà logic học, nhà siêu hình học, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học, nhà thần học, nhà lịch sử nghệ thuật và những người khác nữa đã làm? Về bản chất như tôi nhận thấy, cách tiếp cận theo hướng nhân học mang tính so sánh, quan sát, chức năng luận, trung lập tương đối. Nó liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể. Vượt qua phạm vi rộng lớn của những trường hợp cụ thể, các nhà nhân học đã quan sát xem những biểu tượng gì được con người sử dụng thực sự, họ nói gì về những biểu tượng ấy, trong tình huống nào những biểu tượng sẽ bộc lộ ra và sự phản ứng với chúng. Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ đang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội. Victor Turner đã chỉ ra ở một trong những nghiên cứu của ông – góp một phần quan trọng trong những hướng phát triển mới - đó chính là một minh chứng của việc sử dụng nghi lễ và biểu tượng như một chìa khóa để tìm hiểu cấu trúc xã hội và tiến trình xã hội. Những người khác đã kiểm tra một cách rõ ràng những hành động mang tính biểu tượng trong các bối cảnh xã hội của họ để làm rõ cách hiểu về hiện tượng thay đổi chính trị hoặc tôn giáo. Nhưng tôi nghĩ rằng nhiều người trong chúng ta có liên quan chủ yếu đến một cách tiếp cận nhân học để nghiên cứu về biểu tượng luận chính là sự cố gắng để níu giữ lấy kinh nghiệm càng nhiều càng tốt dựa trên những vấn đề cơ bản của con người về những gì mà tôi muốn gọi là sự rời rạc - một khoảng cách giữa sự bày tỏ hời hợt công khai của hành động và ý nghĩa ẩn tàng bên trong của nó.  Bề ngoài, một người đang nói hoặc làm gì đó thì những quan sát và suy luận của ta sẽ nói cho ta biết nó không đơn giản như những gì đang diễn ra trước mặt - nó ẩn chứa đằng sau điều gì đó, có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều đối với anh ta.

 

Tôi sẽ đưa ra một minh họa xuất phát từ kinh nghiệm của tôi ở Thái Bình Dương cách đây nhiều năm*. Tôi vẫn nhớ hình ảnh một thủ lĩnh dị giáo Tikopia nhiều lần đứng trong ngôi đền của ông ta và lau chùi cây cột lễ trung tâm của nó bằng những chiếc lá thơm được ngâm trong dầu dừa. Bây giờ bạn có thể bôi dầu lên gỗ để bảo quản nó hoặc bôi lên nó nước đánh bóng, như một kiểu trang trí. Và ở Thái Bình Dương, bạn có thể bôi dầu lên cơ thể bạn và thấm nó với những chiếc lá, khi bạn muốn trang trí cho cơ thể bạn, ví dụ khi tham gia vũ hội. Nhưng khi một thủ lĩnh làm việc chà xát những chiếc lá như vậy anh ta nói rằng: “thân thể của mày đã được tắm trong sức mạnh.” Ngày nay việc lau chùi xà nhà gỗ với một lượng lớn những chiếc lá đã được ngâm dầu không được xem như là một hành động tài trí. Nhưng hãy nghĩ rằng cây cột gỗ như một cơ thể thơm ngát mùi dầu giống như một cách trang điểm cho bà đồng (medium). Không nghĩ quá nhiều về một cơ thể vật chất, mà là một cơ thể vô hình - không cần thiết phải có hình dạng của một cột trụ, nhưng trong một bối cảnh khác, một cơ thể theo thuyết hình nhân, của một linh hồn, được tin là có thể kiểm soát mùa vụ, đánh bắt cá, và sức khỏe của con người. Nghĩ quá về việc tắm rửa như lau chùi, và lau chùi như một khởi đầu của việc trang trí, và trang trí mang lại sự dễ chịu cho một ai đó cũng như cho những người khác. Cho nên bạn có thể xem hành động này tượng trưng cho việc xức dầu lên thân thể của một vị thần với mùi hương thơm ngát để biểu lộ tình trạng những mối quan hệ và tình cảm của việc thờ cúng - và để dâng lên thần thánh lòng thành kính nhiều hơn với những lời thỉnh cầu của những người thủ lễ. Đây dường như là bước đi rất xa của biểu tượng luận. Đó là chưa kể đến việc rửa chân của chúa Giê-su bởi những môn đồ của ngài; việc xức dầu thánh của Giê-su bởi đức Mary của Bethany; giá trị biểu tượng đối với những người theo đạo Cơ-đốc của cây thánh giá, với những gì tương đồng với nó như Cây gỗ, Cây nghi lễ; và cũng nghĩ về khái niệm Bánh thánh (Chap.12), về Cơ thể Thần thánh của đức chúa Giê-su, về Cơ thể Tôn kính của Đức mẹ Đồng trinh. Không khó để nhận thấy rằng những gì chúng ta được thấy trong trường hợp người Tikopia chính là một dạng biểu tượng mặc dù vẻ bề ngoài của nó không giống như của đạo Cơ-đốc, nhưng có chung các dạng thức căn bản về khái niệm hóa biểu tượng và hình mẫu. Nhưng sự sắp xếp mang tính biểu tượng được sắp đặt trong một ma trận của xã hội của thị tộc, thủ lĩnh, các cách thức trang trí thân thể, thậm chí thiết kế kiến trúc đều cần đến sự nghiên cứu sâu về biểu tượng luận để được hiểu một cách đầy đủ.

 

Tiếp cận nhân học, với việc áp dụng một cách đầy đủ, sẽ có mục tiêu riêng của nó để đưa ra một sự mô tả mang tính hệ thống và phân tích một hành động mang tính biểu tượng bằng phương diện ngôn từ và phi ngôn từ của nó; để phân biệt các thành phần có ý nghĩa của hành động nói trên từ những gì ngẫu nhiên; để đánh dấu những thói quen hoặc các yếu tố chuẩn mực ngược lại với những gì thuộc về cá nhân và các phong cách riêng; làm sáng tỏ từ chính người đang thực hiện hành động, những người tham gia và những người không tham gia với những ý nghĩa mà họ đã gắn kèm với hành động; và để đưa tất cả những cái đó vào một khung khái niệm chung, và trong một khung cảnh cụ thể với vị thế và mối quan hệ nhóm của những người liên quan. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi khắt khe. Nhưng nó lại được thực hiện bởi những nhà nhân học đáng ngưỡng mộ - được đề cập đến ở đây như Audrey Richard, Monica Wilson và Victor Turner – tôi sẽ phân tích những nghiên cứu của họ trong các chương sau. Một vài nhà nhân học khác cũng đã có những nghiên cứu về sự thay đổi trong thành ngữ biểu tượng - ví dụ như bản thân tôi đã thực hiện trong nghiên cứu về lĩnh vực tôn giáo của người Tikopia (Firth, 1970a).

 

Nghiên cứu về biểu tượng luận, đặc biệt biểu tượng luận tôn giáo, là chủ đề thu hút nhất hiện nay trong nhân học xã hội. Đây là một xu hướng tìm kiếm trong nghiên cứu này giống như một hướng phát triển hoàn toàn mới, nhưng thực tế như tôi sẽ trình bày cụ thể trong chương 3, sự quan tâm về mặt nhân học đối với các biểu tượng đã được xem xét từ hàng trăm năm nay, trước cả thời của McLenan và Tylor. Có thể nhận thấy một thực tế rằng cho tới tận gần đây lĩnh vực này vẫn rất ít được quan tâm thoả đáng, có hệ thống hoặc được duy trì liên tục, và mối quan tâm hiện tại có phần phức tạp và tinh vi hơn, với việc sử dụng phép phân tích và tập trung ở cường độ cao*. Tôi cho rằng có một vài lý do dẫn đến sự phát triển chậm trễ này. Thứ nhất, do một hệ quả của quá trình thực hiện mang tính chuyên nghiệp, các nghiên cứu mang tính hệ thống về biểu tượng luận đã phải chờ cho tới khi có đánh giá về sự tiến triển được thực hiện những lĩnh vực hợp thức hơn về cấu trúc xã hội, chẳng hạn như thân tộc hay chính trị. Giờ đây đã có khá nhiều nền tảng được đặt ra nên chúng ta có thể dựng nên những cấu trúc cao siêu hơn trong việc diễn giải biểu tượng. Thứ hai, những phát triển về mặt lý thuyết trong giao tiếp và ngữ nghĩa học, về những kí hiệu và hàm nghĩa của chúng, đã tập trung vào sự diễn giải các yêú tố hành vi mà ở đó ý nghĩa của kí hiệu dường như luôn trở nên phức tạp và mờ mịt. Thứ ba, sự gia tăng hệ thống định nghĩa văn hóa trong ý nghĩ và trong quan niệm cũng như quá trình suy nghĩ trở nên phổ biến hơn, điều đó đã kích thích sự quan tâm đối với các lĩnh vực như biểu tượng luận, nơi mà mối quan hệ giữa các thành tố dường như ở trên tất cả các loại khái niệm. Tất cả những thứ đó chỉ là một phần tương đối giản đơn trong chiều sâu học thuật.

 

Tuy nhiên tôi cho rằng còn có hai lý do quan trọng khác. Nó được lưu giữ trong tâm lý phổ biến của thời đại chúng ta của thời chúng ta đã bị cuốn hút với những nghiên cứu chỉ liên quan đến bản thân chúng mà ít đề cập đến khía cạnh hành vi của con người, điều này có xu hướng loại bỏ hoặc phê phán cách tiếp cận của các nhà thực chứng luận, và nó đã làm cho các ý tưởng trở nên tối nghĩa, thiếu chắc chắn, huyền bí. Đây có thể là một phần của sự chống lại hoặc giảm bớt các đòi hỏi cấp bách về sự hợp lý và sự chính xác trong xã hội công nghiệp, xã hội máy móc thống trị của chúng ta. Một lý do khác mang tính cá nhân hơn. Một số nhà nhân học (tôi cho rằng nên có cả bản thân tôi ở đây) đã tìm ra vị trí công việc của họ trong biểu tượng luận như một phương tiện để thẩm định và bắt đầu, có lẽ đang quyết tâm, một vài quan điểm cá nhân của họ về bản chất và những yếu tố quyết định tới các mối quan hệ xã hội và hoạt động của con người. Ở đây tôi có thể nói rằng trong khi tôi đang có ấn tượng mạnh mẽ bởi sự kết hợp tuyệt vời của các nghiên cứu nhân học hiện đại với biểu tượng luận, tôi không thể đưa ra tất cả những viễn cảnh chỉ bằng một vài luận giải nổi bật trong số đó.

 

Nó dường như có ý nghĩa hơn đối với tôi, và để làm phù hợp với thế giới ngày nay, rằng các nhà nhân học nên có gắng làm sáng tỏ ngôn ngữ biểu tượng và hành vi biểu tượng và liên kết chúng trong phạm vi của các hình mẫu xã hội và các giá trị xã hội. Trong đó nghiên cứu về các biểu tượng chính trị là rất quan trọng. Nhưng tôi không cho rằng chỉ những vấn đề này là phù hợp với các mối quan hệ chính trị - trừ phi ai đó hiểu được những gì thuộc về chính trị, giống như một vài đồng nghiệp của tôi đã làm, giống như sự đòi hỏi bất cứ loại quan hệ nào giữa con người với con người mà ở đó quyền lực luôn có sự liên quan, bất kể trên quy mô nào. Các biểu tượng tôn giáo cũng rất quan trọng, nhưng tôi nhìn chúng như một cách để đề cập tới những yêu cầu tương tự của thực tế như một chỗ dựa, được phân loại bởi mức độ quan tâm giành cho chúng, chứ không bởi tính độc nhất của những chủ thể mà họ đề cập. Cho nên trong khi tôi gộp cả biểu tượng chính trị và biểu tượng tôn giáo vào trong sự thẩm định của chính mình ở cuốn sách này tôi đã lấy ra một cách thận trọng trong những chất liệu của cuộc sống đơn giản thường ngày - chẳng hạn như tính biểu tượng trong những cách đội mũ, chào đón và chia tay, trao và nhận quà, hay vẫy những lá cờ. Tôi cũng rất thận trọng khi cố gắng cân nhắc tới khía cạnh riêng và chung trong các hành vi biểu tượng và các khái niệm biểu tượng, bởi vì tôi cho rằng mối quan hệ liên kết giữa chúng thường bị sao lãng, bởi một số nhà nhân học cũng như những sinh viên của các ngành khác khi nghiên cứu về biểu tượng luận. Tôi nghĩ rằng các mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, các biểu tượng xã hội và cá nhân là rất quan trọng để cân nhắc bởi vì chắc chắn ngày nay dường như đang có những xu hướng mạnh mẽ trong xã hội nhằm chối bỏ những biểu tượng truyền thống và hướng tới sự khám phá, thậm chí là phát minh ra những biểu tượng mới - những xu hướng mà ở đó những ý thích và quyết định cá nhân được đưa ra nhằm được thừa nhận là những hình mẫu biểu tượng của cộng đồng.

 

Phổ biến hiện nay, những diễn đạt chưa được phân tích về biểu tượng luận lại gây được sự chú ý đối với một số nhà nhân học bởi vì chúng là một phần nguyên liệu thô dùng trong nghiên cứu so sánh về quá trình suy nghĩ và hành động của con người. Chúng bộc lộ khuynh hướng và kéo dài thêm những rối rắm của con người trong vô số loại tiến trình xã hội, và đặc tính trừu tượng đó lại được áp dụng vào những quá trình nói trên. Nhưng ở mức độ phân tích cao hơn, đặc trưng hoá việc xử lý về biểu tượng luận cũng mang tầm quan trọng về mặt nhân học đối với họ. Rất nhiều nhà triết học, nghệ thuật học, lịch sử nghệ thuật, phê bình văn học, thần học đã viết về biểu tượng luận không phải ngay lập tức đã có sự phù hợp với những nghiên cứu nhân học. Nhưng tôi cho rằng nó có giá trị rõ ràng cho những mục đích nghiên cứu trong nhân học. Trước hết, tôi nhận thấy nó giúp thỏa mãn kịp thời cho những trí óc tò mò để biết được những tranh luận đã được đưa ra về biểu tượng luận bởi các chuyên gia trong những lĩnh vực khác và trong phạm vi tài liệu mà họ bao quát. Thứ hai, một vài minh họa họ đưa ra giúp gợi ý gián tiếp về một số dữ liệu nhân học có liên quan, và có thể là những gợi ý đan xen trong quá trình xử lý. Cuối cùng, một số giả thuyết mà họ đưa ra về những tiêu chuẩn nhận dạng các biểu tượng, mối quan hệ giữa các biểu tượng chung và riêng, mối quan hệ biểu tượng hóa trong diễn đạt và giao tiếp đã cung cấp những thứ tương tự hoặc thách thức các quan điểm nhân học. Đó là chưa kể tới việc họ dường như luôn bỏ qua khía cạnh xã hội rất quan trọng đối với một nhà nhân học, và để đưa ra những khẳng định đối với nhà nhân học đó là ràng buộc văn hoá (culture-bound), hoặc “vị chủng” (ethnocentric). Vì vậy tôi nghĩ rằng hệ thống lý thuyết để khám phá biểu tượng luận của các nhà nhân học nên  bỏ qua sự tồn tại về mối quan tâm từ các lĩnh vực khác.

 

Từ sự bao la của những đóng góp học thuật tôi chỉ có thể đưa ra những lựa chọn mang tính cá nhân về một vài ví dụ mà theo quan điểm của tôi nó phù hợp với những vấn đề mà các nhà nhân học cần xem xét một cách căn bản. Chúng có thể có những đóng góp cho những nghiên cứu liên ngành còn rất hạn chế mà các nhà nhân học đã theo đuổi./.

 

(Bài đã đăng trên Tạp chí văn hoádân gian số 5, năm 2011)

 



* Vấn đề này cũng được đề cập đến trong lĩnh vực thương mại như một nhãn hiệu, ví dụ hãng bánh qui London (được cho là một nhà cung cấp có uy tín thông qua việc họ được bổ nhiệm như một thành viên của Gia đình Hoàng tộc) từ đó hãng này được gọi là Hãng bánh quy Biểu tượng, với nhãn hiêụ cái đầu voi.

* Lưu ý rằng một vài nghiên cứu gần đây đã được đưa ra để xác định lại vị trí của Thiên hoàng, đưa ông lên vị trí nguyên thủ quốc gia, theo đúng nghi thức ngoại giao và niềm kiêu hãnh của quốc gia Nhật (Cf, New York Times, 21/9/1971, 26/9/1971, 31/10/1971)

* Các trích dẫn đề cập đến Ernest Bevin lấy từ Roy Jenkins, The Times, 9/6/1971; Những gì quan tâm đến Thư viện Johnson là từ Ada Louise Huxtable, New York Times, 23/5/1971.v.v...

* Nguyên văn: Cast into outer darkness – thành ngữ tiếng Anh - ND.

* Chi tiết hơn và được thuật lại trong các hoạt động mang tính lễ nghi của Raymond Firth, 1967a, 209-11, 218-20, 234, 245; 1970a, 117- 19, pl.I

* Năm 1956, tại cuộc gặp gỡ ở Philadelphia của Hội nghị Dân tộc học Quốc tế, bản thân tôi đã phát biểu rằng các nhà nhân học ít quan tâm một cách cụ thể tới biểu tượng luận. Trái lại, Rodney Needham gần đây đã viết “ngày nay, khi ở đó có một sự nở hoa trong sự quan tâm tới tất cả các dạng thức của biểu tượng luận” (trong Hocart, 1970, xxix).

 

 

 

Đinh Hồng Hải
Số lần đọc: 2223
Ngày đăng: 13.02.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Văn-Hóa Việt-Nam 12b - Nguyễn Thế Thoại
Hành trình mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều - Hồ Bạch Thảo
Cấu Trúc Luận Trong Nghiên Cứu Biểu Tượng: Từ Ký Hiệu Học Đến Nhân Học Biểu Tượng - Đinh Hồng Hải
Ý nghĩa nhân tính trong văn hóa Cổ Hy lạp - Nguyễn Đăng Trúc
Văn-Hóa Việt-Nam 12 - Nguyễn Thế Thoại
Sự Ám Ảnh Của Văn Hóa Nông Nghiệp Và Môi Trường Sông Nước Trong Ngôn Ngữ Việt Nam - Mai Bá Ấn
Khám Phá Những Biểu Tượng Trong Văn Học - Đinh Hồng Hải
Quan Niệm Về Thơ Trong Lý Luận Phê Bình Văn Học Đô Thị Miền Nam 1954 – 1975 - Trần Hoài Anh
Văn-Hóa Việt-Nam 11 - Nguyễn Thế Thoại
Văn-Hóa Việt-Nam 10 - Nguyễn Thế Thoại