Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
682
116.543.180
 
Vài Cảm Nhận Về Môtip “Đôi Ta …”Trong Ca Dao Tây Nam Bộ
Trần Minh Thương

1. Môtip (tiếng Pháp: motif), theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, cho biết theo Hán Việt motip là mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng Pháp), có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật dân gian. (…) Ví dụ những bài ca dao Than thân của người phụ nữ đều mở đầu bằng câu công thức “Thân em”, “Thân em như thể”,

           

Theo Từ điển tu từ - phong cách – thi pháp học, Nguyễn Thái Hoà cho biết thêm “Trong nghiên cứu văn học có thể hiểu môtip nghệ thuật theo những cách sau:

- Chủ đề được lặp đi lặp lại;

- Trong thơ ca, môtip là biểu tượng mang giá trị tượng trưng.

 

2. Khảo sát những câu ca dao Tây Nam bộ trong công trình Bộ hành với ca dao do Lê Giang sưu tầm, sưu tập và biên soạn, chúng tôi nhận thấy có gần 60 bài ca dao xuất hiện bằng motip “Đôi ta …”. Dù cùng một dạng motip so sánh, song, xem xét kỷ từng nội dung, chúng tôi nhận thấy ở đó có nhiều điều thú vị đặc biệt.

 

Thứ nhất, xét về cập độ nội dung, “đôi ta” luôn chỉ đến hai người, là hai đối tượng trong tình yêu lứa đôi. Thoạt nghĩ, đôi ta đã là chuyện “sum hợp một nhà”! Nhưng thật độc đáo, ở ca dao cụm đại từ này không dừng lại ở đó. Nó biểu hiện đầy đủ tất cả các cung bậc của tình yêu lứa đôi:

Từ buổi ban đầu gặp gỡ, một người nào đó trong “đôi ta” thốt lên:

 

Đôi ta như đá với dao

Năng liếc năng sắc năng chiều năng quen

 

Hay bộc lộ một thái độ “mừng rỡ” không thể kèm nén:

 

Đôi ta bắt gặp nhau đây

Như con bò gầy gặp bãi cỏ non

 

Đã quen biết nhau, họ coi đây như “duyên tiền định”:

 

Đôi ta như đũa trong kho

Không tề không tiện không so cũng bằng

 

Tình đầu, duyên mới, sự trong trắng trinh nguyên được bộ lộ:

 

Đôi ta như áo mới may

Như chuông mới đúc, như cây mới bào

Và khéo léo ngõ lời:

Đôi ta mưa ướt áo rồi

Kiếm nơi đỏ lửa vô ngồi hơ chung

 

Họ dặn dò nhau:

 

- Đôi ta như lúa phơi màu

Đẹp duyên thì lấy ham giàu làm chi

- Đôi ta hát củi một rừng

Bứt dây một cội xin đừng nghe ai

Nguyện vượt mọi trắc trở, tìm đến nhau, hướng về nhau:

- Đôi ta như ruộng năm sào

Cách bờ ở giữa làm sao cho liền

- Đôi ta như thể đôi chim

Ngày ăn tứ tán tối tìm cội cây

 

Dù muôn vàn cách trở “đôi ta” cũng sẵn sàng nâng đỡ dìu dắt nhau đến cùng trời cuối đất:

 

Đôi ta như rắn liu điu

Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau

 

Còn đây một lời thề nguyền quen thuộc trong tình yêu lứa đôi:

 

- Đôi ta chung thuỷ vẹn tuyền

Xem lên mái tóc hương nguyền còn đây

- Đôi ta thề thốt giữa đàng

Vạch cây khắc chữ hỏi chàng nhớ không?

 

Đã đến lúc duyên tình bén lửa, “đôi ta” không thể chia xa nhau nữa, cung bậc “tương tư” cũng hiện lên thật đẹp:

 

Đôi ta gá nghĩa giữa đồng

Về nhà luống chịu nước mắt hồng tuôn rơi

 

Tình yêu nào rồi cũng đến hồi kết thúc, kết quả thì không phải một mà là hai:

Hoặc “đôi ta” làm con một nhà:

 

Đôi ta là nghĩa tào khang

Trăm năm vẹn giữ lòng vàng thuỷ chung

 

Họ luôn trọn thuỷ tròn chung dù muôn vàn khốn khó:

 

Đôi ta bá nghệ tuỳ thân

Sớm hái rau chiều đốn củi đỡ đần nuôi nhau

 

Hoặc chịu cảnh:

 

Đôi ta chẳng đặng sum vầy

Khác nào kiếp nhạn lạc bầy kêu sương

Nguyên nhân thì có nhiều, một trong số đó là:

Đôi ta như lúa đòng đòng

Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha

 

Hay như nguyên nhân gây ra là bởi “ai” trong “đôi ta” ấy!

 

Đôi ta mới gặp đã lìa

Trách ai bẻ khoá quăng chìa xa nhau

 

Bởi tại “trời”:

 

Đôi ta trắc trở tại ai

Trăng lu vì bởi đám mây chàng ràng

 

Tóm lại, motif “đôi ta” đã diễn tả khá đầy đủ các cung bậc trong tình yêu lứa đôi, điều lý thú hấp trong loại hình nghệ thuật dân gian: ca dao!

 

Thứ hai, về nghệ thuật, “đôi ta như …” thể hiển nổi biện hình thức so sánh tu từ.

 

Đôi ta như quế với gừng

Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau

 

Nhưng không chỉ có thế, môtip này cũng sử dụng nhiều hình thức khác:

 

Đôi ta xôi đứng “xứng đôi”

Khi đi cũng đẹp, khi ngồi cũng cân

 

Câu ca sử dụng biện pháp chơi chữ theo cách nói lái giữa hai thành tố: xôi đứng (động từ) để tạo ra hình tượng “xứng đôi” (tính từ). Từ chuyện “đôi ta” cùng thực hiện hành động đứng “đồ xôi” để họ nói lên điều cần thiết hơn, ngõ lời: đôi ta – xứng đôi!

So sánh với điển tích:

 

Đôi ta như nghĩa Châu - Trần

Khi xa ngàn dặm khi gần tấc gang

 

Sách xưa Trung Quốc chép rằng: Châu Trần nhị tính thế thế hôn nhân, nghĩa là  hai họ (có sách ghi là hai thôn) Châu và Trần đời đời kết hôn với nhau

 

Hay so sánh với mối tình Kim – Kiều, hai nhân vật quen thuộc của văn học viết (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

 

Đôi ta như Kim Trọng – Thuý Kiều

Đã lắm lúc đắng lại nhiều lúc cay

 

Mượn “mười lăm năm đoạn trường của hai nhân vật này để “đôi ta” nói lên cảnh tình “đắng cay” của chính họ!

 

Một môtip khác đi đôi chút với những điều mà chúng tôi đã đưa ra ở trên:

 

Đôi ta cùng một chữ nghèo

Tỷ như có bọt thì bèo lăn tăn

 

Không so sánh dạng “đôi ta như” quen thuộc mà đưa ra điểm chung của hai đối tượng được so sánh (đôi ta với bọtbèo) trước đó là “chữ nghèo”, thay “như” bằng “tỷ”, không khác motip nhưng hình thức diễn đạt thì đa dạng hơn.

 

Thứ ba, chúng tôi xin điểm qua các đối tượng dùng để so sánh với “đôi ta”. Đã nói là so sánh tất chúng phải có điểm chung và từ điểm chung nó giúp cho người đọc liên tưởng để tìm ra nét tương đồng. Có khi điểm chung ấy hiển hiện ngay trên câu chữ mà tác giả dân gian sử dụng:

 

Đôi ta như thể con ong

Con quấn, con quít con trong con ngoài

 

Điểm giống nhau giữa đôi ta với “con ong” là sự “quấn quít” từ con trong đến con ngoài ấy!

Nhưng phần lớn, sự liên tưởng giữa đôi ta và đối tượng so sánh bị giấu, bị ẩn đi:

 

Đôi ta như quế với gừng

Dù xa xôi mấy cũng dừng quên nhau

 

Quế với gừng luôn ở cạnh nhau, vị cay của hai loại thực vật này tạo nên cảm giác nồng ấm, … tất cả những điều đó được dùng “huy động” để liên tưởng đến tình “đôi ta”, …

 

Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở motip so sánh “đôi ta” có rất nhiều “đối tượng được đưa ra để người tiếp nhận liên tưởng. Từ những hình tượng dân dã, quen thuộc, đó là các con vật như rắn liu điu, như con bò gầy, như cá thờn bơn, như thể con ong, là đôi chim, … đó là các đồ vật: đá với dao, nút với khuy, như thể đồng tiền, như bộ chén chung, đũa trong kho … đó là các loài cây cỏ: như lựu với đào; như quế với gừng; như lúa đòng đòng; như lúa phai màu; như cỏ mọc hoang; … đó là như hình ảnh chung chung từ một cổ ngữ: như ngãi Châu – Trần (một điển tích); là ngãi tào khang (một từ cổ ẩn chứa một điển tích); như nghĩa ba sinh (từ Hán Việt, gợi chuyện trăm năm), ….

 

3. Vài dòng kết luận

 

Trí tuệ dân gian thật phong phú và sâu sắc, rất nhiều dạng thức cùng motip nhưng vẫn rất đa dạng, không hề trùng lặp, không tạo sự nhàm chán.

 

Những hình ảnh quen thuộc, gần gũi giản dị của cuộc sống thường nhật trở nên lung linh, đa sắc thái khi đi vào nghệ thuật so sánh. Bên cạnh đó, những từ Hán Việt, những điển tích trong sử sách càng làm cho những viên ngọc dân gian thêm chói sáng bởi sự tiếp thu sắc nét từ văn chương bác học./.

 

Trần Minh Thương
Số lần đọc: 3482
Ngày đăng: 23.01.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Sự Tồn Tại Của Nền Văn Chương Mỹ Latinh - Phạm Quang Trung
Con Đường Đi Tới Nhân Loại Của Văn Chương Mỹ Latinh - Phạm Quang Trung
Văn học miền Nam - Thụy Khuê
Thi Ca Và Sáng Tác. 4 - Khổng Ðức
Thi Pháp Học – Lịch Sử Và Vấn Đề - Đỗ Ngọc Thạch
Báo chí và phê bình văn học - Huỳnh Như Phương
Thi Ca Và Sáng Tác. 3 - Khổng Ðức
Văn Xuôi Mới Mỹ Latinh. 1 - Phạm Quang Trung
Văn Xuôi Mới Mỹ Latinh. 2 - Phạm Quang Trung
Các Thời Kỳ Văn Học Miền Nam 1963-1975 - Trần Văn Nam
Cùng một tác giả
Thể loại văn tế (tiểu luận)