Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
773
116.612.581
 
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 9
Nguyễn Đăng Trúc

Có Tài, mà cậy chi tài!

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

 

Chữ ở giữa câu "có tài mà cậy chi tài!" dấy lên hai nhận xét khác nhau:

"Có tài" hai chữ nầy xác định một hiện trạng. Chữ hàm ngụ một vật mình đang là sở hữu chủ và thuộc quyền sử dụng của mình. Nguyễn Du xác nhận "tài" nầy như một yếu tố cấu tạo nên bản tính con người có thân.

Yếu tố đó sách Trung Dung gọi là: Mừng, giận, thương, vui chưa phát ra, ấy là Trung [1]. Tác giả không truy cứu những khả năng đặc loại của chữ Tài nầy như khả năng tình cảm, ý chí, hay trí năng...để đưa ra những học thuyết duy lý, duy chí, duy cảm,... như truyền thống triết học khai thác. Chữ Tài được nêu lên hàm ngụ toàn bộ khả năng con người có thể có trong tay; và điều đáng suy nghĩ và đưa vào lãnh vực của tư tưởng lại ở phần sau chữ : cậy chi tài!

Và chữ Tài trong cuộc chiến với Mệnh là nội dung của chữ "cậy tài" nầy.

Tài tự nó không tư tưởng gì cả, như câu nói của Heidegger, "Khoa học không tư tưởng gì ráo", vì tư tưởng không phải xác định hay triển khai "tài" của mình có, nhưng là tra vấn về tương quan làm nên chân tính. Khi "cậy tài", nghĩa là chỉ biết đến cái tài của mình đang có, để tự sản xuất ra kẻ khác theo ý mình và tự thiết định các mối tương quan giả tạo, bấy giờ đúng là tai họa. Chữ tài trong câu "chữ tài liền với chữ tai một vần" không những là "cậy tài", mà còn hàm ngụ "Khả tính con người cậy tài".

Chính khả tính có thể sai lầm nầy là câu chất vấn thống thiết nhất của con người kêu lên Trời xanh về gánh nặng tự do bám lấy thân phận con người [2], đồng thời cũng là thách đố buộc con người phải uy dũng hoàn thành thân phận mình trong chân tính.

 

 

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn Trời gần trời xa.

 

Chữ "Thân" nhắc lại nội dung "người có thân" ở câu thứ 2 (tức câu 3242) trong phần tổng luận. Ở đây nó cũng có nghĩa là chữ "mình". Nhưng ngoài chủ đích dùng chữ "thân" cho liên vận trong câu thơ lục bát, chữ "thân" còn nói đến hình hài con người, có sinh có tử trong thời gian - không gian hữu hạn. "Thân" là thân phận tại thế của con người. Và vì thế chữ nghiệp ở đây gắn liền với các câu thơ đi trước: Nghiệp phải thực hành chân tính của mình trong cuộc chiến tài-mệnh, nghiệp có thể lầm lạc.

Câu "Cũng đừng trách lẫn Trời gần trời xa" không phải là lối an ủi hay khuyên nhẫn nhục rán chịu đựng hết kiếp con người cho xong chuyện. Tâm tình đó trái ngược lại với cuộc đời lưu lạc đến cùng và duyên gặp gỡ trên sông Tiền Đường trong truyện Kiều.

Nội dung thực của nó là sự chối từ khung trời phán đoán của Tài về "Trời gần Trời xa" theo dự kiến riêng của mình. Trời chân thực mà con người cần thiết lập mối tương quan để thể hiện chân tính của mình không phải bất cứ một loại Trời nào do Tài sản xuất ra, nên việc trách cứ Trời gần Trời xa như thế không có căn cứ ở đâu cả.

 

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài

 

Chúng ta có thể lấy toàn bộ phần tổng luận nơi các câu thơ đi trước hai câu thơ nầy để đối chiếu với một câu duy nhất mà Đạo cô Tam Hợp đã trả lời cho Giác Duyên:

 

        Sư rằng: "Phúc họa đạo trời"  (câu 2655)

 

Và câu chúng ta đang nêu lên đây: "Thiện căn ở tại lòng ta" tương ứng với câu "Cỗi nguồn cũng bởi lòng người mà ra" (câu 2656).

Nhưng câu kế tiếp "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" không nằm trong khuôn khổ tranh chấp giữa Tâm Tài như đã trình bày về cuộc chiến Tài Mệnh. Đây là sự so sánh giữa hai cảnh vực hoàn toàn cách biệt.

Vì có sự đứt đoạn trong lối hành văn ở câu thứ hai nầy đối chiếu với các câu thơ đi trước, có tác giả giải thích rằng chữ Tài ở đây cũng mang một ý nghĩa hoàn toàn khác với chữ Tài được sử dụng trong toàn bộ Truyện Kiều. Chữ Tài được hiểu như là một yếu tố kết dệt nên nhân tính trong tam tài Thiên-Địa-Nhân. Và chữ "mới bằng" trong câu thơ lại được hiểu là tương hợp hay tương đương.

Theo thiển ý chúng tôi, một mặt Nguyễn Du không hề nêu lên một chữ tài nào như một yếu tố trong tam tài Trời-Đất-Người cả. Chữ tài trong câu thơ "có tài, mà cậy chi tài!" là nói đến toàn bộ tài năng con người, mà con người có sẵn. Chữ tài ấy cũng không thể xếp vào nội dung Tam tài như những chiều kích mở ra làm nên nhân tính. Mặt khác lối nói "mới bằng ba" hay bằng mười lần, trăm ngàn lần, đều có nghĩa như nhau; như thế chữ ba vô định nầy khó lòng ghép vào chữ Tam trong Tam Tài. Và rốt ráo hơn cả là sự nhất quán tư tưởng của toàn tác phẩm Đoạn-Trường Tân Thanh: Tài luôn là mối nguy cơ, mà Nguyễn Du muốn cảnh tỉnh con người và xã hội... Câu thơ nầy có thể nói cách khác: Cảnh vực giác ngộ Chân tính của Tâm thì khác xa và đáng giá muôn muôn lần so với cảnh vực giả tạo của Tài

 

 

Thiện và Tâm

 

Hai chữ nầy dùng lại hoàn toàn tiếng Trung hoa. Tuy chữ Thiện có thể dịch là tốt lành, nhưng trong phần chú thích của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, hai vị nầy chỉ giải thích "Thiện căn là cái gốc Thiện" [3]. Qua lối giải thích đó, ta thấy chữ Thiện như đã quen thuộc không những với các bậc Nho gia, mà ngay cả trong ngôn ngữ dân gian

Tâm thức chung để đánh giá con người ưu tiên dựa vào tiêu chuẩn "Thiện".

Nếu ba giá trị tối thượng thường được nhắc đến trong các nền văn hoá nói chung là Chân, Thiện, Mỹ, thì chúng ta cũng ngạc nhiên là Mỹ và Chân thường ít được lưu ý trong mối bận tâm của văn hoá Việt Nam chúng ta. Trong ngôn ngữ Việt Nam thường dùng, ta thấy khó lòng áp dụng chữ Thiện cho một vật nào ngoài con người và thần thánh. Người ta có thể nói gỗ nầy là gỗ thật, cái bàn nầy đẹp, nhưng khó lòng nói rằng con gà nầy tốt lành. Nếu có dùng chữ nầy thì ít nhất nó hàm ngụ việc nhân cách hoá hay chỉ một tương quan nào đó với con người. Hơn thế nữa khi dùng chữ Thiện đượcViệt Nam hoá thì chữ "tốt từ chữ Thiện" chỉ nhằm nói đến cảnh vực riêng của con người mà thôi.

 

Bấy giờ ta có thể đối chiếu hai câu:

 

Thiện căn ở tại lòng ta                           (câu 3251)

Và Cội nguồn, cũng bởi lòng người mà ra

                                                                (câu 2656).

 

Thiện cănCội nguồn được dùng trong hai nơi, trước hết không phải là nền tảng để từ đó có nhận thức hay đánh giá một cái gì bất kỳ, nhưng nằm trong khuôn khổ chân tính của "Cõi người ta".

Thứ đến theo nội dung nhất quán của bản văn, cõi người ta được nêu lên để tra vấn về chân tính của nó, không đặt nền trên câu hỏi cái gì, thuộc phạm trù bản chất, nhưng kết dệt bằng những mối tương quan, đặc biệt là tương quan Trời và Người.

Đây là điểm quan trọng để thấy sự khác biệt về lối đặt vấn đề tư tưởng của Nguyễn Du và triết học Tây phương dựa trên nền tảng hữu thể học truyền thống.

"Thiện", "Tốt lành" trong truyền thống triết học là một thuộc tính của Hữu thể. Hữu thể tối thượng cũng có tính Thiện tối thượng được hiểu là một cái gì hiện hữu tự tại, bền vững, không nương tựa vào bất kỳ cái gì khác, hay tương quan với cái gì bất kỳ. Nói cách khác tự thân, hữu thể tối thượng hoàn hảo. Con người dựa trên hữu thể tự tại đó để định nghĩa hữu thể của mình; và hữu thể còn được hiểu là có lý tính, nên trong khuôn khổ triết học truyền thống Tây phương thuộc tính Thiện phải đáp ứng những đòi hỏi thiết yếu sau đây:

 

  • Thiện phải qui chiếu vào chân lý thuộc hữu thể lý tính.
  • Thiện là tự hoàn thành bản tính thường trụ của mình nơi mình và cho mình.

 

Như thế, ta thấy cái biết đi trước và đặt nền hay hướng dẫn hành động để có thể đánh giá rằng hành động có ăn khớp với hiểu biết hay không; khi có sự trùng hợp giữa tri và hành thì đó là thiện. Từ đó sẽ triển khai có được một bộ môn học truy cứu về thuộc tính Thiện nầy gọi là đạo đức học, đi sau hữu thể học và luận lý - tri thức học.

Và khi quay trở lại với chữ "Thiện", hay Đạo-Đức (Lão Tử) trong truyền thống suy tư khác với truyền thống triết học dựa trên hữu thể học nầy, thì người ta đánh giá rằng đây chỉ là một loại suy tư thực tiễn, chưa phải là triết học đúng nghĩa. Nhận xét của Dương Quảng Hàm về sự thiếu vắng một nền "quốc học" trong truyền thống văn hoá Việt Nam có lẽ cũng nằm trong lối đánh giá đó.

Trong Đoạn Trường Tân Thanh, ưu tư nền tảng của tư tưởng không phải câu hỏi về bản chất sự vật nhưng là nỗi khắc khoải về tâm trạng bất cập của mình trước yêu sách về mối tương quan mà tự mình không thiết định được. Nên Thiện đây không phải là một thuộc tính bởi bản chất của cái gì, dù là trời được hiểu như một vật bất động, cộng thêm trăm nghìn thiện tính khác mà con người có thể nghĩ ra để gán cho Bản tính tự tại nầy; cũng không phải là đặc tính của một hành vi ăn khớp với lý tính làm nên bản tính con người (như Kant chủ trương). Nhưng Thiện là Chân tính con người tại thế được hoàn thành trong mối tương quan Trời-Người. Từ Thiện căn nầy mọi cái tốt mới múc lấy sinh lực của nó. Cũng trong dòng tư tưởng nầy thánh Augustinô nói rằng:

 

Hãy yêu, rồi làm gì  thì làm

 

"Yêu" ở đây là tương quan được thiết lâp, từ đó mọi sinh hoạt con người sẽ mặc lấy sinh lực của "yêu". Như thế "Thiện" là sự sống, là động từ chứ không phải một vật bất động làm đối tượng cho nhận thức.

Ở đây không còn nói đến Mệnh để đối nghịch với "Tài", vì hai câu ta đang phân tích (câu 3251-3251) diễn tả một phán quyết chung mãn. "Tài" là con người tự mình mở ra một tương quan giả tạo, tiếng vọng của Chân tính trong Mệnh là phủ định, một mặt khước từ toàn bộ con người cô độc và tự mãn đó (con người lầm lạc hay thế giới giả tạo), mặt khác cảnh giác con người về sự có mặt nhưng ẩn kín của chân tính là tương quan. Ở đây "Tài" đã đến thời chấm dứt, như con người đã chết con người lưu lạc của mình trên sông Tiền Đường, và một cuộc sống mới, khác, mở ra và bấy giờ Đạo cô Tam hợp lên tiếng về cội nguồn là chân tính.

Chân tính, Thiện căn hay tương quan nền tảng đó không phải người gần Trời hay người xa Trời, khi trời cũng như người được hiểu trong thế giới của "Tài". Nhưng Trời - Người gặp gỡ tại lòng ta, hoặc nói cách khác Tâm, lòng ta là nơi Trời - Người gặp gỡ.

Ở đây tác giả Nguyễn Du (trong câu tiếp) dùng chữ Tâm để lặp lại nội dung chữ "tại lòng ta". Tác giả như nêu lên câu nói bất hủ của kinh Thượng Thư:

 

"Tâm con người dễ sai trái, Tâm của Đạo lại tinh tế. Đạt được điều thiết yếu và nguyên sơ cần giữ lấy gốc bên trong" [4] .

 

Thực vậy, câu "Thiện căn ở tại lòng ta" dễ đưa đến ngộ nhận, khi hiểu "lòng ta" đây là ý muốn riêng tư của mỗi người, hoặc tâm thức đổi thay tùy hoàn cảnh. Nói cách khác cái gì ta thích thì ta làm, đó là điều tốt nhất! Nhưng một mặt toàn bộ tác phẩm, tác giả đã gián tiếp trình bày sự khác biệt của "nhân tâm" và "đạo tâm" đúng như trong Kinh Thư: "Tài" đúng là "nhân tâm" theo nghĩa tiêu cực mà Kinh Thư nêu lên. Mặt khác vì trong câu "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" đã hàm ngụ sự khác biệt đó.

 

Tuy ta có thể hiểu được Tâm ở đây là "Tâm đạo", Đạo tinh tế vượt lên trăm ngàn lần con đường đi của "Tài" hay nói theo Đạo Đức Kinh là "nhân vi", nhưng điều ta vẫn thắc mắc là hầu như vào câu kết tác giả mới vụt nói đến chữ Tâm, và để lửng  [5] .

Vũ Quỳnh trong truyện Họ Hồng Bàng đã nói đến Đạo Tâm và giải thích chu đáo hơn, qua chữ Tương Dạ [6],  đồng thời nêu rõ đấy là nơi hẹn hò của Long Quân với Âu Cơ và các con nàng.

Trong Đoạn Trường Tân-thanh, chỉ có một dấu vết nhỏ khác trong câu nói của Đạo cô Tam hợp (câu 2656): "Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra" tương quan với câu tiếp: "Có trời mà cũng tại ta" (câu 2657).

Như thế qua chữ Tâm trong tác phẩm nầy ta chỉ có thể thấy nội dung cô đọng được khai lộ:

Trước hết là chính ý nghĩa tượng trưng của chữ Tâm: Tâm là điểm chuẩn mà mọi yếu tố hay sinh hoạt phải qui về. Nhưng Tâm còn gợi lên rằng định chuẩn đó ẩn dấu và luôn ẩn dấu.

Nếu đối chiếu hai câu của Đạo cô Tam Hợp và hai câu đặc biệt nầy trong phần tổng kết, ta có thể hiểu Tâm qua câu "Có trời mà cũng tại ta".Tâm được hiểu là tương quan Trời-Người mà trách nhiệm tu dưỡng nó là phần vụ đặc biệt của con người.

Đạo Tâm không nhân bản hay thần bản, nhưng là sự cảnh giác để Nhân-Thần gặp gỡ trong "cõi người ta".

Và cuối cùng nếu đối chiếu với câu truyện Kiều, thì Tâm là Giác duyên, ơn cứu độ của Trời đến với con người để chấm dứt con đường của "Tài" và mở ra Trời mới-Đất mới của Thiện Căn; chốn cư ngụ của Thần Thánh. Tâm theo nghĩa nầy đúng là trăm ngàn lần hơn (= bằng ba) những gì tài trí con người có thể tạo ra.

 

 

Câu kết nghịch thường

 

Lời quê, chắp nhặt, dông dài,

Mua vui cũng được một vài trống canh (câu 3253-3254).

 

Đây là hai câu ngắn gọn Nguyễn Du sử dụng để kết luận toàn bộ tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh; kết luận đó cũng là lời tự đánh giá về tài năng văn chương cũng như nỗ lực xây dựng tư tưởng của mình.

Hai câu thơ phản ảnh những gì tiêu cực, tệ hại nhất mà bất cứ nhà phê bình nào cũng có thể dùng một trong các cụm chữ đó để loại bỏ giá trị của một bản văn:

 

Lời quê : hình thức văn chương cục mịch, thô thiển.

Chắp nhặt : ý tưởng rời rạc, thiếu mạch lạc.

Dông dài : lối diễn tả vụng về, nhàm chán.

Mua vui : sử dụng để làm trò hề cho thiên hạ.

Cũng được một vài trống canh : chữ cũng được nói lên giá trị không cần thiết, ngay cả trong việc mua vui. Trống canh vừa có nghĩa là khoảnh khắc ngắn, trong đêm hàm ngụ rằng không có giá trị sinh hoạt cho cuộc sống (= ban ngày), vừa gợi lên những trò giải trí phù du của lớp người được đánh giá là xướng ca vô loại.

 

Nói tóm lại, Đoạn Trường Tân Thanh được tác giả tự đánh giá là không có giá trị gì tích cực cả!

Phải chăng lối tự phủ nhận nầy là một lớp bùn giả tạo tác giả tự trét vào mặt mình để đánh lạc hướng con mắt xoi mói của vua quan nhà Nguyễn, hầu tránh tai họa cho sinh mạng và sự nghiệp của tác giả?

Từ chính những gì đã viết ra trong bản văn nầy, chúng ta có một số yếu tố để thấy thắc mắc trên có thể được nêu lên.

Trước hết, nhìn dưới khía cạnh xã hội, chính trị thì vai trò Từ Hải, một nhân vật tự xưng hùng, xưng bá nghịch lại với triều đình, đã được mô tả một cách tích cực như một nhân vật hào hiệp, mà Kiều thuận tình yêu thương và cảm mến. Bên cạnh đó là những người đại diện cho quyền lực chính thức đương thời là Hồ Tôn Hiến, Thổ quan, những nhân vật trí trá, vô tâm hèn nhát và ngu si.

Nhưng các yếu tố nầy đã có trong bản gốc từ tiếng Trung  Hoa, hơn thế nữa việc thẩm định thái độ khe khắt của vua quan Nhà Nguyễn đến mức nào từ phía tác giả cũng như về phía các nhà sử học còn là những xác xuất. Nên nếu đó là một lý do buộc Nguyễn Du phải gượng gạo thêm hai câu cuối nầy vào tác phẩm của mình, thì không phải là không có căn cứ nhưng chúng ta sẽ thấy còn nhiều yếu tố khác nữa.

Nhìn từ những câu thơ viết ra trong tác phẩm nầy liên quan đến hai câu thơ cuối, ta lại có một chứng lý khác. Trong cuộc gặp gỡ trong đêm với Kim Trọng, sau khi được Kim Trọng ca tụng về bốn câu thơ Kiều phẩm đề trên bức họa treo ở nhà chàng, Kiều tâm sự:

 

Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,

Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?

Nhớ từ năm hãy thơ ngây.

Có người tưởng sẽ đoán ngay một lời.

Anh hoa phát tiết ra ngoài,

                   Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa

                                                                                 (câu 411-416).

 

Nếu mượn lấy nhân vật Kiều trong hoàn cảnh nầy để diễn tả tâm sự của mình, thì Nguyễn Du chắc hẳn cho rằng Đoạn Trường Tân Thanh đúng là nét tinh hoa do tài năng xuất chúng của ông đã được ông thực hiện. Nhưng trong tương quan nhân quả má đào - mệnh bạc, "anh hoa" đã phát tiết ra ngoài thì hẳn phải gặp nghiệp chướng hoặc cho sinh mệnh ông, hoặc cho số phận bèo bọt của tác phẩm, ông mạnh dạn đi bước trước tự hủy công trình của mình, hoặc giả phá được nghiệp chướng chăng? Nhưng bên ngoài những viện dẫn lý do có tính cách tâm lý và xã hội, chúng ta thử đi vào chính sự nhất quán tư tưởng của toàn tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh mà chúng ta đã phân tích, để mở ra những lời giải thích khác.

Trước hết là khung cảnh của nền văn hoá Á Đông mà Nguyễn Du chịu ảnh hưởng và phản ảnh ra trong hai câu thơ nầy.

Khung cảnh văn hoá đó yêu sách một thái độ khiêm nhu nơi kẻ sĩ, cũng như đánh giá như lời văn, chữ viết chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ so với sự sinh hoạt phong phú của Đạo trong cuộc sống con người.

Thái độ khiêm nhu có khi trở thành một qui ước xã hội, và được sử dụng như một lối đề cao mình một cách giả tạo. Nhưng dù nó có bị méo mó đến đâu, thì cá nhân liên hệ hay xã hội cũng đã cảm nhận thái độ đó như một yêu sách. Khiêm nhu được xem là một thái độ đạo đức của kẻ sĩ, vì đằng sau thái độ nầy là sự chân nhận thân phận hữu hạn của con người trước chân lý mà không ai là sở hữu. Con người có thể tìm hay gặp Chân lý, chứ chưa ai là Chân lý hay tạo ra Chân lý cả. Khổng Tử đã truyền đạt lại Chân lý vốn từ Đại-ký-ức, Phật đã gặp Chân lý mà không gọi tên được; Lão dứt khoát phân biệt Đạo do bất cứ ai bày ra như con đường nhân vi giả ảo và Đạo thường vốn vi diệu, nên đã từng nói:

 

Nên, thánh nhân làm

Mà không ỷ vào mình,

Xong việc thì không ở lại,

Không muốn ai thấy hiền đức của mình [7].

 

Trong trường hợp nầy của Nguyễn Du, sau phần Tổng luận nghiêm túc, trang trọng tưởng chừng như khuôn vàng thước ngọc mà tài năng ông có thể tạo nên được, thì tác giả cảnh tỉnh người đọc và cho chính cả tác giả.

Đây là Con Đường mà tác giả đã gặp; nhưng lối diễn tả do tài của tác giả về Con Đường nầy, đúng như thằng hề nhảy múa trước ngai vua, có một sự cách xa diệu vợi giữa TâmTài, giữa sự linh hoạt cao cả của Thiện căn và toàn bộ nổ lực văn chương mà tác giả dày công sáng tác. Hơn thế nữa, duyên của tác giả ngộ được Thiện Căn đến mức đó, nhưng so với chân tính của Đạo thì Con Đường còn tinh tế hơn trăm ngàn lần; và ngoài ra còn phải chân nhận những duyên khác đến với vô số con người trong cõi người ta.

Nên nếu đối chiếu với câu "Có tài mà cậy chi tài!" trong phần đi trước, cũng như toàn câu truyện của Kiều phải chết cả thế giới tài của mình để đến bên lề đạo Tâm, thì ta thấy lời tự phê của Nguyễn Du đối với tác phẩm của mình, không phải phần thêm vào một cách gượng gạo, nhưng đúng là lối dẫn nhập cho người đọc trước khi đi vào chủ tâm chính của tác giả: là tra vấn về chân tính con người tại thế, luôn vi diệu và luôn mãi làm mọi người thắc mắc.

Và điểm đặc biệt hơn cả, hai câu nầy giúp chúng ta thấy được cái khác biệt sâu xa nhất giữa giấc mơ đồng nhất hoá con người với Chân tính của Parménide đã khai mở nền hữu thể học của Truyền thống Triết học, và cảm thức chân thành về hữu hạn tính của con người tại thế thuộc cõi người ta.

 

 



[1] Trung Dung, chương I : Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi Trung.

 

[2] Xem quan điểm tự do của Dostoievski trong Nicolas BERDIAEFF,  l’esprit de Dostoievski, ed. Stock, 1974.

 

[3] Xem Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính và chú giải, bản in lần thứ tám, Tân Việt, Sàigòn x.b tr. 206, chú thích 7.

 

[4] I, Ngu Thư III, Đại Vũ Mô, 15 [Nhân tâm duy nguy; Đạo Tâm duy vi. Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung].

[5] Chữ Tâm theo nghĩa được dùng trong phần Tổng luận nầy chỉ được sử dụng một lần duy nhất ở đây. Trong toàn tác phẩm chữ Tâm được dùng đôi lần nhưng với những ý nghĩa khác:

 

Đã nguyền hai chữ đồng Tâm (câu 555)

Từ rằng: "Tâm phúc trương cờ (câu 2179)

Hai bên ý hợp Tâm  đầu (câu 2205)

Từ rằng: "Tâm phúc tương tri (câu 2219)

Tâm thành đã thấu đến Trời (câu 2717)

Mấy lời Tâm phúc ruột rà (câu 3183)

[6] Xem Nguyễn Đăng Trúc, Văn Hiến, Nền tảng của Minh triết, Định hướng x.b, 1996  [Tương Dạ = Đêm hay Lòng gặp gỡ])

 

[7] Đạo Đức Kinh , Thị dĩ thánh nhân; vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử, kỳ bất dục kiến hiền, chương 77.

 

 

Nguyễn Đăng Trúc
Số lần đọc: 5986
Ngày đăng: 09.11.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Edmund Husserl - Suy-Tư Trong Tinh-Thần Descartes- 3 - Nguyễn Quỳnh USA
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 8 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 7 - Nguyễn Đăng Trúc
Đọc và Fê-bình VĂN-FẠM LUẬN /DE LA GRAMMATOLOGIE, đoạn 3, của Jacques Derrida - Nguyễn Quỳnh USA
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 6 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 5 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 4 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 3 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 2 - Nguyễn Đăng Trúc
Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam: Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh 1 - Nguyễn Đăng Trúc
Cùng một tác giả
Nhớ Nguồn 1 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 2 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 3 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 4 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 5 (tiểu luận)