Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
513
116.603.047
 
Để vinh danh truyện Kiều
Khải Nguyên

"Một người làm thơ đi sang Tàu cùng vợ thăm quê gốc của vợ -vốn người gốc Hoa và cũng làm thơ, về nói rằng ở bên đó họ bảo Truyện Kiều (TK) của Nguyễn Du là ‘cóp pi' Kim Vân Kiều truyện (KVK) của Thanh Tâm tài nhân" (Cái từ "cóp pi" dùng theo kiểu trước đây, tỉ như: "cậu học trò này chuyên cóp pi bài của bạn").

 

Ông bạn cho tôi biết thế và tức bực nói thêm: "Anh ta nói một cách khoái chí, mà không chỉ nói một lần!"

Khổ! Ông bạn bực tức mà chi! Chẳng phải cho đó là những "sàm ngôn" chẳng đáng để tâm, mà cần ngẫm về phía chúng ta, những người muốn vinh danh TK. Nếu không nói cho tách bạch thì việc vinh danh như ta thường làm có thể có những chỗ lấn cấn, có khi gây tác dụng ngược. Nhiều chỗ đề cao có thể bị "phản biện".

 

Để "bảo vệ" tác giả TK, có những ý kiến viện các tác giả phương Tây như Raxin (Racine), Coócnây (Corneille), Sêchxpia (Shakespeare), ... vẫn mượn cốt truyện của nước ngoài để sáng tác. Thực ra, không đơn giản như vậy. Thường là các tác giả này chỉ mượn tích truyện. Hoặc "kĩ " hơn như, chẳng hạn, trường hợp Ôtenlô của Sêchxpia. Để viết vở kịch này, Sêchxpia đã dựa vào tác phẩm Người Mô thành Vơnidơ của Xintiô (nước Ý) nhưng có điều chỉnh cốt truyện, mạch truyện, lược bỏ, thay đổi một số tình tiết, đưa vào những vấn đề mới, nhân vật mới cùng tính cách xã hội của họ. Trong khi TK của Nguyễn Du hầu như giữ nguyên cốt truyện, mạch truyện  KVK của Thanh Tâm  tài nhân.

 

Có người khi đề cập, viện dẫn TK đã viết, chẳng hạn, "xã hội VN trong TK", "con người VN trong TK", thậm chí "Nguyễn Du đã để cho Từ Hải chết đứng", v. v... Rõ là "tôn nhau như thế bằng mười hại nhau"! Khỏi nói chuyện Từ Hải chết đứng chẳng phải do Nguyễn Du tạo ra, xã hội trong TK, con ngưòi trong TK trước hết là ở Trung Quốc. Chẳng hạn, trong các thư tịch VN cổ dường như không thấy có các "nhà thổ" rất đàng hoàng nhan nhản trong các sách truyện TQ, mà chỉ thấy thấp thoáng "nhà trò" hát ca trù (ả đào) thường khi còn lưu diễn theo lời mời (thuê) tới các nơi hội hè hoặc nhà riêng. Chẳng hạn, người Việt mình cũng có tục tảo mộ vào tiết Thanh Minh, nhưng không nghe nói có hội Đạp Thanh "ngựa xe như nước, áo quần như nen". Chẳng hạn, cảnh sống của các nhà họ Vương, họ Thúc, họ Hoạn không phản ánh cảnh sống trong xã hội VN ... Tất nhiên, một tác phẩm đích thực bao giờ cũng mang dấu ấn xã hội và thời đại mà nó ra đời lồng trong cảm quan của tác giả, trong trường hợp TK là xã hội VN cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19. Xã hội phong kiến VN có những nét tương đồng với xã hội phong kiến TQ do bị ảnh hưởng dài lâu, nhưng không vì vậy mà nhận (nhầm) những gì chẳng phải là sáng tạo của Nguyễn Du.

 

Nếu nói theo hình thức thì có thể coi TK là tác phẩm chuyển ngữ và chuyển thể từ KVK, -chuyển ngữ chữ Hán sang tiếng Việt và chuyển thể văn xuôi ra thơ lục bát. Đó là nói kiểu ngày nay, chứ chắc hẳn Nguyễn Du chẳng có ý làm cái việc dịch KVK ra tiếng Việt mà muốn mượn chuyện người để kí thác nỗi đau đời, nỗi bức xúc nội tâm của mình. Do vậy, không thể đánh giá TK như một tác phẩm dịch thông thường mà tiêu chuẩn hàng đầu là trung thành với nguyên tác. Trong TK, nhiều tình tiết ở KVK đã bị thay đổi, thêm bớt hoặc loại bỏ, một phần do chuyển thể loại (từ văn xuôi sang thơ, lại là thơ lục bát); song phần quan trọng hơn, quyết định hơn, là do cảm quan nghệ thuật. Đọc hai tác phẩm thấy rõ mạch truyện TK "suôn sẻ" hơn, chẳng phải chỉ vì KVK chia ra chương hồi và đầu mỗi hồi có lời bàn luận dông dài. Về miêu tả, trần thuật, tự sự nói chung, văn xuôi có lợi thế hơn thơ; thế mà về những mặt này, TK làm tốt hơn KVK nhiều. Không ít bài nghiên cứu trên các sách báo đã bàn đến, đã chỉ ra.

 

Nhiều nhân vật trong KVK nếu không có TK thì không thể trở thành "bất tử" ở VN được. Cô Kiều của Thanh Tâm tài nhân lắm lời, hay lí sự, không đáng yêu mấy; còn nàng Kiều của Nguyễn Du sắc sảo mà tinh tế, giàu nữ tính, có đời sống nội tâm sâu sắc, đáng yêu và đáng trọng, dễ được cảm thương... Tính cách của nhân vật trong TK nổi rõ qua những nét mô tả chấm phá -có khi ước lệ, qua các hành động, qua đối thoại, qua suy cảm nội tâm và qua cả "đối cảnh sinh tình". Có những nhân vật phụ mà lại "nổi tiếng", đi vào thành ngữ tiếng Việt hoặc trở thành danh từ chung: có máu Hoạn thư, đồ Sở Khanh, sa vào tay Tú bà,... Có thể có người sẽ hỏi: "Chẳng phải những điều đó đều đã có trong KVK sao?".

 

Không đâu! Chỉ xin đơn cử trường hợp Tú bà, hãy chỉ nói  việc mô tả thôi. Tú bà trong KVK là "một mụ chừng ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn to béo, mặt mũi cũng hơi trắng trẻo, ra đón và nói: -Kiều con! ..." , còn trong TK là một người "nhờn nhợt màu da, ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao", "lơi lả han chào", và rồi "vắt nóc lên giường ngồi ngay",... Chân dung trước là một mẩu tả chân có thể gặp những nét tương tự ở nhiều tác phẩm, chứ chân dung sau là những nét biếm họa khó tìm thấy ở đâu khác.

 

Trái với cảnh trong KVK hiếm và sơ sài, mờ nhạt, cảnh trong TK phong phú, đa dạng  và như là những nét phác thảo tranh; cảnh quyện vào tình,... Tác giả TK khéo mượn cảnh thiên nhiên, trong đó có cảnh trăng, để làm nền, làm "chứng nhân" cho diễn tiến câu chuyện, nhất là cho tình cảnh, tâm trạng của nhân vật, cũng có khi để nói lên tâm trạng, cả tính cách nữa, của nhân vật. Có lẽ cũng nên nói thêm một điều: Nhiều cảnh trong TK là cảnh bên Tàu, không phải cảnh tả chân mà là cảnh ước lệ như trong nhiều thơ văn TQ cổ, nhất là thơ Đường. Cái cảnh "rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san" là sáng tạo của Nguyễn Du nhờ chịu ảnh hưởng thi tứ thơ Đường, rõ ràng chẳng phải là cảnh ở VN; nhưng cảnh sắc đất Việt hẳn phải in đậm trong tâm hồn Tố Như và do đó in dấu trong các tác phẩm của ông. Câu thơ "Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia" làm ta nhớ đến những dải cát dằng dặc miền Trung ven biển Bình-Trị-Thiên, mà sinh thời chắc thi sĩ đã không ít lần đi qua.

Tả tình trong TK có tác động rất lớn đến sự cảm thụ của người đọc. Tả đúng chỗ, đúng người, đúng cảnh, sâu sắc, nhuần nhị, có khi nâng mạch truyện lên. Tả tình trong KVK lớt phớt, khô khan, nhiều lúc lướt qua, dù vui dù buồn.

 

Về ý tưởng, chủ đề của TK, một số vị mang đầu óc của thần dân "con trời" cho rằng y chang của KVK. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu VN, và cả TQ, đã chỉ ra chỗ khác nhau, nhưng chưa có được tiếng nói chung. Gần đây, Nguyễn Thanh Hằng trong cuốn "Nghệ thuật tái tạo nhân vật Kiều trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du" (Nxb Thanh niên, 2003) có đưa ra ý kiến: Chủ đề của KVK là "tình yêu tài tử giai nhân, con người kĩ nữ,con ngưòi trung nghĩa," và  Chủ đề của TK là "tài - mệnh",  (không phải "tài mệnh tương đố") với "tài là năng lượng, bản chất, là sức sống, sức vươn dậy kiên trì, bền bỉ để làm người mặc dù luôn bị ám ảnh về số mệnh"  và "mệnh là một cái gì vô hình, vô ảnh, tai ác, khắc nghiệt, định sẵn, bất di bất dịch, là cái không thể tránh được, không thể thay đổi được...". Ý kiến này có vẻ là một "đột phá", tôi nêu ra đây để bạn đọc tham khảo, chứ tán đồng lại là chuyện khác.

 

Về nghệ thuật ngôn từ, sáng tạo của nhà thơ đất Tiên Điền khó ai phủ nhận. Ông đã đưa thơ lục bát và truyện thơ VN lên đỉnh cao rực rỡ.

 

Nếu như Chinh phụ ngâm của Đoàn thị Điểm (?) chuyển ngữ (chữ Hán ra chữ Nôm) và chuyển thể (thơ "Trường đoản cú" ra thơ "song thất lục bát") từ Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn vẫn được coi là một sáng tác phẩm tuyệt cú thì với TK của Nguyễn Du không thể sao? Chinh phụ ngâm của Đoàn thị Điểm là bản dịch đúng nghĩa, cũng như Tì bà hành mà Phan Huy Vịnh (?) dịch của Bạch cư Dị. Còn TK của Tố Như chẳng phải là "bản dịch" đơn thuần!

 

Vấn đề của bài này là vấn đề của những cuộc nghiên cứu qui mô và dài hơi, nhiều người đã làm, và chắc còn cần nhiều người tiếp tục làm nữa. Đó phải là những công trình trong các tập sách chứ không thể là tầm một bài báo nhỏ. Tôi chỉ mạo muội đưa ra vài ý mọn bàn góp mà thôi. Cốt để trao đổi và để được nghe những lời chỉ giáo.

 

Và... để được thấy ông bạn của tôi, thay vì bực tức, lại cất tiếng cười khà./.

 

Hải Phòng, 9 - 2009

Khải Nguyên
Số lần đọc: 2393
Ngày đăng: 15.04.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tiếp nhận Trường phái hình thức Nga từ một chuyên luận khoa học - Hồ Thế Hà
Lạm bàn về Minh triết - Hà văn Thùy
Viết truyện theo hư cấu đời thường, hư cấu khả thể, và hư cấu phi thực - Trần Văn Nam
Phía trước còn lắm gieo neo - Phạm Quang Trung
Góp thêm cách hiểu về thể loại chức năng và nội dung của bản dịch Chinh phụ ngâm khúc - Trần Minh Thương
Héloise và Abélard - Hamvas Béla
Nghĩ về thơ biểu cảm và thơ biện luận - Trần Văn Nam
Phục sinh và gọi hồn - Nguyễn Ước
Hình tượng đôi mắt trong thơ Quang Dũng - Trương Quang Cảm
Nghĩ về kết cấu chặt chẽ ở thể truyện ngắn - Trần Văn Nam
Cùng một tác giả
Tĩnh vật (truyện ngắn)
Sông Phố (truyện ngắn)
Vào Hang Bắt Cọp (truyện ngắn)
Mây Núi Sapa (truyện ngắn)
Không đề (truyện ngắn)
Phận (truyện ngắn)
Nợ trần (truyện ngắn)
Li hương (truyện ngắn)
Dây Mơ (truyện ngắn)
Thiên Truyện Bỏ Dở (truyện ngắn)
Giấc Mơ Bọ Ngựa (truyện ngắn)
Cái hạt (truyện ngắn)
Hoàng hôn pha lê (truyện ngắn)
Nụ Hôn Muộn (truyện ngắn)
Ông Nọi (truyện ngắn)
Truyện Khó Đặt Tên (truyện ngắn)
Lần Vết Giai Thoại (truyện ngắn)
Chim Gõ Kiến (truyện ngắn)
Tìm Dâu Thảo (truyện ngắn)